Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

SỰ KHÁC NHAU VỀ ĐIỀU KIỆN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC NUÔI CON NUÔI TRONG CHƯƠNG NUÔI CON NUÔI THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 VÀ LUẬT NUÔI CON NUÔI NĂM 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.5 KB, 12 trang )

MỤC LỤC :

A. LỜI MỞ ĐẦU.

1

B. NỘI DUNG.

1

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC NUÔI CON NUÔI.

1

II. SỰ KHÁC NHAU VỀ ĐIỀU KIỆN VÀ HẬU QUẢ PHÁP
LÝ CỦA VIỆC NUÔI CON NUÔI TRONG CHƯƠNG NUÔI
CON NUÔI THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
NĂM 2000 VÀ LUẬT NUÔI CON NUÔI NĂM 2010.
1.SỰ KHÁC NHAU VỀ ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆC NUÔI CON NUÔI:

2
2

2. SỰ KHÁC NHAU VỀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC NUÔI
CON NUÔI.

7

C. KẾT BÀI.

10



1


A. LỜI MỞ ĐẦU.
Nuôi con nuôi trong xã hội ngày nay là một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu trong
các quy định của pháp luật cũng như trong cuộc sống đời thường. Với nhiều lý do,
mục đích khác nhau mà quan hệ nuôi con nuôi đã được hình thành nhưng trên hết
vẫn là tấm lòng yêu thương đồng loại, tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống của nhân
dân ta, việc làm này thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, tình yêu thương, tinh thần trách
nhiệm, sự tương thân tương ái giữa con người với con người, là biện pháp tích cực
giúp đỡ trẻ em không nơi nương tựa có mái ấm gia đình, được chăm sóc và phát
triển trong điều kiện tốt nhất. Để đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan và mục
đích của việc nuôi con nuôi được thực hiện có hiệu quả tốt nhất thì pháp luật Việt
Nam đã đưa ra những quy định về điều kiện và hậu quả pháp lý của việc nuôi con
nuôi trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và được kế thừa, phát triển hơn
nữa trong Luật nuôi con nuôi năm 2010. Để làm rõ vấn đề quan trọng này, em xin
trình bày những sự khác nhau, điểm tiến bộ của Luật nuôi con nuôi năm 2010 so
với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Do sự hạn chế về kiến thức và hiểu biết
nên bài làm còn nhiều sai sót. Kính mong sự đóng góp ý kiến của thầy cô để bài
làm được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

B. NỘI DUNG.
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC NUÔI CON NUÔI.
Trước hết, ta cần hiểu một cách chính xác khái niệm nuôi con nuôi là gì.
Theo pháp luật hiện hành, tại Khoản 1 Điều 3 Luật nuôi con nuôi 2010 quy định: “
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi và
người được nhận làm con nuôi”. Theo đó, Nhà nước bảo hộ quyền nuôi con nuôi và
quyền được nhận làm con nuôi theo quy định của Luật này và các quy định khác
của pháp luật có liên quan.


2


Tại Điều 2 Luật nuôi con nuôi năm 2010 đã quy định về mục đích nuôi con
nuôi như sau: “Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài,
bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con
nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình”.
Việc nuôi con nuôi theo pháp luật hiện hành được thực hiện theo những
nguyên tắc được quy định tại Điều 4 Luật nuôi con nuôi năm 2010:
- Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống
trong môi trường gia đình gốc.
- Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được
nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân
biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
- Chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không thể tìm được gia đình
thay thế ở trong nước.
Những nguyên tắc này là căn cứ của pháp luật hiện hành giúp các nhà làm
luật dựa vào để xây dựng nên những điều kiện và hậu quả pháp lý phù hợp trong
việc nuôi con nuôi.

II. SỰ KHÁC NHAU VỀ ĐIỀU KIỆN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC
NUÔI CON NUÔI TRONG CHƯƠNG NUÔI CON NUÔI THEO LUẬT
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 VÀ LUẬT NUÔI CON NUÔI NĂM
2010.
1. SỰ KHÁC NHAU VỀ ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆC NUÔI CON NUÔI:
Điều kiện nuôi con nuôi được quy định khá cụ thể trong Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000 và đã được kế thừa tại Luật nuôi con nuôi năm 2010. Tuy
nhiên, giữa 2 bộ luật này vẫn có những điểm khác nhau (sự khác nhau này chủ yếu


3


là sự thay đổi, bổ sung thêm những quy định mới cần thiết, tiến bộ hơn) về điều
kiện nuôi con nuôi như sau:
Về điều kiện độ tuổi của người được nhận làm con nuôi ở Khoản 1 Điều 68
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “ Người được nhận làm con nuôi
phải từ mười lăm tuổi trở xuống”. Nhưng ở Khoản 1 Điều 8 Luật nuôi con nuôi
năm 2010 lại có quy định khác về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi, theo
đó: “ người được nhận làm con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi”. Việc tăng số tuổi của
người được nhận làm con nuôi là hoàn toàn phù hợp với mục đích của việc nuôi
con nuôi và phù hợp với các văn bản pháp luật khác về độ tuổi của trẻ em. Sự phù
hợp đó thể hiện ở chỗ trẻ em dưới 16 tuổi là người chưa có năng lực hành vi đầy
đủ, họ chưa nhận thức được đầy đủ hành vi của mình, việc thiết lập quan hệ nuôi
con nuôi sẽ đảm bảo cho người con nuôi có được sự giám hộ của cha mẹ nuôi. Đối
với những người trên 16 tuổi thì họ có thể tự kiếm sống nuôi bản thân và thông
thường người nhận con nuôi cũng mong muốn được bảo trợ cho những em nhỏ
dưới 16 tuổi, tạo cho các em có mái ấm gia đình. Tiếp nữa, độ tuổi của trẻ em được
nhận làm con nuôi trong Luật nuôi con nuôi năm 2010 lại có quan hệ mật thiết và
gắn bó với độ tuổi được coi là trẻ em được quy định trong Luật chăm sóc, giáo dục
và bảo vệ trẻ em năm 2005 ( theo Điều 1, trẻ em theo quy định của luật này là công
dân Việt Nam từ 16 tuổi trở xuống). Như vậy, đối tượng điều chỉnh chủ yếu của
luật này chính là trẻ em, quy định này phù hợp với mục đích nuôi con nuôi mà vẫn
đảm bảo được tính thống nhất của hệ thống pháp luật trong nước.
Cũng về điều kiện độ tuổi, ở Luật nuôi con nuôi năm 2010 còn một số trường
hợp ngoại lệ mới so với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, đó là trong Khoản 2
Điều 8 Luật này quy định những người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi được nhận
làm con nuôi của cha dượng, mẹ kế hoặc của cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm
con nuôi. Hay ở khoản 3 Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định thêm


4


trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm
con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không nhất
thiết phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên hay có đủ điều kiện về sức khỏe, kinh tế,
chỗ ở. Các quy định này có ý nghĩa vô cùng lớn, giúp tạo điều kiện cho trẻ được
sống trong gia đình có mối quan hệ huyết thống hoặc gia đình có quan hệ họ hàng,
cho trẻ em một mái ấm đúng nghĩa trên cơ sở là tình yêu thương giữa các thành
viên trong gia đình. Quy định này còn phù hợp với nguyên tắc giải quyết việc nuôi
con nuôi được quy định trong khoản 1 Điều 4 Luật nuôi con nuôi năm 2010 là:
“Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống
trong môi trường gia đình gốc”.
Ở khoản 4 Điều 69 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy định người
nhận nuôi con nuôi phải có điều kiện thực tế bảo đảm việc trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi nhưng lại chưa nêu rõ điều kiện thực tế ở đây là
những điều kiện gì, gây nên khó khăn, nhầm lẫn vì không có cơ sở, căn cứ để xác
định một người có đủ điều kiện hay không. Ở vấn đề này, Luật nuôi con nuôi năm
2010 đã nêu rõ ràng hơn trong điểm c Khoản 1 Điều 14 là người nhận nuôi con
nuôi phải có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con nuôi.
Về người nhận con nuôi, so với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, thì
Luật nuôi con nuôi năm 2010 còn quy định rõ cấm ông bà nhận cháu làm con nuôi,
hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi ( Khoản 6 Điều 13). Trường hợp này rất
dễ xảy ra trong thực tế, vì nếu bố mẹ đẻ của đứa trẻ vì một nguyên nhân gì đó
không thể nuôi con được thì với tình yêu thương vốn có của mình, ông bà hoặc anh,
chị, em sẽ là những người muốn cưu mang, chăm sóc đứa trẻ nhất và có thể dẩn
đến việc nhận đứa trẻ làm con nuôi. Như vậy thì giờ đây, quan hệ giữa những

5



người này nghiễm nhiên trở thành quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Điều này gây
nên sự đảo lộn ngôi thứ, thứ bậc trong gia đình, trái với thuần phong mỹ tục, đạo
đức truyền thống của dân tộc ta. Do đó pháp luật không công nhận quan hệ nuôi
con nuôi giữa những người này. Tuy nhiên, pháp luật không cấm mà vẫn động
viên, khuyến khích, thậm chí quy định thành nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa họ đối với
nhau (nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng giữa các thành viên trong gia đình). Nhưng
đây chỉ là quan hệ nuôi dưỡng hay nghĩa dưỡng mà không phải quan hệ nuôi con
nuôi theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, để bảo đảm tốt quyền và lợi ích hợp pháp của người được nhận làm
con nuôi, đảm bảo con nuôi được nuôi dưỡng trong môi trường gia đình bình
thường, khoản 3, Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định, một người chỉ có
thể làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng. Quy
định này kế thừa quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên,
Luật Nuôi con nuôi quy định rõ ràng hơn đối với trường hợp “ một người độc thân”
(Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ quy định là “ một người”) để tránh hiểu
nhầm thành một người trong số hai người là vợ chồng xin con nuôi. Đối với “vợ
chồng” xin nhận con nuôi thì bắt buộc phải là nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng
theo quy định của pháp luật và cùng đồng ý xin con nuôi; nếu chỉ có vợ/chồng
muốn xin con nuôi còn người kia (chồng/vợ) không đồng ý hoặc không phản đối,
thì cũng không giải quyết. Ở đây đòi hỏi sự đồng thuận cao của cả vợ chồng. Do
đó, trường hợp hai người khác giới hoặc cùng giới sống chung với nhau mà không
kết hôn, hoặc hai người đồng giới tuy có kết hôn với nhau mà xin con nuôi, thì
cũng không giải quyết.
Khoản 3 Điều 21 Luật nuôi con nuôi năm 2010 còn quy định về ý chí của
người cho làm con nuôi như sau: “ sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực,
không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo
yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác”. Với quy định này, việc đảm bảo quyền
trẻ em đã được coi trọng và đề cao hơn so với Luật hôn nhân và gia đình năm


6


2000. Sự tự nguyện trong việc nuôi con nuôi là rất cần thiết, đáp ứng được mục
đích cho nhận con nuôi, là yếu tố quyết định việc xác lập quan hệ cha mẹ và con
được tốt đẹp. Nếu không có sự tự nguyện thì mục đích nuôi con nuôi sẽ không đạt
được, tính nhân văn bị mất đi và lợi ích đứa trẻ sẽ bị xâm phạm.
Luật nuôi con nuôi năm 2010 còn quy định: “Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý
cho con làm con nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày’’. Quy định nhằm
tránh các trường hợp cha mẹ đẻ và các cá nhân, tổ chức khác có sự thỏa thuận cho
trẻ làm con nuôi trước khi sinh; hoặc cha mẹ đẻ trong hoàn cảnh đặc biệt như hoàn
cảnh nghèo khổ, hay muốn có con trai đầu lòng. . . đã chấp nhận cho con vừa sinh
ra làm con nuôi mà không có sự suy nghĩ kĩ lưỡng. Mặt khác, đứa trẻ vừa mới sinh
ra thì còn đang non yếu, sức đề kháng đang còn kém, nó cần đến sự chăm sóc của
người mẹ một thời gian để đứa trẻ cứng cáp hơn. Do đó, 15 ngày sau khi sinh con
sẽ là thời gian để đứa trẻ ổn định về sức khỏe đồng thời cũng là thời gian để cha
mẹ đẻ suy nghĩ kĩ hơn về việc có nên cho con làm con nuôi của người khác
không.
Trong thực tế đời sống tồn tại khá nhiều các trường hợp nhận con nuôi
nhưng không đăng kí việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây
là những trường hợp xác lập quan hệ nuôi con nuôi về mặt xã hội. Một trong
những trường hợp đó là nuôi con nuôi thực tế. Theo Điều 50 Luật nuôi con nuôi
năm 2010, việc nuôi con nuôi thực tế phải được đăng ký trong thời hạn 05 năm, kể
từ ngày Luật này có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: a) Các bên có đủ
điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan
hệ nuôi con nuôi; b) Đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con
vẫn đang tồn taị và cả hai bên còn sống; c) Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan
hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con. Như vậy, so với Luật
hôn nhân và gia đình 2000 thì Luật nuôi con nuôi năm 2010 đã quy định rõ ràng,


7


thống nhất về điều kiện của việc nuôi con nuôi thực tế, từ đó tạo ra các cơ sở pháp
lý giúp cho việc xem xét, giải quyết công nhận các trường hợp nuôi con nuôi thực
tế.
2. SỰ KHÁC NHAU VỀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC NUÔI CON NUÔI.
Trong khoa học pháp lý, chỉ những hành vi, sự kiện (mà nguyên nhân cũng
do hành vi của con người) được pháp luật xác định hay dự liệu làm hình thành
những quyền và nghĩa vụ nhất định mới làm phát sinh hậu quả pháp lý. Đối với
việc nhận nuôi con nuôi, hậu quả pháp lý phát sinh từ sự kiện nhận nuôi con nuôi là
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, thường là các
quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản. Về nguyên tắc, hệ quả pháp lý làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm đăng ký nhận nuôi con nuôi.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 khi quy định về hệ quả pháp lý của việc
nuôi con nuôi chỉ chú trọng điều chỉnh quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, có
rất ít quy định về mối quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con nuôi, quan hệ giữa cha mẹ đẻ
và cha mẹ nuôi. Vì thế, Luật nuôi con nuôi năm 2010 đã quy định cụ thể hơn, đưa
ra những qui định mới tiến bộ hơn về mối quan hệ này, từ đó tạo ra cơ sở pháp lí để
đảm bảo quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi. Sau đây
là sự trình bày chi tiết những điểm tiến bộ mới ấy.
Về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi, căn cứ vào các quy định của Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000 dẫn đến tồn tại hai quan điểm:
- Quan điểm thứ nhất: Khi người con nuôi đi làm con nuôi người khác thì người
đó vẫn còn nguyên quyền và nghĩa vụ đối với gia đình cha mẹ đẻ bởi trong
luật không có quy định nào khẳng định sự chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa
cha mẹ đẻ và con đẻ.
- Quan điểm thứ 2: Mặc dù luật không khẳng định về việc còn hay chấm dứt
quyền và nghĩa vụ của người nhận được làm con nuôi đối với gia đình cha mẹ

đẻ nhưng trong hệ thống pháp luật có một vài quy định về một số quyền mà
người con nuôi vẫn được hưởng từ gia đình như Đoạn 2 Điều 74 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000 (hưởng quyền lợi của con liệt sĩ, con thương binh,
con của người có công với cách mạng), Điều 678 Bộ luật Dân sự năm 2005
(quyền về thừa kế). Nghĩa là ngoài các quyền đã được quy định này thì các
quyền khác giữa cha mẹ đẻ và con nuôi không được pháp luật thừa nhận.

8


Để làm rõ ràng hai quan điểm này, Khoản 4 Điều 24 Luật nuôi con nuôi năm
2010 quy định: “Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận
khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm
sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý,
định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi’’. Như vậy, quy định này đã
phủ định quan điểm thứ nhất ở trên, tránh được sự nhầm lẫn, đưa ra các cách hiểu
khác nhau về quy định của pháp luật. Sự chấm dứt các quyền và nghĩa vụ này của
cha mẹ đẻ với con nuôi là hoản toàn hợp lý, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho người
con nuôi có được một sự giáo dục thống nhất, một chỗ ở ổn định và một tình yêu
thương trọn vẹn từ gia đình duy nhất của mình. Hơn nữa, nếu như pháp luật quy
định giữ nguyên các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ với con nuôi thì có thể sẽ
dẫn tới nhiều trường hợp không hay trên thực tế như : người con nuôi có tình cảm
thiên lệch về một bên gia đình; hai bên gia đình tranh giành quyền quản lý, định
đoạt tài sản riêng đối hoặc đùn đẩy nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đứa
con. . . Những trường hợp này đều gây ra những hậu quả bất lợi cho các bên liên
quan, nhất là với người con nuôi, trái với mục đích nuôi con nuôi là “vì lợi ích tốt
nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình”. Nhìn thấy những điểm bất cập đó,
các nhà làm luật đã xây dựng lên quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp
cho các bên liên quan, nhất là lợi ích của người con nuôi.

Tại khoản 1 Điều 24 Luật nuôi con nuôi năm 2010 ngoài việc kế thừa Điều
74 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì còn quy định thêm về mối quan hệ
pháp lý giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi. Theo đó: “.
. . giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các
quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình,
pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan’’. Quy định này
nhằm tạo điều kiện cho người con nuôi có được sự hòa nhập với các thành viên
trong gia đình cha mẹ nuôi vì trên thực tế người con nuôi thường không tránh khỏi
sự bỡ ngỡ, chưa quen khi tiếp xúc với một môi trường sống hoàn toàn mới như vậy.
Mặt khác, quy định này còn có vai trò ràng buộc, gắn bó chặt chẽ thêm mối quan
hệ giữa các thành viên trong gia đình người con nuôi, tạo cơ sở cho một mái ấm gia
đình lâu dài, bền vững.
Ngoài các Điều luật xác định dân tộc cho người con nuôi trong Bộ luật Dân
sự mà cả Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Luật nuôi con nuôi năm 2010 đều
tuân theo thì còn có thêm một quy định mới tại Khoản 3 Điều 24 Luật nuôi con
nuôi năm 2010 quy định: ‘‘Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi được xác định

9


theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi’’. Quy định này đã bù đắp được một lỗ hổng
của pháp luật Việt Nam vì cả hai Bộ luật dân sự năm 1995 (mà Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000 tuân theo) và Bộ luật Dân sự năm 2005 (mà Luật nuôi con nuôi
năm 2010 tuân theo) đều không có quy định nào về việc xác định dân tộc cho con
nuôi là trẻ em bị bỏ rơi. Trẻ em bị bỏ rơi là những người phải chịu nhiều thiệt thòi
trong xã hội, việc xác lập quyền lợi một cách hợp lí cho những số phận thiệt thòi
này trong việc xác định dân tộc là một tiến bộ đáng tự hào của pháp luật.
Khoản 1 Điều 23 Luật nuôi con nuôi năm 2010 đã đưa ra một quy định mới
về nghĩa vụ của cha mẹ nuôi như sau: “Sáu tháng một lần trong thời hạn 03 năm,
kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ nuôi có trách nhiệm thông báo cho Ủy ban

nhân dân cấp xã nơi họ thường trú về tình trạng sức khỏe, thể chất, tinh thần, sự
hòa nhập của con nuôi với cha mẹ nuôi, gia đình, cộng đồng’’. Quy định này thể
hiện sự quan tâm sâu sắc của pháp luật đối với lợi ích người con nuôi, giúp giảm
phần nào tình trạng bạo hành, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hay các
hành vi trái pháp luật khác gây bất lợi đối với người con nuôi xảy ra trên thực tế.
Điều 74 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định : ‘‘Con liệt sĩ, con
thương binh, con của người có công với cách mạng được người khác nhận làm con
nuôi vẫn được tiếp tục hưởng mọi quyền lợi của liệt sĩ, con thương binh, con của
người có công với cách mạng’’. Luật nuôi con nuôi năm 2010 đã bác bỏ hoàn toàn
quy định này nhằm tạo sự phù hợp với Khoản 4 Điều 24 Luật này về sự chấm dứt
các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con nuôi với nhau. Sự bác bỏ này còn
tránh được tình trạng người nhận nuôi con nuôi lựa chọn thiên vị về con liệt sĩ, con
thương binh, con của người có công với cách mạng làm con nuôi để được hưởng
chính sách, mất đi tính nhân văn của việc nuôi con nuôi.
So với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000( Điều 78), Luật nuôi con nuôi
năm 2010 đã quy định rõ hơn về hậu quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi.
Thể hiện ở khoản 3 Điều 27 Luật Nuôi con nuôi: “ trường hợp con nuôi được giao
cho cha mẹ đẻ thì các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đẻ đã chấm dứt theo quy định
tại khoản 4 điều 24 của Luật này được khôi phục”. Như vậy, việc nuôi con nuôi
không làm chấm dứt hoàn toàn quan hệ pháp lý giữa cha mẹ đẻ với con đẻ. Quy
định này phù hợp với nguyên tắc ưu tiên cho trẻ em được sống trong môi trường
gia đình gốc, đưa trẻ em được trở về môi trường sống trước đây của mình, giúp cho
trẻ đỡ phải làm quen lại từ đầu ở một môi trường mới khác. Hơn nữa, được sống
trong gia đình có quan hệ huyết thống, máu mủ sẽ là cơ sở để trẻ có được sự yêu
thương và hạnh phúc. Có thể thấy rằng, việc chấm dứt nuôi con nuôi là một điều

10


bất lợi cho các bên, đặc biệt là đối với trẻ em, không phù hợp với mục đích nuôi

con nuôi, do đó cần giải quyết một cách thận trọng, thấu tình đạt lý.

C. KẾT BÀI.
Cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế - xã hội, các quan hệ xã hội
cũng theo đó mà phát triển không ngừng, từ đấy dẫn đến sự cấp thiết của việc phải
thay đổi, bổ sung, chỉnh sửa những quan hệ xã hội trong các quy định của pháp
luật, trong đó có quan hệ nuôi con nuôi. Việc thay thế những quy định cũ và bổ
sung thêm những quy định mới về điều kiện và hậu quả pháp lý của việc nuôi con
nuôi trong Luật nuôi con nuôi năm 2010 so với Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 là một tiến bộ vượt bậc của nền pháp luật nước nhà. Đó là cơ sở mang lại lợi
ích tốt nhất cho người con nuôi, giúp họ có một môi trường hoàn hảo để phát triển
một cách toàn diện, xây dựng nên những gia đình bền vững, hạnh phúc.

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Luật nuôi con nuôi năm 2010.
“Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình”, Chủ biên TS.Nguyễn Văn Cừ, Nhà
xuất bản công an nhân dân, Hà Nội – 2009.
Luận văn thạc sỹ luật học: “bảo vệ quyền lợi trẻ em trong quan hệ nuôi con
nuôi theo pháp luật Việt Nam”, Nguyễn Thị Hải, Hà Nội – 2011.
Khóa luận tốt nghiệp: “điều kiện nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam”,
Đỗ Thị Liên, Hà Nội – 2012.
Khóa luận tốt nghiệp: “ Một số vấn đề về hệ quả pháp lý của việc nuôi con
nuôi theo luật nuôi con nuôi năm 2010”, Nguyễn Thị Ngọc, Hà Nội – 2012.

12




×