Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Quy tắc tố tụng của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.56 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

1


I. Đặt vấn đề.
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VIAC) được thành lập theo Quyết định số 204/TTg
ngày 28 tháng 4 năm 1993 của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở hợp nhất Hội đồng Trọng tài Ngoại thương
(thành lập năm 1963) và Hội đồng Trọng tài Hàng hải (thành lập năm 1964).
Theo Điều lệ, VIAC có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt
động thương mại bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối
đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư
vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai
thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển,
đường sắt, đường bộ v.v...Cũng như các Trung tâm Trọng tài Quốc tế khác,
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam có quy tắc tố tụng riêng của mình. Em
đã tìm hiểu và trong bài viết này em xin được trình bày một số hiểu biết của
mình về “Quy tắc tố tụng của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam”.
II. Nội dung
1. Một số hiểu biết về quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài.
Là tổ chức phi chính phủ, các trung tâm trọng tài tồn tại độc lập với
nhau, vừa hợp tác vừa cạnh tranh cùng nhau. Bên cạnh chất lượng các trọng
tài viên, sự đơn giản và linh hoạt của quy tắc tố tụng cũng là yếu tố tạo ra sự
hấp dẫn của mỗi trung tâm trọng tài trước các khách hàng. Bởi vậy, mỗi trung
tâm trọng tài đều có điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố tụng riêng được xây
dựng căn cứ vào đặc thù về tổ chức, hoạt động của trung tâm và không trái với
quy định của pháp luật trọng tài thương mại. Khi giải quyết tranh chấp, hội
đồng trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất phải tuân thủ quy tắc tố tụng này.
Trường hợp tranh chấp có yếu tố nước ngoài, hội đồng trọng tài được áp dụng



2


quy tắc tố tụng khác, nếu các bên có thỏa thuận (khoản 2 Điều 49 Pháp lệnh
trọng tài thương mại).
Bản quy tắc trọng tài UNCITRAL do Ủy ban về luật thương mại quốc
tế của Liên hợp quốc (thông qua năm 1976) hay Bản quy tắc trọng tài của
Phòng thương mại quốc tế (ICC) có hiệu lực từ năm 1988 và một số công ước
quốc tế có liên quan cũng như bản quy tắc tố tụng của một số trung tâm trọng
tài quốc tế có uy tín (London, Brussell…) thường được coi là cơ sở, khuôn
mẫu cho việc xây dựng quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài.
2. Tìm hiểu quy tắc tố tụng của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam.
Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam được đăng
trên Website htpp://www.viac.org.vn - Website chính thức của Trung tâm
Trọng tài Quốc tế Việt Nam. Bản quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC gồm 36
Điều quy định một số vấn đề liên quan đến việc giải quyết tranh chấp và phí
trọng tài, trong đó có những nội dung chính sau:
2.1. Đơn kiện
Điều 7 của bản quy tắc tố tụng quy định về đơn kiện như sau:
1. Để giải quyết vụ tranh chấp tại Trung tâm, Nguyên đơn phải làm Đơn kiện
gửi Trung tâm.
2. Đơn kiện gửi Trung tâm gồm có các nội dung chủ yếu sau đây:
a) Ngày, tháng, năm viết đơn;
b) Tên và địa chỉ của Nguyên đơn và Bị đơn;
c) Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp;
d) Căn cứ pháp lý để khởi kiện;
e) Trị giá của vụ tranh chấp và các yêu cầu khác của Nguyên đơn;
3



f) Tên Trọng tài viên có tên trong Danh sách Trọng tài viên mà Nguyên đơn
chọn hoặc yêu cầu của Nguyên đơn về việc Chủ tịch Trung tâm chỉ định
Trọng tài viên cho mình.
Trong vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Nguyên đơn có thể chọn một
Trọng tài viên có tên trong hoặc ngoài Danh sách Trọng tài viên. Trường hợp
chọn Trọng tài viên ngoài Danh sách Trọng tài viên, Nguyên đơn phải thông
báo cho Trung tâm họ tên và địa chỉ liên lạc của Trọng tài viên mà Nguyên
đơn chọn. Trường hợp Nguyên đơn yêu cầu Chủ tịch Trung tâm chỉ định
Trọng tài viên, Chủ tịch Trung tâm sẽ chỉ định một Trọng tài viên có tên trong
Danh sách Trọng tài viên.
3. Kèm theo Đơn kiện, Nguyên đơn phải gửi bản chính hoặc bản sao có chứng
thực hợp lệ thỏa thuận trọng tài, các tài liệu, chứng cứ có liên quan và chứng
từ nộp tạm ứng phí trọng tài.
4. Đơn kiện và các tài liệu kèm theo phải lập đủ số bản theo quy định tại
khoản 1 Điều 3 của Quy tắc này.
2.2. Chọn và chỉ định trọng tài viên
Theo Điều 8, Điều 9 quy tắc tố tụng của VIAC, việc chọn và chỉ định
trọng tài viên theo các nguyên tắc và trình tự sau đây:
Điều 8. Thành lập Hội đồng Trọng tài gồm ba Trọng tài viên
1. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận khác thì trong thời hạn năm
(05) ngày làm việc, kể từ ngày Trung tâm nhận được Đơn kiện của Nguyên
đơn và các tài liệu kèm theo quy định tại Điều 7 của Quy tắc này, Trung tâm
gửi cho Bị đơn Đơn kiện và các tài liệu kèm theo của Nguyên đơn, tên Trọng
tài viên mà Nguyên đơn chọn hoặc tên Trọng tài viên mà Chủ tịch Trung tâm
chỉ định cùng với Danh sách Trọng tài viên.

4



2. Nếu các bên không có thỏa thuận khác thì trong thời hạn ba mươi (30)
ngày, kể từ ngày nhận được Đơn kiện của Nguyên đơn và các tài liệu kèm
theo do Trung tâm gửi đến, Bị đơn phải chọn một Trọng tài viên có tên trong
Danh sách Trọng tài viên và thông báo cho Trung tâm biết hoặc yêu cầu Chủ
tịch Trung tâm chỉ định một Trọng tài viên cho mình. Trường hợp có nhiều Bị
đơn thì các Bị đơn phải thống nhất chọn một Trọng tài viên có tên trong Danh
sách Trọng tài viên hoặc thống nhất yêu cầu Chủ tịch Trung tâm chỉ định một
trọng tài viên cho các Bị đơn.
Trong vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Bị đơn có thể chọn một Trọng tài
viên có tên trong hoặc ngoài Danh sách Trọng tài viên hoặc yêu cầu Chủ tịch
Trung tâm chỉ định một Trọng tài viên cho mình. Trường hợp có nhiều Bị đơn
thì các Bị đơn phải thống nhất chọn một Trọng tài viên có tên trong hoặc
ngoài Danh sách Trọng tài viên hoặc thống nhất yêu cầu Chủ tịch Trung tâm
chỉ định một Trọng tài viên cho các Bị đơn. Nếu chọn Trọng tài viên ngoài
Danh sách Trọng tài viên, Bị đơn phải thông báo cho Trung tâm họ tên và địa
chỉ liên lạc của Trọng tài viên mà Bị đơn chọn. Trường hợp Bị đơn yêu cầu
Chủ tịch Trung tâm chỉ định Trọng tài viên, Chủ tịch Trung tâm sẽ chỉ định
một Trọng tài viên có tên trong Danh sách Trọng tài viên.
3. Nếu Bị đơn không chọn Trọng tài viên hoặc không yêu cầu Chủ tịch Trung
tâm chỉ định Trọng tài viên thì trong thời hạn bảy (07) ngày làm việc, kể từ
ngày hết thời hạn ba mươi (30) ngày nêu trên, Chủ tịch Trung tâm chỉ định
một Trọng tài viên có tên trong Danh sách Trọng tài viên làm Trọng tài viên
cho Bị đơn.
4. Trong thời hạn mười lăm (15) ngày, kể từ ngày hai Trọng tài viên được các
bên chọn hoặc được Chủ tịch Trung tâm chỉ định làm Trọng tài viên giải
quyết vụ tranh chấp, hai Trọng tài viên này phải chọn Trọng tài viên thứ ba có
tên trong Danh sách Trọng tài viên làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài. Hết thời
hạn này, nếu hai Trọng tài viên được chọn hoặc được chỉ định không chọn
5



được Trọng tài viên thứ ba thì trong thời hạn bảy (07) ngày làm việc, kể từ
ngày hết thời hạn, Chủ tịch Trung tâm chỉ định Trọng tài viên thứ ba có tên
trong Danh sách Trọng tài viên làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài và thông báo
cho các bên.
Điều 9. Thành lập Hội đồng Trọng tài gồm Trọng tài viên duy nhất
1. Trong trường hợp các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do Trọng tài viên duy
nhất giải quyết thì trong thời hạn ba mươi (30) ngày kể từ ngày nhận được yêu
cầu chọn Trọng tài viên của Trung tâm, các bên phải thống nhất chọn một
Trọng tài viên có tên trong Danh sách Trọng tài viên và thông báo cho Trung
tâm hoặc yêu cầu Chủ tịch Trung tâm chỉ định Trọng tài viên cho mình.
Trong vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, các bên có thể chọn một Trọng tài
viên có tên trong hoặc ngoài Danh sách Trọng tài viên hoặc yêu cầu Chủ tịch
Trung tâm chỉ định Trọng tài viên cho mình. Trường hợp chọn Trọng tài viên
ngoài Danh sách Trọng tài viên, các bên phải thông báo cho Trung tâm họ tên
và địa chỉ liên lạc của Trọng tài viên mà các bên chọn. Trường hợp các bên
yêu cầu Chủ tịch Trung tâm chỉ định Trọng tài viên, Chủ tịch Trung tâm sẽ
chỉ định một Trọng tài viên có tên trong Danh sách Trọng tài viên làm Trọng
tài viên duy nhất.
2. Trong trường hợp các bên không thống nhất được việc chọn Trọng tài viên
duy nhất thì một bên trong các bên có quyền yêu cầu Chủ tịch Trung tâm chỉ
định Trọng tài viên duy nhất để giải quyết vụ tranh chấp. Trong thời hạn mười
lăm (15) ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu chỉ định Trọng tài viên của một
trong các bên, Chủ tịch Trung tâm chỉ định một Trọng tài viên có tên trong
Danh sách Trọng tài viên làm Trọng tài viên duy nhất.
Bản quy tắc tố tụng của VIAC cũng có những quy định về sự vô tư
khách quan của trọng tài viên, nếu các bên thấy có yếu tố ảnh hưởng dẫn đến

6



nghi ngờ về sự vô tư, khách quan của trọng tài viên thì có thể từ chối, hoặc
thay đổi trọng tài viên. Vấn đề này được quy định tại Điều 13 và Điều 14:
Điều 13. Tính độc lập, vô tư và khách quan của Trọng tài viên
1. Trọng tài viên được chọn hoặc được chỉ định phải độc lập, vô tư và khách
quan trong việc giải quyết vụ tranh chấp.
2. Từ khi được chọn hoặc được chỉ định và trong quá trình tố tụng trọng tài,
Trọng tài viên phải thông báo công khai và kịp thời những việc có thể gây
nghi ngờ về tính độc lập, vô tư và khách quan của mình.
Điều 14. Từ chối, thay đổi Trọng tài viên
1. Trọng tài viên phải từ chối giải quyết vụ tranh chấp, các bên có quyền yêu
cầu thay đổi Trọng tài viên giải quyết vụ tranh chấp trong các trường hợp sau
đây:
a) Trọng tài viên là người thân thích của một bên hoặc đại diện của bên đó;
b) Trọng tài viên có lợi ích trong vụ tranh chấp;
c) Trọng tài viên tự nhận thấy mình không độc lập, vô tư, khách quan hoặc
các bên có căn cứ rõ ràng cho thấy Trọng tài viên không độc lập, vô tư, khách
quan trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp.
2. Sau khi một bên đã chọn Trọng tài viên, bên này mới phát hiện được Trọng
tài viên do mình chọn thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1
Điều này thì bên này có quyền yêu cầu thay đổi Trọng tài viên này.
3. Đơn từ chối giải quyết vụ tranh chấp của Trọng tài viên, đơn yêu cầu thay
đổi Trọng tài viên của các bên phải được gửi cho Hội đồng Trọng tài xem xét
trước khi Hội đồng Trọng tài ra Quyết định Trọng tài. Trong trường hợp Hội

7


đồng Trọng tài chưa được thành lập thì đơn từ chối giải quyết vụ tranh chấp,
đơn yêu cầu thay đổi Trọng tài viên phải được gửi cho Chủ tịch Trung tâm

xem xét.
4. Việc từ chối, thay đổi Trọng tài viên do các Trọng tài viên còn lại trong Hội
đồng Trọng tài xem xét quyết định. Nếu các Trọng tài viên này không quyết
định được thì Chủ tịch Trung tâm quyết định.
Trong trường hợp có hai Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối
hoặc bị yêu cầu thay đổi thì việc thay đổi Trọng tài viên do Chủ tịch Trung
tâm quyết định.
5. Trong quá trình tố tụng trọng tài, nếu có Trọng tài viên không thể tiếp tục
tham gia thì việc thay đổi Trọng tài viên sẽ được tiến hành theo thủ tục quy
định tại Điều 7, Điều 8 hoặc Điều 9 của Quy tắc này.
6. Hội đồng Trọng tài mới tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp. Trong trường hợp
cần thiết, sau khi tham khảo ý kiến của các bên, Hội đồng Trọng tài mới có
thể xem xét lại những vấn đề đã được xem xét tại các phiên họp giải quyết
tranh chấp trước.
2.3. Thủ tục giải quyết tranh chấp.
Theo quy tắc tố tụng của VIAC thủ tục giải quyết tranh chấp được thực
hiện theo trình tự sau đây:
Sau khi được chọn hoặc được chỉ định, các Trọng tài viên phải nghiên
cứu hồ sơ và có quyền xác minh sự việc, nếu thấy cần thiết. Hội đồng Trọng
tài có quyền gặp các bên để nghe các bên trình bày ý kiến. Theo yêu cầu của
một bên hoặc các bên hoặc theo sáng kiến của mình, Hội đồng Trọng tài có
thể tìm hiểu sự việc từ người thứ ba với sự có mặt của các bên hoặc sau khi đã
thông báo cho các bên.

8


Về việc thu thập chứng cứ: Các bên có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để
chứng minh sự việc mà mình nêu ra. Hội đồng Trọng tài có quyền yêu cầu các
bên bổ sung chứng cứ liên quan đến vụ tranh chấp, có quyền tự mình thu thập

chứng cứ. Hội đồng Trọng tài có thể mời giám định theo yêu cầu của một bên
hoặc các bên và phải thông báo cho các bên biết. Bên yêu cầu giám định phải
nộp tạm ứng phí giám định, trường hợp các bên mời giám định thì cùng phải
nộp tạm ứng phí giám định.
Trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, nếu có khiếu nại của một
bên về việc Hội đồng Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh
chấp, vụ tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô
hiệu, Hội đồng Trọng tài phải xem xét, ra Quyết định với sự có mặt của các
bên, trừ trường hợp các bên có yêu cầu khác. Bên khiếu nại đã được triệu tập
hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì được coi là đã rút khiếu
nại. Hội đồng Trọng tài tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp. Trước khi xem xét
nội dung vụ tranh chấp, nếu có khiếu nại của một bên về việc Hội đồng Trọng
tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp, vụ tranh chấp không có
thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu, Hội đồng Trọng tài phải
xem xét, ra Quyết định với sự có mặt của các bên, trừ trường hợp các bên có
yêu cầu khác. Bên khiếu nại đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý
do chính đáng thì được coi là đã rút khiếu nại. Hội đồng Trọng tài tiếp tục giải
quyết vụ tranh chấp. Trong trường hợp Toà án quyết định vụ tranh chấp
không thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài, vụ tranh chấp không có thỏa
thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì Hội đồng Trọng tài ra
Quyết định đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp sau khi đã nhận được Quyết định
của Tòa án.
Thời gian mở phiên họp giải quyết vụ tranh chấp do Chủ tịch Hội đồng
Trọng tài quyết định, nếu các bên không có thỏa thuận khác. Giấy triệu tập
phiên họp giải quyết vụ tranh chấp phải được gửi cho các bên chậm nhất là ba
mươi (30) ngày trước ngày mở phiên họp, nếu các bên không có thoả thuận
9


khác. Phiên họp giải quyết vụ tranh chấp không công khai. Các bên có quyền

mời nhân chứng, người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình và thông báo cho Hội đồng Trọng tài trước ngày mở phiên họp giải
quyết vụ tranh chấp. Trong trường hợp có sự đồng ý của các bên, Hội đồng
Trọng tài có thể cho phép những người khác tham dự phiên họp giải quyết vụ
tranh chấp.
Địa điểm giải quyết vụ tranh chấp do các bên có quyền thoả thuận
chọn. Nếu các bên không có thoả thuận thì địa điểm giải quyết vụ tranh chấp
do Hội đồng Trọng tài quyết định có tính đến hoàn cảnh, điều kiện cụ thể và
sự thuận tiện cho các bên.
Căn cứ pháp lý để giải quyết nội dung vụ tranh chấp: Đối với vụ tranh
chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng Trọng tài giải quyết nội dung vụ
tranh chấp căn cứ vào các điều khoản của hợp đồng và pháp luật Việt Nam.
Đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng Trọng tài giải quyết nội
dung vụ tranh chấp căn cứ vào các điều khoản của hợp đồng, vào luật áp dụng
do các bên chọn, vào các điều ước quốc tế có liên quan và có tính đến các tập
quán thương mại quốc tế. Trong trường hợp các bên không chọn hoặc không
thống nhất được việc chọn luật áp dụng thì Hội đồng Trọng tài quyết định
chọn luật áp dụng mà Hội đồng Trọng tài cho là phù hợp.
2.4. Quyết định trọng tài
Quyết định trọng tài được quy định tại Điều 28 quy tắc tố tụng của VIAC như
sau:
1. Quyết định Trọng tài phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
a) Ngày, tháng, năm và địa điểm ra Quyết định Trọng tài;
b) Tên Trung tâm;
c) Tên, địa chỉ của Nguyên đơn và Bị đơn;

10


d) Họ tên các Trọng tài viên hoặc Trọng tài viên duy nhất;

e) Tóm tắt Đơn kiện và các vấn đề tranh chấp;
f) Cơ sở để ra Quyết định Trọng tài;
g) Quyết định về vụ tranh chấp; quyết định về phí trọng tài và các chi phí
khác;
h) Thời hạn thi hành Quyết định Trọng tài;
i) Chữ ký của các Trọng tài viên hoặc Trọng tài viên duy nhất.
2. Trường hợp có Trọng tài viên không ký vào Quyết định Trọng tài, Chủ tịch
Hội đồng Trọng tài phải ghi việc này trong Quyết định Trọng tài và nêu rõ lý
do.
3. Các bên có quyền yêu cầu Hội đồng Trọng tài không đưa các vấn đề tranh
chấp, cơ sở của các quyết định về vụ tranh chấp vào Quyết định Trọng tài.
3. Những điểm mới trong Quy tắc tố tụng trọng tài có hiệu lực từ ngày 1
tháng 7 năm 2004 của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam.
Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam
bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chính thức được áp
dụng từ ngày 1 tháng 7 năm 2004. Căn cứ để ban hành Quy tắc và các nội
dung cơ bản của Quy tắc được cụ thể hóa từ Pháp lệnh Trọng tài Thương mại
2003 (Pháp lệnh).
Như vậy, hiện nay Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) có 3
bản Quy tắc tố tụng trọng tài:
1. Quy tắc tố tụng có hiệu lực từ ngày 20 tháng 8 năm 1993 (Quy tắc
1993). Quy tắc này áp dụng cho các tranh chấp có yếu tố nước ngoài có thỏa
thuận trọng tài ký trước ngày 1 tháng 7 năm 2003.

11


2. Quy tắc tố tụng trọng tài có hiệu lực từ ngày 15 tháng 4 năm 1996
(Quy tắc 1996). Quy tắc này áp dụng cho các tranh chấp trong nước có thỏa
thuận trọng tài ký trước ngày 1 tháng 7 năm 2003.

3. Quy tắc tố tụng trọng tài có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2004
(Quy tắc 2004). Quy tắc này được áp dụng để giải quyết cả vụ tranh chấp
trong nước và vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài có thỏa thuận trọng tài ký
sau ngày 1 tháng 7 năm 2003.
Sở dĩ tồn tại cùng một lúc ba bản Quy tắc tố tụng vì theo Điều 61,
Khoản 1 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại, các Trung tâm Trọng tài được
thành lập trước ngày Pháp lệnh có hiệu lực phải sửa đổi, bổ sung Điều lệ, Quy
tắc tố tụng trọng tài cho phù hợp với quy định của Pháp lệnh trong thời hạn 12
tháng kể từ ngày Pháp lệnh có hiệu lực. Tuy nhiên, Pháp lệnh cũng đồng thời
có quy định riêng, cho phép áp dụng pháp luật có hiệu lực tại thời điểm ký
thỏa thuận trọng tài để giải quyết các tranh chấp có thỏa thuận trọng tài ký
trước ngày Pháp lệnh có hiệu lực (Điều 61, Khoản 2). Do vậy, căn cứ theo quy
định của Pháp lệnh, Trung tâm đã ban hành Quy tắc 2004 để đảm bảo phù hợp
với quy định mới trong Pháp lệnh. Bên cạnh đó, Trung tâm vẫn phải đồng thời
vẫn giữ lại Quy tắc 1993 và Quy tắc 1996 để giải quyết các vụ tranh chấp có
thỏa thuận trọng tài ký trước ngày pháp lệnh có hiệu lực.
So với các bản Quy tắc 1993 và 1996 vốn được xây dựng trong thời
điểm hệ thống pháp luật về trọng tài của Việt Nam còn nhiều bất cập và thiếu
đồng bộ. Quy tắc 2004 được soạn thảo vào thời điểm Pháp lệnh trọng tài được
ban hành đã khắc phục, bổ sung những thiếu sót, bất cập cơ bản trong các bản
Quy tắc 1993 và 1996. Bên cạnh những quy định còn phù hợp trong Quy tắc
1993 và Quy tắc 1996, Quy tắc 2004 có những điểm mới và ưu điểm sau:
Về tổng thể, Quy tắc đã đáp ứng và thể hiện được các tiêu chí cơ bản
của Pháp lệnh trọng tài, pháp luật và tập quán trọng tài quốc tế hiện đại;

12


Áp dụng thuận tiện, Quy tắc được áp dụng chung để giải quyết cả các
vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài và tranh chấp trong nước;

Các thủ tục tố tụng được quy định chi tiết nhưng rõ ràng và không phức
tạp, đảm bảo tính đồng bộ, công khai và công bằng về quyền và nghĩa vụ của
các bên;
Tôn trọng tối đa ý chí tự do thỏa thuận của các bên. Các bên được tự do
thỏa thuận nhiều vấn đề liên quan tới tố tụng như thời gian, ngôn ngữ, địa
điểm, luật áp dụng v.v... Cụ thể:
Về ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài: Theo Điều 18 của Quy
tắc, ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài là tiếng Việt. Tuy nhiên, đối với
vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, các bên có quyền thỏa thuận về ngôn ngữ
sử dụng trong tố tụng trọng tài. Quy định này không có trong các Quy tắc
1993 và Quy tắc 1996, vốn ấn định ngôn ngữ sử dụng trong phiên xét xử là
tiếng Việt.
Trong tố tụng trọng tài, vấn đề ngôn ngữ có ý nghĩa quan trọng. Các
bên tranh chấp cần lưu ý khi áp dụng quy định này. Thông thường, trong
những vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, các bên thường mong muốn được
sử dụng ngôn ngữ của nước mình, hoặc ít nhất là một ngôn ngữ thông dụng.
Do vậy, để đạt được sự thống nhất về việc lựa chọn ngôn ngữ trong trọng tài,
giải pháp tốt nhất là các bên nên thỏa thuận quy định ngay trong điều khoản
trọng tài. Từ kinh nghiệm giải quyết tranh chấp tại VIAC cho thấy, nếu các
bên không có thỏa thuận trước về ngôn ngữ trọng tài, đến khi tranh chấp phát
sinh, các bên rất khó đạt được sự thống nhất về việc chọn ngôn ngữ. Trong
những trường hợp như vậy, tiếng Việt sẽ được sử dụng.
Về địa điểm tiến hành trọng tài: Các bên được tự do thỏa thuận chọn địa
điểm tiến hành trọng tài (Điều 17). Đây cũng là quy định hấp dẫn đối với các
bên tranh chấp. Quy định này khá phổ biến trong pháp luật và quy tắc tố tụng

13


của nhiều tổ chức trọng tài trên thế giới. Với việc được tự do lựa chọn địa

điểm trọng tài, các bên có quyền thỏa thuận địa điểm thích hợp nhất cho cả hai
bên. Tuy nhiên, cũng giống như vấn đề lựa chọn ngôn ngữ, để tránh các rắc
rối nẩy sinh trong quá trình tố tụng, các bên nên thỏa thuận chọn địa điểm
trọng tài cụ thể ngay trong thỏa thuận trọng tài. Nếu vấn đề này được giải
quyết trước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Hội đồng Trọng tài và các bên chủ
động trong việc giải quyết tranh chấp. Bởi vì, tuy Quy tắc cho phép các bên
được lựa chọn địa điểm tiến hành trọng tài nhưng trong trường hợp các bên
không có thỏa thuận thì Hội đồng trọng tài sẽ quyết định địa điểm tiến hành
trọng tài. Trong những trường hợp như vậy, quyết định của Hội đồng Trọng
tài rất khó thỏa mãn yêu cầu của cả hai bên, có thể thuận lợi cho bên này
nhưng lại bất lợi đối với bên kia. Do đó, các bên được khuyến nghị cần xác
định trước địa điểm tiến hành trọng tài trong điều khoản trọng tài. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy địa điểm tiến hành trọng tài thường là nơi Trung tâm Trọng
tài đặt trụ sở hoặc tại nước của Trung tâm Trọng tài.
Về vấn đề luật áp dụng: Đối với các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài,
các bên cũng được quyền chọn luật áp dụng. Đây là một quy định lý tưởng đối
với các bên, nhất là bên nước ngoài. Quy tắc trước đây không quy định cụ thể
về vấn đề này. Trong tố tụng trọng tài, vấn đề chọn luật áp dụng có ý nghĩa
quan trọng, việc cho phép các bên được quyền chọn luật sẽ giúp các bên chủ
động tìm hiểu và lựa chọn nguồn luật thích hợp khi tranh chấp phát sinh. Với
quy định này, các bên sẽ có nhiều lựa chọn khi đàm phán nội dung điều khoản
trọng tài. Ví dụ, nếu các bên gặp khó khăn trong việc thỏa thuận về tổ chức
trọng tài và luật áp dụng, các bên có thể đi đến giải pháp là chọn tổ chức trọng
tài tại nước bên bán và chọn luật áp dụng của nước bên mua hoặc các bên có
thể chọn luật áp dụng của một nước thứ ba ...
Về vấn đề chọn trọng tài viên: Không giống các Quy tắc 1996 và Quy tắc
1993, vốn giới hạn các bên chỉ được chọn Trọng tài viên có tên trong Danh

14



sách Trọng tài viên của VIAC. Quy tắc 2004 cho phép các bên trong vụ tranh
chấp có yếu tố nước ngoài có thể chọn trọng tài viên trong hoặc ngoài danh
sách trọng tài viên của VIAC. Đây là một quy định mới khá hẫp dẫn. Vấn đề
này đã giải tỏa được những băn khoăn, ngần ngại của các bên, nhất là bên
nước ngoài khi lựa chọn VIAC để giải quyết tranh chấp. Trong quá trình đàm
phán nội dung điều khoản trọng tài, các bên thường khó đạt được sự thống
nhất về việc chọn tổ chức trọng tài, luật áp dụng và vấn đề ngôn ngữ v.v.. Do
tâm lý bên nào cũng muốn được giải quyết tranh chấp tại một tổ chức trọng tài
quen thuộc của mình, hoặc do tâm lý chưa thực sự tin tưởng vào khả năng giải
quyết tranh chấp của tổ chức trọng tài do bên đối tác lựa chọn. Tuy nhiên, với
các quy định thông thoáng và hấp dẫn nêu trên, các bên nước ngoài có niềm
tin khi chọn trọng tài VIAC. Nếu các bên thấy rằng các Trọng tài viên trong
Danh sách có thể không phù hợp để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể, cần
phải đáp ứng một số yêu cầu đặc thù, các bên có thể lựa chọn một trọng tài
viên ngoài danh sách mà mình cho là phù hợp. Điểm cần lưu ý khi chọn trọng
tài viên ngoài danh sách thì trọng tài viên này cần phải đáp ứng một số tiêu
chuẩn nhất định.
III. Kết luận
Với một loạt những nội dung nêu trên, có thể khẳng định rằng Quy tắc
tố tụng trọng tài 2004 của VIAC hoàn toàn đáp ứng các tiêu chí của pháp luật
và tập quán trọng tài quốc tế. Ngoài việc được áp dụng để giải quyết các vụ
tranh chấp có thỏa thuận trọng tài ký sau ngày 1 tháng 7 năm 2004, các bên
tranh chấp có thỏa thuận trọng tài ký trước ngày 1 tháng 7 năm 2003 có thể
thỏa thuận lựa chọn áp dụng Quy tắc 2004 thay cho Quy tắc 1993 và Quy tắc
1996. Các bên khi quyết định đưa tranh chấp ra giải quyết tại một tổ chức
trọng tài cần nắm vững quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó.

15



16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại (tập 2), Nxb.
CAND, Hà Nội, 2006.
2. Bùi Ngọc Cường (chủ biên), Giáo trình Luật Thương mại (tập 2), Nxb.
CAND, Hà Nội, 2006.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế (tập 1), Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009.
4. Luật Thương mại 2005.
5. Website

17



×