Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.43 KB, 12 trang )

Bài tập học kì Luật Hành chính Việt Nam

MỤC LỤC
A. Lời nói đầu

2

B. Giải quyết vấn đề

2

I.Nguyên tắc tập trung dân chủ
II. Phân tích nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lý
hành chính nhà nước

2

1) Quản lý hành chính nhà nước
2) Nguyên tắc tập trung – dân chủ

2

3) Nội dung của nguyên tắc tập trung – dân chủ trong hoạt động
quản lý hành chính nhà nước

3

III. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lý
hành chính nhà nước ở Việt Nam

9



C. Lời kết

12

Danh mục tài liệu tham khảo

13


Bài tập học kì Luật Hành chính Việt Nam

A.LỜI MỞ ĐẦU
Được ghi nhận trong Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm
1959, nguyên tắc tập trung - dân chủ đã trở thành nguyên tắc hiến định quan trọng
đối với toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta. Tập trung - dân chủ
là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Hoạt động
quản lý hành chính nhà nước cũng được tổ chức thực hiện trên cơ sở tuân thủ nội
dung của nguyên tắc này. Phạm vi và quy mô chi phối của nguyên tắc tập trung
dân chủ rất rộng lớn và xuyên suốt toàn bộ tổ chức và hoạt động của cả bộ máy nhà
nước. Vì vậy, nguyên tắc này có giá trị thực tế đối với tổ chức và hoạt động của
từng loại cơ quan trong bộ máy nhà nước, nhất là đối với các cơ quan thuộc hệ
thống hành chính nhà nước. Trong khuôn khổ bài tập học kì, em xin đi sâu phân
tích về nguyên tắc tập trung dân chủ cũng như ý nghĩa của nó trong quản lí hành
chính nhà nước.

B.PHẦN NỘI DUNG
I. NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
Tập trung dân chủ là thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa sự chỉ đạo tập trung thống
nhất của các cơ quan nhà nước ở trung ương và các cơ quan nhà nước cấp trên với

việc mở rộng dân chủ, phát huy tính năng động, sáng tạo của các cơ quan nhà nước
ở địa phương và các cơ quan nhà nước cấp dưới. Xét ở bình diện rộng hơn, nguyên
tắc tập trung dân chủ còn là cơ sở để phát huy tính chủ động, sáng tạo của quần
chúng nhân dân, của tập thể, và đề cáo trách nhiệm, ý thức kỉ luật của cán bộ, công
chức nhà nước. Vì vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ áp dụng cho việc
giải quyết mối quan hệ giữa trung ương với địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới,
mà còn có thể áp dụng cho mỗi cấp trong cơ cấu tổ chức, cũng như trong cơ chế
hoạt động cụ thể của nó.
Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện trên ba mặt chủ yếu là:
tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động (quyền lực) và chế độ thông tin, báo cáo, kiểm
tra và xử lí các vấn đề khen thưởng và kỉ luật.
Về mặt tổ chức, nguyên tắc này thể hiện ở chế độ bầu cử, cơ cấu tổ chức bộ máy,
chế độ công vụ, xác lập và giải quyết mối quan hệ giữa các bộ phận của bộ máy
nhà nước nói chung, giữa trung ương với địa phương, giũa các bộ phận trong mỗi


Bài tập học kì Luật Hành chính Việt Nam

cơ quan nhà nước và trên bình diện chung nhất là giữa nhà nước với nhân dân. Ở
các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và nước ta nói riêng, nguyên tắc tập trung dân
chủ được áp dụng trong lĩnh vực tổ chức bộ máy đều xuất phát từ nguyên lí: Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân trực tiếp bầu ra cơ quan đại diện,
trao quyền cho cơ quan đại diện bầu ra hoặc phê chuẩn các hệ thống cơ quan khác.
Ở trung ương, Quốc Hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, mọi co quan
khác đều bắt nguồn từ Quốc hội, phải báo cáo, chịu trách nhiệm trước Quốc hội, và
phải chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội. Ở địa phương, các HĐND là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, mọi cơ quan khác phải chịu trách nhiệm trước
HĐND, và chịu sự giám sát của HĐND. Đồng thời, các cơ quan địa phương phải
phục tùng các cơ quan trung ương, các cơ quan cấp dưới phải phcuj tùng cơ quan
cấp trên, vì vậy, nhiều cơ quan có chế độ 2 chiều phụ thuộc. Tính tập trung là biểu

hiện quan trọng của bộ máy nhà nước, nhưng sự tập trung đó đều bắt nguồn và dựa
trên cơ sở của chế độ dân chủ, dân chủ sau khi đã được tập trung phải chịu sự chỉ
đạo của tập trung. Các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước được trao quyền để
quản lí các công việc nhà nước, nhưng đều phải chịu trách nhiệm trước nhân dân
và chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.
Về mặt hoạt động, các cơ quan nhà nước ở trung ương có quyền quyết định các vấn
đề cơ bản, quan trọng về chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng,
đối ngoại trên phạm vi cả nước. Các cơ quan nhà nước ở địa phương quyết định
những vấn đề thuộc địa phương mình. Quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên
có ý nghĩa bắt buộc đối với cơ quan nhà nước cấp dưới. Tuy nhiên, trong phạm vi
thẩm quyền luật định, các cơ quan nhà nước ở địa phương, cấp dưới có quyền tự
quyết định và chịu trách nhiệm về những vấn đề cụ thể ở địa phương và cấp mình.
Các cơ quan nhà nước trung ương, cấp trên có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động
của các cơ quan địa phương, cấp dưới, thậm chí có thể đình chỉ, hủy bỏ quyết định
của cơ quan cấp dưới, nếu những quyết định đó trái với luật định. Nhưng đồng thời
cơ quan trung ương, cấp trên cũng phải tạo điều kiện cho các cơ quan địa phương
cấp dưới phát huy quyền chủ động, sáng tạo trong giải quyết các vấn đề, góp phần
thực hiện các nhiệm vụ chung của nhà nước. Để áp dụng có hiệu quả nguyên tắc
tập trung dân chủ trong hoạt động của bộ máy nhà nước XHCN, cần chú trọng xây
dựng và thực hiện tốt chế độ, thông tin, báo cáo, kiểm tra và xử lí các vấm đề kịp
thời, đúng đắn, khách quan và khoa học. Các chủ trương, quyết định của cấp trên
phải được thông báo kịp thời cho cấp dưới, để cấp dưới nắm được đúng tinh thần


Bài tập học kì Luật Hành chính Việt Nam

chỉ đạo của cấp trên, từ đó giải quyết các vấn đề đúng pháp luật và đáp ứng yêu
cầu của cấp trên.
I. PHÂN TÍCH NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG QUẢN LÍ
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

1) Quản lý hành chính nhà nước
Quản lý hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà nước
được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội
dung là bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền
lực nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công
cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa – xã hội và hành chính – chính trị. Nói cách khác,
quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành – điều hành của nhà nước.
2) Nguyên tắc tập trung – dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ được quy định ở Điều 6 Hiến pháp 1992 (sửa
đổi bổ sung 2001) quy định: “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác
của Nhà nước đều tổ chức và hoạt dộng theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Nguyên tắc này bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ, nghĩa là
vừa đảm bảo lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ, vừa đảm bảo mở rộng dân chủ
trên cơ sở lãnh đạo tập trung.Theo Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ
biên) thì: “tập trung” là dồn lại, tụ họp ở một chỗ, một nơi, dồn sức lực, trí tuệ,
hướng hoạt động vào việc gì; còn “dân chủ” là có quyền tham gia, bàn bạc vào
công việc chung, được tôn trọng quyền lợi của từng thành viên trong xã hội;
“nguyên tắc” theo nghĩa chung nhất là những quy tắc, chuẩn mực định hướng, chỉ
đạo đối với hoạt động của con người. Nguyên tắc tập trung - dân chủ là nguyên tắc
quản lý trước hết là sự lãnh đạo tập trung, nhằm đảm bảo thâu tóm quyền lực nhà
nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính sách, pháp
luật một cách thống nhất; đồng thời bảo đảm sự kết hợp việc chỉ đạo tập trung
thống nhất của cơ quan nhà nước ở Trung ương và cơ quan nhà nước cấp trên với
mở rộng dân chủ rộng rãi, bảo đảm thực hiện chế độ trách nhiệm nghiêm túc của
mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ trước công việc được giao. Trong khi đó, dân chủ
hướng tới việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lý nhằm phát huy trí tuệ tập thể
trong hoạt động quản lý, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lý trong


Bài tập học kì Luật Hành chính Việt Nam


quá trình thực hiện chính sách, pháp luật. Bởi vậy, tập trung – dân chủ phải luôn
được phối hợp trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
3) Nội dung của nguyên tắc tập trung – dân chủ trong hoạt động quản lý hành
chính nhà nước
a. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà
nước cùng cấp
Hiến pháp nước ta ghi nhận nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Người dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan
quyền lực nhà nước do chính nhân dân bầu ra để thay họ trực tiếp thực hiện quyền
lực đó (Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp). Cơ quan hành chính nhà nước ở
các cấp chịu sự lãnh đạo, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp). Là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực, cơ quan
hành chính nhà nước thực hiện thống nhất quản lý về mặt hành chính nhà nước các
mặt đời sống kinh tế - xã hội bằng pháp luật. Cơ quan quyền lực có quyền thay đổi
hoặc hủy bỏ các quyết định không hợp pháp của cơ quan hành chính. Cơ quan
hành chính có quyền đề xuất, kiến nghị với cơ quan quyền lực những chủ trương,
chính sách thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan quyền lực.Các cơ quan hành
chính nhà nước luôn có sự phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà nước cùng
cấp:
Trong tổ chức: cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định
trong việc thành lập, sáp nhập hay giải thể các cơ quan hành chính nhà nước ở
cùng cấp. Ở trung ương, Quốc hội lập ra Chính phủ, các cơ quan khác trong hệ
thống cơ quan hành chính nhà nước (Bộ, cơ quan ngang Bộ,…) đều do cơ quan
quyền lực nhà nước trực tiếp hay gián tiếp quyết định việc thành lập, sáp nhập hay
giải thể; ở địa phương, các ủy ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra
và thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở địa phương.
Trong hoạt động: cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám
sát của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt
động của mình trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp: Chính phủ chịu trách

nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, UBND chịu trách nhiệm
trước HĐND cùng cấp. Tất cả sự phụ thuộc nêu trên đều nhằm mục đích đảm bảo
cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với ý chí,


Bài tập học kì Luật Hành chính Việt Nam

nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động. Đồng thời, đó chính là việc đảm
bảo tập trung quyền lực vào hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước – cơ quan do
dân bầu và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Yếu tố dân chủ còn thể hiện ở việc cơ quan quyền lực nhà nước trao quyền
chủ động, sáng tạo cho các cơ quan hành chính nhà nước trong việc chỉ đạo thực
hiện Hiến pháp, luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực nhà nước. Chính
phủ thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật qui định để
thi hành Hiến pháp, luật và các nghị quyết của Quốc hội; còn ủy ban nhân dân thực
hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở địa phương. Các cơ quan quyền lực
nhà nước không can thiệp vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước mà
tạo điều kiện thuận lợi cần thiết để các cơ quan này hoàn thành tốt chức năng,
nhiệm vụ của mình là quản lý hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội.
b. Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương
Nội dung của sự phục tùng này chính là sự phục tùng của cơ quan hành
chính cấp dưới đối với cơ quan hành chính cấp trên, của cơ quan hành chính các
cấp đối với các quyết định và sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và
Thủ tướng Chính phủ; sự phục tùng của đội ngũ cán bộ, công chức cấp dưới đối
với cấp trên; tất cả các yêu cầu, mệnh lệnh do cấp trên và trung ương đưa ra thì cấp
dưới và địa phương có nghĩa vụ phải thực hiện. Thiếu sự phục tùng đó sẽ dẫn đến
việc buông lỏng sự lãnh đạo, quản lý tập trung của trung ương và cấp trên, làm nảy
sinh tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Tuy vậy, sự phục tùng ở
đây không phải là phục tùng vô điều kiện mà là sự phục tùng những mệnh lệnh hợp

pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Ngược lại, cơ quan hành chính cũng như
cán bộ, công chức cấp trên phải tôn trọng ý kiến cơ quan hành chính cấp dưới cũng
như của cán bộ, công chức cấp dưới; phải tạo mọi điều kiện để cấp dưới, địa
phương phát huy sự chủ động, sáng tạo nhằm huy động mọi khả năng về trí tuệ, lao
động… để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Điều này được thể hiện cụ thể như
sau:
Về tập trung, Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ, các
vấn đề của đời sống xã hội từ trung ương đến địa phương, lãnh đạo công tác của
các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp. Người
đứng đầu cơ quan hành chính cấp trên có quyền phê chuẩn nghị quyết của Hội


Bài tập học kì Luật Hành chính Việt Nam

đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp về việc bầu Ủy ban nhân dân; có quyền điều
động, miễn nhiệm, cách chức đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch cơ quan hành chính
cấp dưới trực tiếp; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên khác của
cơ quan hành chính cấp dưới trực tiếp… Trong cơ quan hành chính thực hiện chế
độ thủ trưởng thì thủ trưởng cơ quan hành chính có quyền lãnh đạo toàn diện, phụ
trách toàn diện và quyết định cuối cùng, người phó chịu sự phân công và chịu trách
nhiệm trước thủ trưởng về công việc được phân công.
Về dân chủ,Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số 8 nhóm vấn
đề quan trọng, trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì sẽ thực hiện theo ý kiến
mà Thủ tướng đã biểu quyết; Ủy ban nhân dân thảo luận tập thể và quyết định theo
đa số 6 nhóm vấn đề quan trọng. Bộ trưởng có quyền quyết định các công việc
thuộc phạm vi quản lý của Bộ và chịu trách nhiệm về các quyết định đó, Bộ trưởng
chịu trách nhiệm về những công việc do Bộ trực tiếp quản lý, chịu trách nhiệm liên
đới về những công việc đã phân cấp cho chính quyền địa phương nhưng do Bộ
không thực hiện đầy đủ trách nhiệm.
Sự phục tùng này đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền lực

để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương. Như vậy mới khắc
phục được tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính chủ động sáng tạo, tự
chịu trách nhiệm của địa phương và cấp dưới.
c. Việc phân cấp quản lý:
Phân cấp quản lý là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới
nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lý hành
chính nhà nước. Khi tiến hành phân cấp quản lý, đã có sự phân định rõ chức trách,
nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp trong bộ máy hành chính nhà nước. Mỗi cấp
quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương tiện cần thiết
để thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình. Trong phạm vi thẩm
quyền được giao, mỗi cấp quản lý được phép tiến hành những hoạt động nhất định
nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của mình.Phân cấp hoạt động quản lý hành
chính nhà nước thực chất là mối quan hệ giữa Chính phủ trung ương với chính
quyền địa phương các cấp trong việc thực thi các hoạt động quản lý hành chính
Nhà nước. Đối với nước ta, ở địa phương có 3 cấp quản lý (tương ứng với 3 cấp
chính quyền địa phương) là: UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
UBND quận, huyện, thành phố, thị xã thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;


Bài tập học kì Luật Hành chính Việt Nam

UBND xã, phường.Phân cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân
chủ. Tuy nhiên, điều này chỉ thực sự được thực hiện khi việc phân cấp quản lý đảm
bảo được những yêu cầu sau:
Thứ nhất, việc phân cấp quản lý phải đảm bảo cho trung ương có quyền
quyết định trong những lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược
nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối và hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lý
tập trung và thống nhất của Nhà nước trong phạm vi toàn quốc.
Thứ hai, mạnh dạn giao quyền cho các địa phương, các đơn vị cơ sở để phát
huy tính chủ động tích cực và sáng tạo trong quản lý, tích cực phát huy sức người,

sức của, đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống, trên cơ sở đó hoàn thành mọi
nhiệm vụ được trung ương và cấp trên giao phó. Mạnh dạn phân cấp cho địa
phương và cơ sở là biện pháp đảm bảo tập trung, tránh cho trung ương và cấp trên
phải ôm đồm các công việc mang tính sự vụ thuộc về chức trách của địa phương và
cơ sở.
Thứ ba, việc phân cấp quản lý phải thật cụ thể, hợp lý trên cơ sở những quy
định của pháp luật.
Việc phân cấp trong hoạt động quản lý hành chính thực chất là sự ngược lại
đối với tập trung hoạt động quản lý hành chính nhà nước trong tay Chính phủ. Tập
trung hoạt động quản lý hành chính nhà nước có thể tạo cơ hội để bảo đảm cung
cấp một sự thống nhất về tầm nhìn, về chỉ đạo, định hướng chung, thì phân cấp có
thể giúp tận dụng tốt hơn điều kiện ở địa phương và do đó đem lại hiệu quả cao
hơn, ra quyết định quản lý hành chính được tốt hơn. Việc ban hành các quyết định
về phân cáp quản lý cần có sự cân nhắc, tính toán kĩ lưỡng, tránh đưa ra những
quyết định mang tính chung chung, tùy tiện. Tất cả nội dung của việc phân cấp
quản lý bao giờ cũng phải được thể hiện trong các văn bản pháp luật của các cấp có
thẩm quyền.
d. Hướng về cơ sở:
Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của
cải vật chất, trực tiếp phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của người dân lao
động. Do vậy, trách nhiệm của mọi cơ quan nhà nước là phải tạo điều kiện thuận
lợi cho các đơn vị kinh tế, văn hóa – xã hội hoàn thành tốt công việc của
mình.Hướng về cơ sở chính là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân


Bài tập học kì Luật Hành chính Việt Nam

chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị
kinh tế, văn hóa – xã hội trực thuộc. Các đơn vị đó, trước hết là những tế bào của
nền kinh tế quốc dân, nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, được Nhà nước bảo

hộ quyền sở hữu các tài sản hợp pháp, có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, đồng thời cũng được Nhà nước hướng dẫn, giúp đỡ về vật chất, tinh
thần. Các đơn vị văn hóa – xã hội của hệ thống các đơn vị cơ sở luôn được Nhà
nước quan tâm, cung cấp những trang thiết bị cần thiết để hoạt động, giúp đỡ về
vật chất, tinh thần nhằm tạo ra những điều kiện tốt nhất để các đơn vị này hoạt
động có hiệu quả. Song song với những việc làm nêu trên, Nhà nước cũng có
những chính sách và biện pháp quản lý một cách thống nhất và chặt chẽ tổ chức và
hoạt động của hệ thống các đơn vị cơ sở. Có như vậy mới thúc đẩy mọi hoạt động
của các đơn vị kinh tế, văn hóa – xã hội này phát triển một cách mạnh mẽ theo
đúng định hướng của Nhà nước.
e. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương:
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều được tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều hay còn gọi là nguyên tắc song trùng
trực thuộc. Sự phụ thuộc này thể hiện ở cả hai mặt tổ chức và hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương và được pháp luật quy định một cách cụ
thể.Ở địa phương, ủy ban nhân dân các cấp trước hết phụ thuộc vào hội đồng nhân
dân cùng cấp (phụ thuộc ngang), đồng thời phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà
nước có thẩm quyền chung ở cấp trên trực tiếp (phụ thuộc dọc). Các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND các cấp chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo song trùng, tức là vừa
chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của HĐND và sự quản lý về tổ chức, biên chế và công tác
của UBND cùng cấp, vừa chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn,
nghiệp vụ của cơ quan hành chính cấp trên. Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy
ban nhân dân (sửa đổi) quy định ủy ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp
bầu ra. Kết quả bầu các thành viên của ủy ban nhân dân phải được chủ tịch ủy ban
nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn; kết quả bầu các thành viên của ủy ban nhân
dân cấp tỉnh phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn và ủy ban nhân dân chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân cùng cấp và ủy ban nhân
dân cấp trên. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
hội đồng nhân dân cùng cấp và Chính phủ. Mối phụ thuộc ngang tạo điều kiện cần
thiết cho cấp dưới phát huy dân chủ, phát huy thế mạnh của địa phương để hoàn

thành nhiệm vụ mà cấp trên đã giao phó. Mối phụ thuộc dọc giúp cho cấp trên có


Bài tập học kì Luật Hành chính Việt Nam

thể tập trung quyền lực nhà nước để chỉ đạo hoạt động của cấp dưới, tạo nên một
hoạt động chung thống nhất. Nguyên tắc phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương nhằm bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích chung của
cả nước với lợi ích của địa phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích vùng lãnh thổ.
III.Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG QUẢN
LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Công cuộc Đổi mới đã được Đảng và Nhà nước ta tiến hành và đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Trong đó, những nội dung và yêu cầu của nguyên tắc tập
trung dân chủ đã trở thành tư tưởng chỉ đạo cho quá trình cải cách của bộ máy nhà
nước nói chung, trong đó có bộ máy hành chính và đã thu được những thành tựu
rất quan trọng trong hơn 20 năm qua. Biểu hiện nổi bật nhất là quản lý nhà nước đã
chuyển từ quản lý trực tiếp, chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính sang quản lý vĩ
mô, gián tiếp bằng chính sách, pháp luật trên phạm vi toàn xã hội. Chính phủ, các
Bộ từng bước chuyển sang quản lý vĩ mô thông qua xây dựng và ban hành cơ chế,
chính sách, thể chế, đồng thời tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện thể
chế, phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương những vấn đề về tổ chức thực
hiện; các cấp và bộ phận trong tổ chức hệ thống hành chính đã có sự điều chỉnh,
phân công lại quyền lực quản lý theo 2 hướng: việc quyết định các cơ chế, chính
sách, thể chế quản lý vĩ mô ngày càng mang tính tập trung, còn việc tổ chức thực
thi chính sách, thể chế ngày càng chuyển xuống dưới thông qua quá trình phân cấp
và phân công lại.Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành
chính nhà nước đã giúp cho việc thực hiện quyền lực làm chủ của nhân dân (thông
qua các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và địa phương) hoàn thiện hơn,
người dân có thể thực hiện quyền giám sát của mình một cách hữu hiệu, tạo nên
một cơ chế đảm bảo cho quần chúng tích cực tham gia vào công tác quản lý hành

chính nhà nước. Tuy nhiên, áp dụng yếu tố dân chủ nhưng không thể loại trừ trách
nhiệm cá nhân, nghĩa là, dân chủ nhưng phải gắn với trách nhiệm của từng cá nhân
cụ thể, trong công việc nhất định, ở thời gian xác định. Đồng thời việc áp dụng
nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước cũng tạo nên một
sự thống nhất về ý chí trong việc quản lý hành chính nhà nước, tạo ra sự nhịp
nhàng, ăn khớp giữa các cơ quan, ngành khối trong toàn xã hội mà vẫn bảo đảm để
cho các địa phương trong nước có quyền tự do tương đối trong việc định ra các
hình thức phát triển khác nhau phù hợp với địa phương của mình, tạo nên sức
mạnh tổng thể cho đất nước.


Bài tập học kì Luật Hành chính Việt Nam

Trong công tác xây dựng thể chế, yếu tố tập trung phải đảm bảo là phải đưa
ra được tư tưởng chỉ đạo rõ ràng, nhất quán cho quá trình soạn thảo văn bản quy
phạm pháp luật và thực hiện sự chỉ đạo sát sao quá trình soạn thảo để bảo đảm nội
dung của văn bản phải phảnánh xuyên suốt tư tưởng chỉ đạo đó; còn yếu tố dân chủ
là bảo đảm có sự tham gia đông đảo của nhân dân, trước hết là ý kiến tham gia
thực sự của đối tượng chịu tác động trực tiếp của văn bản trong suốt quá trình soạn
thảo; bảo đảm dành thuận lợi cho người dân; cơ quan, công chức nhà nước phải ở
vào vị trí, vai trò là người phục vụ nhân dân.Trong quản lý hành chính nhà nước,
nguyên tắc tập trung dân chủ có ý nghĩa quan trọng đặc biệt: tập trung là yếu tố
bảo đảm trật tự, kỷ cương, tạo cơ sở cho sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống; dân
chủ được xác định như một nhân tố giải phóng các tiềm năng, phát huy các năng
lực sáng tạo, khuyến khích tính chủ động tích cực; dân chủ là cơ sở của tính đa
dạng, của việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cấp dưới. Đặc biệt, trong
hoạt động quản lý hành chính hiện nay thì sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ
là yêu cầu khách quan của việc “thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (Điều 15 Hiến pháp 1992).
Xuất phát từ vai trò của nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lý hành

chính nhà nước, có thể thấy được ý nghĩa đặc biệt quan trọng của nguyên tắc này
trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay. Quản lý hành
chính nhà nước là hoạt động chấp hành – điều hành của nhà nước, đây chính là hai
mặt thống nhất của quản lý hành chính nhà nước. Điều này phải được thể hiện trên
cả hai hoạt động chấp hành và điều hành.

C.KẾT LUẬN
Nước ta ngày càng phát triển và tham gia, hội nhập sâu rộng vào các tổ chức
quốc tế, cùng với đó là sự phát sinh các vẫn đề trong đời sống xã hội. Bởi vậy, để
việc hội nhập đạt được hiệu quả cao, cũng như để giải quyết các sự việc phát sinh
trong đời sống kinh tế - xã hội thì việc sử dụng nguyên tắc tập trung dân chủ là hết
sức cần thiết. Việc tìm hiểu nguyên tắc tập trung dân chủ có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn vô cùng quan trọng đối với công tác quản lý xã hội và xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay./.


Bài tập học kì Luật Hành chính Việt Nam

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật hành chính Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công
an nhân dân, 2008.
2. Hành chính công, Học viện hành chính quốc gia NXB, NXB Thống kê, 2003.
3. Vấn đề cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy hành chính nhà nước, Nguyễn Phước Thọ, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
2006.
4. Hoàn thiện quy định của pháp luật về phân cấp tổ chức bộ máy và biên chế giữa
Chính phủ với chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Trần Hải,
Luận văn thạc sỹ Luật học.
5. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, NXB Lao động, 2009.
6. Giáo trình Lí luận nhà nước và pháp luật, Trường ĐH luật Hà Nội, NXB Công

an nhân dân, 2000.
6. Một số website



×