Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Bắt người trong trường hợp khẩn cấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.45 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ..............................................................................................................2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ..............................................................................................2
I. Các quy định của pháp luật về bắt người trong trường hợp
khẩn cấp...................................................................................................................2
1. Khái niệm............................................................................................................2
2. Đối
tượng
bị
áp
dụng...........................................................................................2
3. Trường hợp được bắt khẩn cấp...........................................................................3
3.1. Trường hợp thứ nhất........................................................................................3
3.2. Trường hợp thứ hai...........................................................................................5
3.3. Trường hợp thứ ba............................................................................................7
4. Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp................................9
5. Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp....................................................9
II. thực trạng tình hình bắt khẩn cấp hiện nay ở nước ta……………………12
III. Những vướng mắc tồn tại trong việc áp dụng qui định pháp luật
về bắt người trong trường hợp khẩn cấp và nguyên nhân dẫn tới những hạn chế
đó………………………………………………………………………..................12
1. Những vướng mắc tồn tại khi áp dụng qui định pháp luật về bắt người
trong trường hợp khẩn cấp.............................................................................12
2. Nguyên
nhân……………………………………………………………………….13
IV.

Phương hướng hoàn thiện qui định pháp luật về bắt người trong
trường hợp khẩn cấp...............................................................................13

KẾT THÚC VẤN ĐỀ...............................................................................................14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................15

Môn: Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Page 1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết bắt người là một trong những biện pháp ngăn ngừa, để tội
phạm không trốn thoát hay phạm một tội khác… bắt người gồm có 3 trường hợp như
băt bị can, bắt bị cáo để tạm giam và bắt người trong trường hợp khẩn cấp. Để tìm
hiểu thế nào là bắt người trong trường hợp khẩn cấp và bao gồm nhữn trương hợp nào
thì em chọn đề tài là “ Bắt người trong trường hợp khẩn cấp”

NỘI DUNG
I.
Các quy định của pháp luật về bắt người trong trường hợp khẩn cấp.
1. Khái niệm.
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp được qui định cụ thể tại Điều 81 Bộ luật tố
tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003. Từ qui định đó, ta có thể hiểu rằng: bắt người
trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tôi
phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp
thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tội phạm mà người đó
bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm.
2. Đối tượng bị áp dụng.
Không giống như đối tượng bị bắt tạm giam hay bắt bị cáo, đối tượng bị áp dụng bắt
khẩn cấp theo qui định tại Điều 81 BLTTHS 2003 lại là những người chưa bị khởi tố
về hình sự, và càng không phải là những người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
Tuy nhiên, không loại trừ người đã bị khởi tố hay đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét
xử với tư cách là bị can hoặc bị cáo của vụ án khác, nếu hành vi của họ thuộc một

trong ba trường hợp qui định tại khoản 1 Điều 81 BLTTHS 2003.
3. Trường hợp được bắt khẩn cấp.
Khoản 1 Điều 81 BLTTHS 2003 cụ thể ba trường hợp được bắt khẩn cấp như sau:

Môn: Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Page 2


3.1. Trường hợp thứ nhất: Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị
thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (điểm a
khoản 1 Điều 81 BLTTHS).
Đây là trường hợp hành vi khách quan được qui định trong cấu thành tội phạm
chưa xảy ra, tội phạm mới chỉ được thể hiện ở những hành vi tạo ra những điều kiện
tiền đề về vật chất hoặc tinh thần giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội có thể xảy
ra hay xảy ra thuận lợi, dễ dàng hơn ( hay đây thuộc vào giai đoạn chuẩn bi phạm tội
theo quy định của BLHS). Đây cũng là trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã có quá
trình theo dõi hoặc kiểm tra, xác minh các nguồn tin biết một người chuẩn bị những
điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng nên cần phải bắt ngay trước khi tội phạm được thực hiện.
Với qui định tại điểm a khoản 1 Điều 81 BLTTHS như trên, ta có thể hiểu rằng
đối với những trường hợp mà người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm ít nghiêm
trọng hay tội phạm nghiêm trọng thì không được bắt khẩn cấp, mà chỉ áp dụng các
biện pháp chủ động khác mang tính giáo dục, phòng ngừa, răn đe để tội phạm không
xảy ra.
Việc bắt người trong trường hợp này phải đảm bảo hai điều kiện sau:
Điều kiện thứ nhất: có căn cứ khẳng định một người ( hoặc nhiều người) đang
chuẩn bị thực hiện tội phạm.
Những căn cứ này có thể do cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp xác định
qua việc theo dõi đối tượng hoặc kiểm tra, xác minh các nguồn tin do quần chúng

cung cấp đã khẳng định người đó (hoặc những người đó) đang tìm kiếm công cụ,
phương tiện hoặc tạo ra các điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm (Điều 17
BLHS). Vậy căn cứ cho rằng một người (hay một số người) đang chuẩn bị thực hiện
tội phạm phải là những tài liệu để chứng minh người đó (hay những người đó) đang
có hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hoặc tinh thần giúp cho việc thực hiện
hành vi phạm tội xảy ra hoặc có thể xảy ra dễ dàng, có hiệu quả, trốn tránh được sự
điều tra, phát giác của cơ quan có thẩm quyền.
Môn: Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Page 3


Những hành vi nói trên mặc dù chưa trực tiếp xâm hại đến lợi ích của Nhà nước
và công dân nhưng đã đặt lợi ích ấy vào tình trạng bị đe dọa, cần thiết phải được bảo
vệ kịp thời.
Điều kiện thứ hai: tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Chuẩn bị thực hiện tội phạm còn một khoảng cách nhất định với việc thực hiện tội
phạm nên không phải mọi hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm đều cần truy cứu trách
nhiệm hình sự. Điều 17 BLHS quy định chỉ người nào chuẩn bị thực hiện một tội rất
nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Do vậy, muốn bắt khẩn cấp một người (hoặc nhiều người) đang chuẩn bị thực hiện tội
phạm thì phải xác định tội phạm họ đang chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm
trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Theo khoản 3 Điều 8 BLHS qui định: “tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm
gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy
là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại
đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên
mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”. Như vậy, chỉ khi xác định được một
người (hay nhiều người) đang chuẩn bị thực hiện tội phạm nghiêm trọng hoặc tội

phạm đặc biệt nghiêm trọng thì mới được áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp. BLTTHS
qui định như vậy nhằm ngăn ngừa không cho tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng đang được chuẩn bị thực hiện có khả năng gây nguy hại cho các quan
hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Tuy nhiên, việc xác định tội phạm mà một người (hay nhiều người) đang chuẩn bị
thực hiện có phải là tội rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng hay không để có
căn cứ bắt khẩn cấp là một việc rất khó khăn. Trong BLHS có những tội luôn là tội
rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng như tội giết người được qui định tại Điều 93
BLHS. Khi có căn cứ cho rằng một người (hay nhiều người) đang chuẩn bị thực hiện
tội này thì việc xác định đó có phải là tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
Môn: Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Page 4


hay không để quyết định áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp là một điều đơn giản.
Nhưng đối với những tội phạm mà có cấu thành cơ bản là tội nghiêm trọng, còn cấu
thành tăng nặng là tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng và một trong các
tình tiết định khung tăng nặng này là căn cứ vào hậu quả do hành vi phạm tội gây ra
thì khi quá trình thực hiện tội phạm mới ở giai đoạn chuẩn bị thực hiện phạm tội,
chưa gây ra hậu quả và người thực hiện tội phạm chưa thực hiện các hành vi được qui
định tại tình tiết định khung tăng nặng thì không thể xác định được người đó đang
chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng để áp dụng bắt khẩn
cấp đối với họ.
3.2. Trường hợp thứ hai: Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội
phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà
xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn (điểm b khoản 1 Điều 81
BLTTHS).
Đây là trường hợp tội phạm đã xảy ra, nhưng người thực hiện tội phạm không bị
bắt ngay. Sau một thời gian, người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm

chính mắt trông thấy đã xác nhận đúng là người thực hiện tội phạm. Trường hợp này
thuộc vào trường hợp tố giác, cơ quan điều tra cần xác minh lại xem người đó có tố
giác đúng không. Nếu Cơ quan điều tra xét thấy việc tố giác đó là đúng cần ngăn
chặn ngay việc người đó trốn thì ra lệnh bắt khẩn cấp. Trong trường hợp nàyvấn đề
quan trọn không còn là mức độ phạm tội nữa mà rơi vào trường hợp nếu không bắt
thì người đó sẽ trốn mất.
Việc bắt người trong trường hợp này cần đảm bảo hai điều kiện sau:
Điều kiện thứ nhất: phải có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt
trông thấy và trực tiếp xác nhận đứng là người đã thực hiện tội phạm.
Điều này có thể được hiểu là một người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm nhưng
không tận mắt chứng kiến hành vi phạm tội hoặc không có mặt tại nơi xảy ra tội
phạm nhưng được người khác trực tiếp chứng kiến mô tả lại, kể lại cũng không được
coi là căn cứ bắt khẩn cấp; hoặc trường hợp người đó không tận mắt chứng kiến mà
Môn: Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Page 5


chỉ biết người thực hiện tội phạm qua giọng nói (ví dụ như do trời tối, không quan sát
được...) cũng không đủ điều kiện để bắt khẩn cấp trong trường hợp này.
Người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm có thể là người bị hại hoặc người khác đã
chính mắt trông thấy người phạm tội cũng như hành vi phạm tội được thực hiện và
trực tiếp xác nhận với cơ quan có thẩm quyền đúng là người đã thực hiện tội phạm.
Việc xác nhận phải mang tính chất khẳng định, chứ không thể “hình như” hoặc “nhìn
giống như” người đã thực hiện tội phạm. Nếu việc xác nhận không phải do người trực
tiếp chứng kiến sự việc phạm tội thì không coi là điều kiện để bắt khẩn cấp, bởi lẽ
nếu bắt trong trường hợp đó dễ dẫn đến việc bắt nhầm người không thực hiện tội
phạm.
Điều kiện thứ hai: xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn.
Những căn cứ cho rằng người phạm tội bỏ trốn thường là: đang có hành động bỏ

trốn, đang chuẩn bị trốn; hoặc căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn, khó có thể
triệu tập khi cần thiết như: không có nơi cư trú rõ ràng, có nơi cư trú nhưng ở quá xa,
là đối tượng lưu manh, côn đồ, hung hãn, hay chưa xác định được nhân thân người đó
(căn cước lí lịch không rõ ràng). Đối với trường hợp khác thì vẫn tiến hành việc giải
quyết vụ án mà không cần bắt khẩn cấp.
Việc xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn tùy thuộc vào sự đánh giá
của cơ quan, người có thẩm quyền căn cứ vào từng trường hợp cụ thể. Ví dụ, thông
qua hành vi thực tế của người phạm tội như đang chuẩn bị trốn hoặc người thực hiện
hành vi phạm tội không có nơi cư trú rõ ràng, là đối tượng nhân thân xấu, nhiều tiền
án, tiền sự, lí lịch không rõ ràng; từ đó, cơ quan người có thẩm quyền xem xét để
quyết định bắt khẩn cấp đối tượng đó.
3.3. Trường hợp thứ ba: Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ
ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người
đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. (điểm c khoản 1 Điều 81 BLTTHS)
Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền chưa có đủ tài liệu, chứng cứ để xác
định người đó thực hiện tội phạm, nhưng qua việc phát hiện thấy có dấu vết của tội
Môn: Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Page 6


phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người mà người đó bị nghi thực hiện tội phạm và
xét thấy cần ngăn chặn việc người này bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ thì bắt khẩn
cấp.
Việc bắt người trong trường hợp này cần đảm bảo hai điều kiện sau:
Điều kiện thứ nhất: khi thấy dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của
người bị nghi thực hiện tội phạm.
Qua những hoạt động như khám chỗ ở, khám người, xem xét dấu vết trên thân
thể, kiểm tra, kiểm soát hành chính.... Cơ quan có thẩm quyền tìm thấy dấu vết của
tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm. Dấu vết của tội

phạm được hiểu là sự phản ánh vật chất của việc có hành vi phạm tội. Những dấu vết
của tội phạm được tìm thấy có thể là những vật chứng như công cụ, phương tiện
phạm tội, đối tượng của tội phạm (tài sản do phạm tội mà có)... cũng như dấu vết của
tội phạm trên thân thể của người bị nghi thực hiện tội phạm (ví dụ: các vết cào cấu,
cắn, dấu vết máu, lông, tóc,...). Việc phát hiện những dấu vết này chính là sự khẳng
định nghi ngờ của cơ quan có thẩm quyền là chính xác. Việc tìm thấy dấu vết được
coi là căn cứ để bắt khẩn cấp
Điều kiện thứ hai là: cần ngăn chặn người bị nghi thực hiện tội phạm trốn hoặc
tiêu hủy chứng cứ.
Đó là trường hợp khi phát hiện người tình nghi có dấu hiệu muốn trốn hoặc nếu
xác định người bị nghi thực hiện tội phạm không bỏ trốn nhưng lại có căn cứ cho
rằng người đó đang tiêu hủy chứng cứ như đang xóa dấu vết tội phạm, đang cất giấu
công cụ, phương tiện phạm tội, đang tẩu tán tài sản vừa lấy được hoặc đang có hành
vi làm giả chứng cứ làm sai lệch các tài liệu liên quan đến hành vi phạm tội nhằm gây
khó khăn cho việc điều tra xác định tội phạm thì những hành vi đó vẫn được coi là
điều kiện để bắt khẩn cấp.
Như vậy, nếu bắt khẩn cấp theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 81 BLTTHS thì
cơ quan có thẩm quyền “phải thu thập hoặc ghi nhận được dấu vết, tài liệu, đồ vật
liên quan đến tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở, nơi làm việc của người bị nghi thực
Môn: Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Page 7


hiện tội phạm đó” (điểm 3.1 Điều 3 Thông tư liên tịch 05/2005/TTLT-VKSTCBCA-BQP).
Tóm lại, nếu có căn cứ thuộc một trong ba trường hợp qui định tại khoản 1 Điều 81
BLTTHS thì cơ quan có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp.
4. Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp.
Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp được qui định tại khoản
2 Điều 81 BLTTHS 2003. Cụ thể là:

“2. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
b) Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ
huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến
cảng”.
Như vậy, có thể thấy thẩm quyền bắt người trong trường hợp khẩn cấp tương đối
rộng. Điều này xuất phát từ tính chất cấp bách của việc ngăn chặn tội phạm, ngăn
ngừa sự trốn tránh pháp luật cũng như hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, khám
phá tội phạm của người phạm tội, đồng thời để phát huy tính chủ động, tích cực, kịp
thời trong đấu tranh phòng chống tội phạm nên việc bắt khẩn cấp được thực hiện bất
cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Do đó, BLTTHS 2003 đã qui định phạm vi các chủ thể có
thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp là tương đối rộng và điều
này là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn.
5. Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp.
Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp được qui định cụ thể tại khoản 3 và
khoản 4 Điều 81 BLTTHS 2003.
Khoản 3 Điều 81 BLTTHS 2003 qui định:
“3. Nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp
phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 80 của Bộ luật này”.

Môn: Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Page 8


Theo đó, thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp về cơ bản cũng được
BLTTHS quy định và áp dụng tương tự như thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Nghĩa là việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp phải có lệnh bắt. Người thi hành
lệnh bắt phải đọc và giải thích lệnh và phải lập biên bản về việc bắt. Khi tiến hành bắt

người phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đại diện của cơ quan, tổ
chức nơi người bị bắt cư trú hoặc làm việc và người láng giềng chứng kiến. Tuy
nhiên, so với thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam, thủ tục bắt người trong trường
hợp khẩn cấp có một số điểm khác biệt sau:
Thứ nhất: Lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp không cần sự phê chuẩn
của Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành.
Với tính chất và đặc điểm của việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp là rất cấp
bách nên BLTTHS qui định việc bắt người trong trường hợp này không cần sự phê
chuẩn trước của Viện kiểm sát. Qui định như vậy nhằm đảm bảo cho việc bắt đạt hiệu
quả và kịp thời, đúng như tên gọi “khẩn cấp” của trường hợp băt người này, nếu trì
hoãn không tiến hành ngay thì sẽ mất thời cơ ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người
có hành vi phạm tội trốn tránh hoặc gây khó khăn cho việc điều tra khám phá tội
phạm. việc phải có phê chuẩn cảu Viện kiểm sát đối với lệnh bắt khẩn cấp trước khi
thi hành sẽ là một sự “trì hoãn” làm mất đi tính chất cấp bách cảu trường hợp bắt
người này.
Thứ hai: Sau khi bắt người, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm
sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét
phê chuẩn (khoản 4 Điều 81 BLTTHS 2003). Qui định như vậy đảm bảo cho tính
chính xác và tránh sự lạm dụng bắt khẩn cấp của cơ quan có thẩm quyền khi ra lệnh
bắt người trong trường hợp khẩn cấp.
Khoản 4 Điều 81 BLTTHS còn qui định cụ thể như sau:
“Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp quy định tại Điều này.
Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước
khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
Môn: Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Page 9


Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên

quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết
định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã
ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt”.
Đồng thời, Thông tư liên tịch 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP về quan hệ phối
hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số qui định của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, cũng có qui định cụ thể về thủ tục bắt người trong
trương hợp khẩn cấp như sau:
“3.2. Trường hợp uỷ thác bắt khẩn cấp thì ngay sau khi kết thúc việc bắt khẩn cấp,
Cơ quan điều tra được uỷ thác phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra đã uỷ thác
đến nhận người bị bắt và các tài liệu liên quan. Khi đã dẫn giải người bị bắt về đến
trụ sở của mình, Cơ quan điều tra thụ lý vụ án phải chuyển ngay hồ sơ kèm theo
quyết định uỷ thác việc bắt khẩn cấp cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn.
[...]
3.4. Trong mọi trường hợp thời hạn xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp của Viện kiểm
sát phải thực hiện đúng quy định tại Khoản 4 Điều 81 của BLTTHS. Nếu phải trực
tiếp gặp, hỏi người bị bắt hoặc trong trường hợp phải xét phê chuẩn nhiều người bị
bắt khẩn cấp cùng một thời điểm hoặc vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn
này cũng không được quá 12 giờ, kể từ khi Viện kiểm sát nhận được hồ sơ đề nghị xét
phê chuẩn. Thời hạn 12 giờ xét phê chuẩn được tính liên tục kể cả trong và ngoài giờ
làm việc.
3.5. Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt
trước khi xem xét quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp quy
định tại khoản 4 Điều 81 là trường hợp qua nghiên cứu hồ sơ thấy có dấu hiệu lạm
dụng việc bắt khẩn cấp hoặc tài liệu chứng cứ trong hồ sơ bắt khẩn cấp chưa thể
hiện rõ căn cứ để bắt khẩn cấp hoặc có mâu thuẫn.

Môn: Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Page 10



Khi cần gặp, hỏi người bị bắt khẩn cấp, Kiểm sát viên phải thông báo trước để Cơ
quan điều tra tạo điều kiện cho Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ hoặc để phối hợp
trong quá trình gặp, hỏi người bị bắt.
Biên bản ghi lời khai của người bị bắt do Kiểm sát viên lập phải được chuyển cho Cơ
quan điều tra để đưa vào hồ sơ vụ án”.
II.

Thực trạng tình hình bắt khẩn cấp của nước ta hiện nay

Thực tiễn công tác điều tra mở rộng các vụ án hình sự nói chung, đặc biệt là các
vụ án ma túy, Cơ quan điều tra gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc vận
dụng các quy định về bắt người trong trường hợp khẩn cấp. Việc ra lệnh bắt khẩn
cấp của Cơ quan điều tra hiện nay căn cứ nhiều từ lời khai của đối tượng, bị can
trong các vụ án để mở rộng các đối tượng tham gia mua bán, vận chuyển ma túy...
Trong trường hợp có các tài liệu trinh sát, list điện thoại chứng minh quan hệ thì
việc ra lệnh bắt khẩn cấp đúng căn cứ pháp luật và được Viện kiểm sát phê chuẩn.
Tuy nhiên, có nhiều trường hợp không có tài liệu trinh sát, mà chỉ căn cứ vào lời
khai của đối tượng, bị can mà Điều tra viên đánh giá là tin cậy, Cơ quan điều tra
vận dụng bắt khẩn cấp nhằm phục vụ công tác điều tra, mở rộng vụ án nhưng
không được Viện kiểm sát phê chuẩn nên Cơ quan điều tra chỉ triệu tập đối tượng
đến Cơ quan điều tra lấy lời khai và ra lệnh khám xét khẩn cấp nếu thu được vật
chứng là ma túy thì mới ra lệnh bắt khẩn cấp. Thực tế này dễ dẫn đến việc các đối
tượng bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Đồng thời với đó là cản trở công tác điều
tra, mở rộng vụ án.
III . Những vướng mắc tồn tại trong việc áp dụng qui định pháp luật về bắt
người trong trường hợp khẩn cấp và nuyên nhân của những hạn chế đó.
1. Những vướng mắc tồn tại khi áp dụng qui định pháp luật về bắt người
trong trường hợp khẩn cấp.
Đối với việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, quy định tại Điều 81 BLTTHS

về các trường hợp bắt cơ bản là phù hợp với thực tiễn, nhưng trong quá trình thực
hiện vẫn còn tồn tại một số vướng mắc như sau:
Môn: Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Page 11


Thứ nhất, Cơ quan điều tra gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc vận dụng
quy định tại điểm b khoản 1 Điều 81 BLTTHS 2003. Theo đó, cơ quan, người có thẩm
quyền được ra lệnh bắt khẩn cấp trong trường hợp “khi người bị hại hoặc người có
mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực
hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn”. Có thể thấy,
việc ra lệnh bắt khẩn cấp của Cơ quan điều tra hiện nay căn cứ nhiều từ lời khai của
đối tượng, bị can trong các vụ án để mở rộng các đối tượng tham gia thực hiện tội
phạm. Trong trường hợp có các tài liệu trinh sát, danh sách điện thoại chứng minh
quan hệ giữa các đối tượng trong vụ án thì việc ra lệnh bắt khẩn cấp là đúng căn cứ
pháp luật và được Viện kiểm sát phê chuẩn. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp không có
tài liệu trinh sát, mà chỉ căn cứ vào lời khai của đối tượng, bị can mà Điều tra viên
đánh giá là tin cậy, Cơ quan điều tra vận dụng bắt khẩn cấp nhằm phục vụ công tác
điều tra, mở rộng vụ án nhưng không được Viện kiểm sát phê chuẩn nên Cơ quan
điều tra chỉ triệu tập đối tượng đến Cơ quan điều tra lấy lời khai và ra lệnh khám xét
khẩn cấp nếu thu được vật chứng thì mới ra lệnh bắt khẩn cấp. Thực tế này dễ dẫn
đến việc các đối tượng bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Đồng thời với đó là cản trở
công tác điều tra, mở rộng vụ án.
Thứ hai, Khoản 2 Điều 81 BLTTHS quy định về thẩm quyền ra lệnh bắt người
trong trường hợp khẩn cấp, trong đó có người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay,
tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Khoản 3 Điều 81 BLTTHS quy định về nội
dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 80
BLTTHS, tức là khi người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi
sân bay, bến cảng ra lệnh và thi hành việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì

khi tiến hành phải mời người chứng kiến, tham dự. Nhưng ở trên tàu bay, tàu biển thì
không thể có đủ thành phần chứng kiến như khoản 2 Điều 80 BLTTHS quy định.
Thứ ba, Khoản 4 Điều 81 BLTTHS quy định thẩm quyền xét phê chuẩn lệnh bắt
khẩn cấp là VKS cùng cấp, nhưng đối với lệnh bắt khẩn cấp của người chỉ huy tàu
bay, tàu biển thì VKS cùng cấp là VKS nào cũng không được quy định rõ trong luật.
Môn: Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Page 12


Mặc dù liên ngành các cơ quan tiến hành tố tụng ở Trung ương hoặc từng ngành đã
có hướng dẫn nhưng để đảm bảo tính hợp pháp và thống nhất trong việc thi hành thì
phải được quy định cụ thể trong BLTTHS.
Thứ tư, thời hiệu của lệnh bắt khẩn cấp cũng là vấn đề còn vướng mắc khi các cơ
quan có thẩm quyền áp dụng trong thực tế, Bộ luật Tố tụng hình sự chưa qui định và
chưa có thông tư hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Cụ thể là khi thực hiện lệnh bắt
khẩn cấp, đối tượng bỏ trốn, tài liệu khởi tố bị can chưa đủ nên chưa khởi tố được bị
can, một thời gian sau đối tượng xuất hiện, nếu dùng lệnh bắt khẩn cấp cũ sẽ không
được Viện kiểm sát phê chuẩn. Vì vậy, Cơ quan điều tra chỉ có thể triệu tập đối tượng
để lấy lời khai. Nếu đối tượng không khai nhận thì không thể xử lý hình sự được.
Điều này chính là khe hở dẫn đến bỏ lọt tội phạm.
2. Nguyên nhân
Có thể thấy những nguyên nhân dẫn đến sự vướng mắc trong quy trình áp dụng
các trường hợp bắt khẩn cấp có thể là ; thứ nhất trình tự thủ tục tố tụng dài dòng phức
tạp, niều trường hợp xác nhận lại thông tin hay xin lệnh của VKS là rất phức tạp và
tốn thời gian. Thứ hai là trình độ áp dụng và xử lý của cơ quan có thẩm quyền còn
chưa cao, và thứ ba là thẩm quyền bắt người trong trường hợp khẩn cấp cần quy định
một cách toàn diện hơn. Ngoài ra Thời hiệu của lệnh bắt khẩn cấp cũng là vấn đề
nhiều cơ quan tố tụng ở địa phương vướng mắc do không qui định cụ thể thời gian.
III. Phương hướng hoàn thiện qui định pháp luật về bắt người trong trường

hợp khẩn cấp.
Thứ nhất, căn cứ bắt khẩn cấp theo điểm b khoản 1 Điều 81 Bộ luật Tố tụng
Hình sự cần được nghiên cứu sửa đổi hoặc bổ sung theo hướng: “Căn cứ vào lời
khai của đối tượng hoặc bị can trong các vụ án mà lời khai đó được Điều tra viên
đánh giá là tin cậy và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn hoặc tiêu
hủy chứng cứ” nhằm tháo gỡ khó khăn trong công tác điều tra và nâng cao hiệu
quả đấu tranh phòng, chống tội phạm trong xã hội hiện nay.
Môn: Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Page 13


Thứ hai, qui định tại Điều 81 BLTTHS về thủ tục bắt người trong trường hợp
khẩn cấp cần được bổ sung theo hướng: “trong trường hợp bắt khẩn cấp trên tàu bay,
tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay bến cảng thì người chứng kiến là
người (hành khách) đang ở trên tàu bay, tàu biển đó”.
Thứ ba, BLTTHS cần có qui định cụ thể về thẩm quyền của Viện kiểm sát xét phê
chuẩn lệnh bắt khẩn cấp của người chỉ huy tàu bay, tàu biển nhằm đảm bảo tính hợp
pháp và thống nhất trong việc thi hành qui định pháp luật về vấn đề này trên thực tế.
Thứ tư, cần quy định lệnh bắt khẩn cấp (nếu chưa khởi tố được bị can) có giá trị
trong thời hạn điều tra vụ án. Khi thực hiện lệnh bắt khẩn cấp, đối tượng không có ở
nhà thì lực lượng bắt bí mật lệnh, đồng thời lập biên bản xác nhận với chính quyền
địa phương việc đối tượng vắng mặt. Trong thời gian chưa bắt được đối tượng, Cơ
quan điều tra tiếp tục củng cố chứng cứ, nếu đủ căn cứ thì ra quyết định khởi tố bị
can, không đủ căn cứ thì khi kết thúc điều tra chuyển tài liệu cho lực lượng trinh sát
để lập án đấu tranh.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Bắt người trong trường hợp khản cấp là một trong những biện pháp ngăn ngừa tội
phạm có ý nghĩa vô cùng quan trọng để đảm bảo không để tội phạm lọt hay trốn thoát

mất công truy tìm, và để tránh tội phạm thực hiện những hành vi mới, hành vi nguy
hiểm cho xã hội.

Môn: Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Page 14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
**********************
1. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật hà Nội, Nxb.
Tư pháp, Hà Nội, 2006.
2. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Nxb Lao động, Hà Nội, 2011.
3. Thông tư liên tịch 05/2005/ TTLT-VKSTC-BCA-BQP về quan hệ phối hợp
giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số qui định
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
4. Nguyễn Hồng Ly, Biện pháp ngăn chặn bắt người và thực tiễn áp dụng của Cơ
quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hải Phòng, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, 2011.
5. Bùi Thúy Hằng, Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam, Khóa luận tốt
nghiệp, 2011.
6.
7. />
Môn: Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Page 15




×