Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phân tích nguyên tắc tập trung – dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.45 KB, 14 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Cũng giống như bất kì hoạt động có mục đích nào, quản lí hành chính nhà
nước được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đây là tư tưởng chủ
đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho các chủ thể quản lí hành
chính nhà nước được thực hiện có hiệu quả công việc của mình trên các lĩnh vực
được quan tâm. Một trong các nguyên tắc ấy là nguyên tắc tập trung dân chủ,
nguyên tắc này có vai trò quan trọng trong hoạt động quản lí nhà nước cũng như
xuất phát từ bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân. Nhận
thấy tầm quan trọng của vấn đề này em xin chọn đề tài : “Phân tích nguyên tắc tập
trung – dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lí hành chính
nhà nước ở Việt Nam hiện nay”.

NỘI DUNG
1. Khái quát về nguyên tắc tập trung dân chủ.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm về nguyên tắc tập trung dân chủ, điển hình là
có ba quan điểm nổi bật về nguyên tắc này như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng nội dung của nguyên tắc này là sự kết hợp hai
mặt tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và
hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể
thống nhất kết hợp hài hòa với nhau. Nếu thiên về tập trung mà không chú trọng
đến dân chủ sẽ dẫn đến tập trung quan liêu, độc đoán trái với bản chất của Nhà
nước ta. Ngược lại, nếu thiên về dân chủ mà coi nhẹ tập trung sẽ dẫn đến dân chủ
quá trớn làm cho hoạt động của bộ máy nhà nước kém hiệu quả.
Quan điểm thứ hai lại cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ là “sự” tập trung
“một cách” dân chủ. Nguyên tắc này thể hiện sự tập trung trên cơ sở dân chủ chân
chính, kết hợp sáng tạo với sự thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh và tinh thần trách
nhiệm, ý thức kỷ luật cao.
Quan điểm thứ ba cho rằng tập trung dân chủ là việc thủ trưởng có toàn quyền
quyết định các vấn đề của cơ quan trên cơ sở đóng góp ý kiến của nhân viên. Hay
nói một cách khác, việc đóng góp ý kiến của cán bộ, công nhân viên, các thành viên



trong cơ quan, đơn vị chỉ có ý nghĩa tham khảo và việc quyết định thuộc thẩm
quyền của thủ trưởng.
Như vậy, một điểm chung nhất giữa các loại ý kiến đó là nguyên tắc tập trung
dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước là sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung
và dân chủ. Sự kết hợp giữa các mặt này là không giống nhau, điều đó phụ thuộc
vào tính chất của các cơ quan, phụ thuộc vào trình độ quản lý, vào điều kiện cụ thể
về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên theo em nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hòa giữa
hoạt động quản lí thống nhất của các cơ quan nhà nước ở trung ương và các cơ quan
nhà nước cấp trên với việc mở rộng dân chủ, phát huy tính chủ động, sáng tạo của
các cơ quan nhà nước địa phương và các cơ quan nhà nước cấp dưới.
Dân chủ là bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Có đảm bảo dân chủ mới
có thể phát huy trí tuệ và sức mạnh của tập thể, phát huy tính chủ động và sức sáng
tạo của nhân dân. Tuy nhiên nếu quá đề cao yếu tố dân chủ sẽ dẫn đến tình trạng
không thống nhất, cục bộ cá nhân chủ nghĩa, vô chính phủ, do vậy, dân chủ phải
gắn với tập trung. Trong quản lí nhà nước, quản lí xã hội nói chung và quản lí hành
chính nhà nước nói riêng đòi hỏi phải có sự tập trung quyền lực, có tập trung mới
quản lí xã hội, mới thiết lập một trật tự nhất định. Tuy nhiên, nếu quá đề cao yếu tố
tập trung sẽ dẫn đến tập trung quan liêu, lạm quyền độc đoán, vì vậy, tập trung phải
đi liền với dân chủ. Như vậy, tập trung dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất
không thể tách rời.
2. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước.
2.1 Cơ sở của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà
nước
Mỗi một nguyên tắc trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của hoạt động nhà
nước và hoạt động quản lí hành chính nhà nước cũng được dựa trên ba cơ sở chính
đó là: cơ sở lí luận, cơ sở pháp lí và cơ sở thực tiễn.
- Cơ sở lí luận
Tập trung là một thuộc tính quản lý quan trọng của bất kỳ nhà nước nào, song

nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và nhà nước ta nói riêng không áp dụng sự tập
trung độc đoán hay tập trung quan liêu mà là tập trung trên cơ sở dân chủ chân
chính. Sự tập trung đó rất xa lạ với tập trung quan liêu, tách rời bộ máy nhà nước


với nhân dân. Đúng như V.I.Lênin đã nhấn mạnh rằng, nguyên tắc tập trung dân
chủ ở nghĩa chung nhất là: tập trung được hiểu ở nghĩa dân chủ thực sự. Tập trung
trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước phải mang tính dân chủ chứ
không phải tập trung độc đoán, tập trung quan liêu.
Bất kỳ xã hội và bất kỳ kiểu nhà nước nào, việc quản lý xã hội và thực hiện
quyền lực nhà nước (quản lý nhà nước) đều phải có sự tập trung quyền lực. Đây là
yếu tố bắt buộc và mang tính tất yếu nhằm điều khiển (quản lý) được toàn bộ các
hoạt động xã hội, thiết lập và duy trì một trật tự xã hội phù hợp với ý chí và bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Tuy nhiên, nội dung (tính chất) của sự tập trung
trong các chế độ xã hội và chế độ nhà nước hoàn toàn không giống nhau. Điều đó
trước hết phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội, chế độ nhà nước, phụ thuộc vào
trình độ phát triển của xã hội. Trong xã hội phong kiến, quyền lực nhà nước tập
trung trong tay giai cấp thống trị phong kiến mà đại diện là nhà vua; đặc biệt ở các
nhà nước theo chính thể quân chủ chuyên chế, chế độ cai trị thể hiện sự độc đoán,
chuyên quyền, phản dân chủ (hoặc có dân chủ nhưng rất hạn chế). Đến chế độ tư
bản chủ nghĩa, tập trung, quan liêu là đặc trưng điển hình của việc tổ chức bộ máy
nhà nước tư sản. Các cơ quan cai trị với những quan lại cai trị được bổ nhiệm từ
trên xuống luôn kiêu căng, lấn át, xa rời thực tế; chỉ chịu trách nhiệm trước cấp trên
mà không chịu trách nhiệm trước nhân dân và không chịu sự giám sát của nhân dân.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã kịch liệt phê phán cơ chế tập trung
quan liêu đó. Đối với bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa thì một nguyên tắc mới đã
được vận dụng, đó là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ xuất phát từ quan điểm Mác – Lênin, nghĩa là tư
quan điểm của giai cấp công nhân, coi nhà nước về mặt tổ chức và hoạt động như là
một công cụ để xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa, rồi chủ nghĩa cộng

sản với ý thức cao về những quy luật phát triển của nó và những đặc điểm của đất
nước.
-

Cơ sở pháp lí.
Nguyên tắc này đã được ghi nhận tại Điều 4 Hiến pháp 1959, Điều 6 Hiến

pháp 1980 và Điều 6 Hiến pháp 1992 “…Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ


quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân
chủ”. Không những ở nước ta, các nước xã hội chủ nghĩa cũng ghi nhận nguyên tắc
này trong Hiến pháp. Nguyên tắc tập chung dân chủ được xác định là nguyên tắc cơ
bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, đồng thời cũng là
nguyên tắc cơ bản trong hoạt động quản lí hành chính.
Như vậy nguyên tắc tập trung dân chủ được quy định trong Hiến pháp – văn
bản pháp lí có giá trị pháp lí cao nhất trong hệ thống văn bản pháp luật nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Được ghi nhận trong đây là nguyên tắc cơ
bản và quan trọng mà mọi hoạt động đều phải ghi nhận và làm theo nguyên tắc này.
Bên cạnh đó nguyên tắc tập trung dân chủ còn được quy định cụ thể ở những
văn bản luật và dưới luật như trong luật cán bộ công chức năm 2008 được quy định
tại khoản 3 Điều 5: “ thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ trách nhiệm
cá nhân và phân công, phân cấp rõ ràng” . Và còn cụ thể trong các văn bản luật và
dưới luật khác.
-

Cơ sở thực tiễn.

Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc được áp dụng cho bộ máy nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, ỏ mỗi hệ thống cơ quan khác nhau thì việc áp

dụng nguyên tắc này lại khác nhau. Đồng thời khi vận dụng nguyên tắc này còn
phải tính đến các yếu tố và điều kiện cụ thể như trình độ văn hóa, ý thức pháp luật,
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội… Vấn đề quan trọng là tìm ra được một tỉ lệ hợp
lí trong sụ kết hợp giữa dân chủ và tập trung đối với từng cơ quan, từng loại cơ
quan để đảm bảo tính thực tiễn và mang lại hiệu quả cao trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước
Xuất phát từ bản chất của nhà nước ta muốn xây dựng nhà nước pháp chế xã
hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân không thể không tuân thủ theo nguyên tắc
tập trung dân chủ. Bên cạnh đó trong điều kiện nước ta hiện nay sự lãnh đạo tập
trung trên cơ sở dân chủ là yêu cầu khách quan của việc thực hiện nhất quán chính
sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” ( Điêu 15 Hiến pháp
năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001).


2.2 Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính
nhà nước.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà
nước và hoạt động quản lí hành chính nhà nước cũng được tổ chức thực hiện trên cơ
sở tuân thủ nội dung của nguyên tắc này. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản
lí hành chính nhà nước được biểu hiện ở những nội dung sau :
2.2.1 Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền
lực nhà nước cùng cấp
Ðiều 6-Hiến pháp 1992 quy định : Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước
thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân
dân.
Như vậy, Hiến pháp quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,
nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước
do chính họ bầu ra để thay mặt mình trực tiếp thực hiện những quyền lực đó. Ðể
thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước, hệ thống cơ quan hành chính nhà

nước được thành lập và nó luôn có sự phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà
nước cùng cấp. Ví dụ như Chính phủ phụ thuộc vào Quốc Hội, Ủy ban nhân dân
phụ thuộc vào Hội đồng nhân dân. Sự phụ thuộc này thể hiện ở việc các thành viên
của Chính phủ chịu sự chất vấn trực tiếp của Đại biểu Quốc hội.
Các cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc
thành lập, thay đổi, bãi bỏ, các cơ quan hành chính cùng cấp Chính phủ do Quốc hội
bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm (đối với Thủ tướng), phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức (đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ) theo đề nghị của Thủ tướng, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành viên của
Chính phủ. Quốc hội thành lập, sáp nhập, giải thể các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các
đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt theo sự đề nghị của Thủ tướng (sau khi đã được
tập thể Chính phủ quyết định). Chính phủ thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do
Hiến pháp và pháp luật qui định để thi hành Hiến pháp, luật và các nghị quyết của
Quốc hội. Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số 8 nhóm vấn đề quan
trọng, trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì sẽ thực hiện theo ý kiến mà Thủ
tướng đã biểu quyết. Thủ tướng có quyền quyết định cá nhân những vấn đề khác


(Điều 20, Luật tổ chức Chính phủ 2001). Ủy ban nhân dân các cấp do Hội đồng
nhân dân cùng cấp bầu ra. Người đứng đầu cơ quan hành chính cấp trên có quyền
phê chuẩn nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp về việc bầu Ủy ban
nhân dân; có quyền điều động, miễn nhiệm, cách chức đối với Chủ tịch, Phó Chủ
tịch cơ quan hành chính cấp dưới trực tiếp; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm
các thành viên khác của cơ quan hành chính cấp dưới trực tiếp. Ủy ban nhân dân
thảo luận tập thể và quyết định theo đa số 6 nhóm vấn đề quan trọng. Chủ tịch Ủy
ban nhân dân quyết định những vấn đề còn lại thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy
ban nhân dân. Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Các cơ quan thuộc Chính phủ
làm việc theo chế độ thủ trưởng, bảo đảm tính dân chủ. Bộ trưởng có quyền quyết
định các công việc thuộc phạm vi quản lý của Bộ và chịu trách nhiệm về các quyết
định đó, Bộ trưởng chịu trách nhiệm về những công việc do Bộ trực tiếp quản lý,

chịu trách nhiệm liên đới về những công việc đã phân cấp cho chính quyền địa
phương nhưng do Bộ không thực hiện đầy đủ trách nhiệm. Tập trung dân chủ không
phải là cơ quan cấp trên làm thay hoặc “lấn sân” cơ quan cấp dưới, đồng thời cũng
không phải là việc cơ quan cấp dưới ỷ lại, đùn đẩy cho cấp trên..
Đồng thời trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ
đạo, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt
động của mình với các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Bên cạnh đó yếu tố dân chủ thể hiện rõ nét trong việc cơ quan quyền lực nhà
nước trao quyền chủ động sáng tạo cho các cơ quan hành chính nhà nước trong việc
chỉ đạo thực hiện hiến pháp, luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực nhà
nước.Các cơ quan quyền lực nhà nước không can thiệp vào hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước mà tạo điều kiện thuân lợi cần thiết để các cơ quan này
hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ của mình là quản lí hành chính trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Ví dụ như quyết định hành chính của cấp trên cơ quan ban
hành chưa kịp sửa chữa những quyết định đã lỗi thời, không còn phù hợp nữa, hoặc
cơ quan ban hành không tính hết được những đặc điểm của từng địa phương, cơ sở
nên có thể quyết định phù hợp với nơi này nhưng không phù hợp với nơi khác.
Trong trường hợp này, các địa phương, cơ sở khi áp dụng vẫn phải thi hành nghiêm


chỉnh quyết định của cấp trên, đồng thời kiến nghị với cơ quan cấp trên bãi bỏ hoặc
sửa đổi cho phù hợp với tình hình cụ thể của địa phương, cơ sở.
Cơ quan quyền lực Nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc thành
lập, bãi bỏ các cơ quan hành chính nhà nước:
Ở trung ương: Quốc hội thành lập Chính phủ và trao quyền hành pháp cho
chính phủ
Ở địa phương: Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra (Điều
123 Hiến pháp năm 1992) và thực hiện hoạt động quản lí nhà nước ở địa phương
Dân chủ được thể hiện rõ nét trong việc cơ quan quyền lực Nhà nước trao
quyền chủ động sáng tạo cho cơ quan hành chính Nhà Nước trong quá trình cơ quan

này chỉ đạo thực hiện pháp luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực.
Tất cả sự phụ thuộc này nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động của hệ thống
cơ quan hành chính nhà nước, phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân
dân lao động, bảo đảm sự tập trung quyền lực vào cơ quan quyền lực – cơ quan do
nhân dân bầu và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
2.2.2 Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, của địa phương đối với
trung ương
Nhờ có sự phục tùng này cấp trên và trung ương mới tập trung quyền lực nhà
nước để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương, nếu không có
sự phục tùng sẽ xảy ra tình trạng cục bộ địa phương, tùy tiện, vô chính phủ.
Sự phục tùng này thể hiện ở hai phương diện trước hết là sự phục tùng mệnh
lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Ví dụ như các quyết định của cấp
trên phải cấp dưới phải tuân thủ và thực hiện nghiêm ngặt. Cụ thể như Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp Tỉnh ra quyết định với các Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã
thì các cá nhân tập thể có trách nhiệm làm thực hiện theo quyết định nếu không thực
hiện tốt có thể bị xử lí kỉ luật theo luật Cán bộ công chức và nếu có thiệt hại xảy ra
phải chịu trách nhiệm vật chất và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Mặt khác, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương về
công tác tổ chức, hoạt động và về các vấn đề khác của quản lý hành chính nhà nước
và phải tạo điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy sự chủ động, sáng tạo nhằm
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nhằm chủ động thực hiện được "thẩm quyền
cấp mình". Có như thế mới khắc phục tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi
tính chủ động sáng tạo chủ động của địa phương, cấp dưới.
2.2.3 Sự phân cấp quản lý


Là sự phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong bộ máy quản lí hành
chính nhà nước. Mỗi cấp quản lí có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và
những phương thức cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu, nhiệm
vụ của cấp mình.

Phân cấp quản lí là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên,
việc phân cấp phải đảm bảo những yêu cầu sau :
+ Phải xác định quyền quyết định của trung ương đối với những lĩnh vực then
chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược để đảm bảo sự phát triển cân đối hài hòa
của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lí tập trung và thống nhất của nhà nước trong
phạm vi toàn quốc.
+ Phải mạnh dạn phân quyền cho địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy
tính chủ động sáng tạo trong quản lí, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy
mạnh sản xuất và phục vụ đời sống nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao
phó.
+ Phải phân cấp quản lí cụ thể, hợp lý trên cơ sở quy định của pháp luật. Hạn
chế tình trạng cấp trên gom quá nhiều việc, khi không làm xuể công việc ấy thì giao
lại cho cấp dưới. Phân cấp quản lí phải xác định chức năng cơ quan. Mỗi loại việc
chỉ được thực hiện bởi một cấp cơ quan, hoặc một vài cấp cơ quan. Cấp trên không
phải lúc nào cũng thực hiện được một số chức năng một cách có hiệu quả như cấp
dưới .
Xu hướng là lựa chọn đúng việc để phân cấp và khi đã được phân cấp thì chính
quyền địa phương chịu trách nhiệm về kết quả quản lý công việc được giao như
thẩm quyền giao đất, cấp đất, thu hồi đất trước đây vừa thuộc Thủ tướng Chính phủ,
vừa thuộc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, nay đã giao cho chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tỉnh; thẩm quyền quyết định các dự án đầu tư, quyết định về ngân sách, về giáo
dục, y tế, về tổ chức bộ máy và biên chế sự nghiệp v.v. Thẩm quyền và trách nhiệm
của chính quyền địa phương các cấp so với 15 năm trước đây đã có sự gia tăng và
mở rộng đáng kể. Đặc biệt, Chính phủ đã có Nghị định riêng về phân cấp cho 2
thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, qua đó phát huy tính chủ động,
tự chịu trách nhiệm của chính quyền 2 thành phố, đây là những thử nghiệm để tiếp
tục mở rộng phân cấp cho các địa phương khác.


Khi cấp trên trao quyền cho cấp dưới thì được thể hiện bằng văn bản ví dụ như

ra các quyết định các Nghị định.Ví dụ như Chính phủ ban hành Nghị định số
71/2003/NĐ- CP ngày 19-6-2003 về phân cấp quản lí biên chế hành chính sự
nghiệp nhà nước giao quyền quản lí cho các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để
quản lí biên chế hành chính sự nghiệp. Hay quyết định số 3035/QĐ-UBND về việc
ban hành quy định về phân cấp và ủy quyền quản lí dự án đầu tư xây dựng trên địa
bàn tỉnh Bạc Liêu của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu cụ thể phân quyền
quản lí cho chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp xã trông tỉnh Bạc Liêu về các
dự án cụ thể.
Ý nghĩa của việc phân cấp quản lí là trung ương có điều kiện để quản lí vĩ mô
có hiệu quả bên cạnh đó địa phương các ngành được phân cấp có quyền chủ động
hoàn thiện trách nhiệm của mình.Và Phân cấp quản lý nhà nước có mục tiêu tối
thượng là làm tăng hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước. Những lợi ích của phân
cấp quản lý hành chính được biểu hiện trên nhiều khía cạnh
2.2.4 Sự hướng về cơ sở
Hướng về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên
cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế,
văn hóa xã hội trực thuộc. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi
tạo ra của cải vật chất trực tiếp phục vụ đời sống nhân dân. Ví dụ như Trường đại
học Luật là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Tư pháp đào tạo ra các cán bộ pháp lí và
cử nhân luật học để phục vụ cho sự phát triển pháp lí của nước nhà, phục vụ lợi ích
nhân dân. Các đơn vị đó được nhà nước bảo hộ quyền sở hữu các tài sản hợp pháp
có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh đồng thời cũng được nhà nước hướng
dẫn, giúp đỡ về tinh thần. Các đơn vị văn hóa xã hội của hệ thống các đơn vị cơ sở
luôn được Nhà nước quan tâm, cung cấp những thiết bị cần thiết để hoạt động, giúp
đỡ về vật chất, tinh thần nhằm tạo ra những điều kiện tốt nhất để các đơn vị này
hoạt động có hiệu quả


Bên cạnh đó nhà nước cần có các chính sách quản lí thống nhất và chặt chẽ tổ

chức và hoạt động của hệ thống các đơn vị cơ sở nhằm tạo điều kiện để đơn vị cơ sở
hoạt động có hiệu quả. Có như vậy hoạt động của các đơn vị này mới phát triển một
cách mạnh mẽ theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðây cũng chính là việc thực
hiện “dân là gốc” trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Như vậy các đơn vị
cơ sở được ưu tiên phát triển nhà nước cho ngân sánh đầu tư như đầu tư cho các
đơn vị sự nghiệp như trường học bệnh viện các doanh nghiệp kinh tế …. vật chất kĩ
thuật để phục vụ lợi ích người dân.
2.2.5 Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc phụ thuộc hai chiều hay còn gọi là nguyên tắc song trùng trực thuộc. Sự
phụ thuộc này thể hiện cả ở mặt tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương và được pháp luật quy định một cách cụ thể.
Ðối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung một mặt phụ thuộc vào cơ
quan quyền lực nhà nước cùng cấp, mặt khác phụ thuộc vào cơ quan hành chính cấp
trên.
Ví dụ: Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình một mặt chịu sự chỉ đạo của hội đồng
nhân dân tỉnh Thái Bình theo chiều ngang, một mặt chịu sự chỉ đạo của Chính phủ
theo chiều dọc. Cụ thể theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
năm 2003 đã sửa đổi bổ sung quy định ủy ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng
cấp bầu ra…kết quả bầu các thành viên của ủy ban nhân dân phải được chủ tịch ủy
ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn; kết quả bầu các thành viên của ủy ban
nhân dân cấp tỉnh phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn và ủy ban nhân dân
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân cùng cấp và ủy ban
nhân dân cấp trên.
Ðối với cơ quan chuyên môn, một mặt phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà
nước có thẩm quyền chung cùng cấp, mặt khác nó phụ thuộc vào cơ quan hành
chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên trực tiếp.



Ví dụ: Sở Tư pháp Thành phố Hải Phòng, một mặt phụ thuộc vào uỷ ban nhân
dân Thành phố Hải Phòng, mặt khác phụ thuộc vào Bộ Tư pháp.
Nguyên tắc song trùng trực thuộc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích chung của nhà nước với lợi ích của địa
phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích lãnh thổ.
3. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà
nước ở Việt Nam hiện nay
Điều 2 Hiến pháp 1992 khẳng định: “ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp nhân dân với giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức”. Như vậy, nhà nước ta là nhà nước chuyên chính
vô sản, theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong
quản lí nhà nước nói chung và trong quản lí hành chính nói riêng là điều tất yếu và
rất cần thiết. Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính
nhà nước hiện nay nó có ý nghĩa rất lớn.
Trước hết, nguyên tắc tập trung dân chủ nó là nguyên tắc cơ bản, đóng vai trò
là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình thực hiện quản lý nhà nước, quản lí
xã hội. Trong quản lí hành chính thì nguyên tắc này nó đảm bảo cho sự tập trung
quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lí quản lí để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện
chính sách, pháp luật một cách thống nhất, đồng thời nguyên tắc này, đảm bảo việc
mở rộng quyền cho đối tượng quản lí nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động
quản lí, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lí trong quá trình thực hiện
chính sách, pháp luật. Như vậy, mặc dù nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên
tắc quản lí hành chính nhà nước mang tính chất chỉ đạo hoạt động nhận thức và cải
tạo xã hội nhưng khi vận dụng vào thực tế, nguyên tắc này đã giúp cho công tác
quản lí hành chính nhà nước đạt được những hiệu quả rất tốt trong việc tăng hiệu
quả hoạt động của công tác quản lí hành chính nhà nước.


Nội dung của nguyên tắc này quy định những đặc điểm chung, mang tính quy

luật khách quan trong hoạt động của hệ thống quản lí xã hội chủ nghĩa. Đồng thời,
nó phản ánh sự thống nhất giữa cơ sở tư tưởng, chiến lược và tổ chức của xã hội
chủ nghĩa.
Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước
đã giúp cho việc thực hiện quyền lực làm chủ của nhân dân (thông qua các cơ quan
quyền lực nhà nước ở trung ương và địa phương) hoàn thiện hơn, người dân có thể
thực hiện quyền giám sát của mình một cách hữu hiệu, tạo nên một cơ chế đảm bảo
cho quần chúng tích cực tham gia vào công tác quản lí hành chính nhà nước. Tuy
nhiên, cần lưu ý là việc áp dụng yếu tố dân chủ nhưng không thể loại trừ trách
nhiệm cá nhân, nghĩa là, dân chủ nhưng phải gắn với trách nhiệm của từng cá nhân
cụ thể, trong công việc nhất định, thời gian nhất định.
Đồng thời việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính
nhà nước cũng tạo nên một sự thống nhất về ý chí trong việc quản lí hành chính nhà
nước, tạo ra sự nhịp nhàng, ăn khớp giữa các cơ quan, ngành khối trong toàn xã hội
mà vẫn bảo đảm để cho các địa phương trong nước có quyền tự do tương đối trong
việc định ra các hình thức phát triển khác nhau phù hợp với địa phương của mình.
Tạo nên một sức mạnh tổng thể cho đất nước.
Tuy nhiên trong thực tế hoạt động quản lí hành chính nhà nước ta hiện nay
nguyên tắc tập trung dân chủ vẫn chưa được áp dụng triệt để để phát huy hết vai trò
to lớn của nó.
Về cơ bản và trên mức độ lớn, có thể nói sự chậm trễ trong đổi mới tư duy,
nhận thức về nội dung và yêu cầu của nguyên tắc dân chủ cho phù hợp với quá trình
đấy mạnh cải cách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước là
căn nguyên của những bất cập, yếu kém trong công tác chỉ đạo với điều hành của
bộ máy nhà nước hiện nay.
Tư tưởng tập trung bao cấp trong cán bộ, công chức còn khá nặng nề, nhất là
các cấp chính quyền địa phương. Cán bộ, công chức, kể cả thủ trưởng cơ quan đơn


vị còn phổ biến tình trạng thụ động, ngồi chờ sự chỉ đạo của cấp tên trong triển khai

công việc quản lí, thiếu tính chủ động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách
nhiệm về những gì đã làm.
Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước
phải dựa trên quan niệm mới là quản lí tập trung trong điều kiện phát huy quyền tự
chủ của tất cả các chủ thể xã hội. Chỉ có như vậy, bản chất ưu việt của chế độ mới
được phát huy, sức mạnh của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới được
thực thi và sức sáng tạo của người dân mới được tôn trọng và giải phóng
Vì vậy chúng ta cần khắc phục những yếu kém này để phát huy hơn nữa vai trò
của nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước.

KẾT LUẬN
Tập trung và dân chủ là một nguyên tắc quản lí hành chính nhà nước khoa học,
nhưng việc thực hiện đúng đắn nội dung của nguyên tắc này là một nhiệm vụ hết
sức khó khăn và vô cùng quan trọng. Chỉ khi nào chúng ta kết hợp được sự tập
trung và dân chủ một cách hài hoà thì mới phát huy được hết vai trò của nguyên tắc
này trong thực tế xã hội nước ta hiện nay. Việc tìm hiểu nguyên tắc tập trung dân
chủ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng quan trọng đối với công tác quản lí xã
hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đặc
biệt là đối với các nhà quản lí, họ cần phải tiếp tục làm rõ nội dung, hình thức và sự
vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong điều kiện nhà nước ta là nhà nước xã
hội chủ nghĩa.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Hành chính Việt Nam, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội- 2008.
2. Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật Hành chính Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội- 2005
3. Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 sưa đổi
bổ sung năm 2001.

4.Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003 đã sửa đổi và
bổ sung
5. Luật cán bộ công chức năm 2008
6. Nghị định số 71/2003/NĐ- CP ngày 19-6-2003 về phân cấp quản lí biên chế
hành chính sự nghiệp nhà nước
7. Quyết định số 3035/QĐ-UBND về việc ban hành quy định về phân cấp và
ủy quyền quản lí dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu



×