Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.88 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC …………………………………………………………………………….1
LỜI NÓI ĐẦU ………………………………………………………………………...2
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGUYÊN TẮC
1.



sở

pháp



……………………………………………………………………2
2.



sở

thực

tiễn

…………………………………………………………………..3
II. NỘI DUNG NGUYÊN TẮC
1.


Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan
quyền

lực

nhà

nước

cùng

cấp

…………………………………………………………………………3
2.

Sự phục tùng của cấp dưới với cấp trên, địa phương đối với
trung ương ……….5

3.

Sự

phân

cấp

quản




……………………………………………………………..5
4.

Sự

hướng

về



sở

……………………………………………………………….7
5.

Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương ……….7

III. Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ……………………………………………..8
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………….......10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………....11

1


LỜI NÓI ĐẦU
Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) đã khẳng định: “Nhà

nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân…” Như vậy, nhà nước ta là nhà nước chuyên chính vô sản theo chế
độ xã hội chủ nghĩa, với nền tảng là chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh lấy nhân dân làm gốc, Đảng ta đã chủ trương lấy nguyên tắc tập trung dân chủ
là một trong những nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước nói chung và trong quản lý hành chính nhà nước nói riêng.
Nhận thực được tầm quan trọng của vấn đề, em xin lựa chọn nghiên cứu đề tài:
“Phân tích nguyên tắc tập trung – dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc trong
quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay”
Trong phạm vi khuôn khổ của bài và trình độ hiểu biết còn hạn chế nên bài viết
khó có thể tránh khỏi thiếu sót. Bởi vậy em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG
2


I.

CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.

Cơ sở pháp lý

Tập trung – dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà
nước và hoạt động quản lý hành chính nhà nước cũng được tổ chức thực hiện dựa
trên cơ sở tuân thủ nội dung của nguyên tắc này. Nguyên tắc tập trung dân chủ được
quy định tại Điều 6 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001): “…Quốc hội,

Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nguyên tắc này bao hàm sự kết hợp giữa hai
yếu tố tập trung và dân chủ tức là vừa bảo đảm sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân
chủ, vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung.
2.

Cơ sở thực tiễn

Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước là sự kết hợp
hài hòa, linh hoạt hai yếu tố tập trung và dân chủ, lãnh đạo tập trung trên hệ quy
chiếu dân chủ và đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung. Trong quản
lý hành chính nhà nước, tập trung nhằm đảm bảo thâu tóm quyền lực nhà nước vào
chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo thực hiện chính sách, pháp luật một cách thống
nhất. Trong khi đó, dân chủ hướng tới việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lý
nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lý, phát huy khả năng tiềm tàng
của đối tượng quản lý trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật. Tuy nhiên,
nếu chỉ có tập trung mà không mở rộng dân chủ thì sẽ tạo điều kiện cho thói lạm
quyền, quan liêu, sách nhiễu và ngược lại không có sự lãnh đạo tập trung thống nhất
sẽ dẫn tới dân chủ thái quá, tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ ở địa phương.
Do đó cần có sự phối hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ việc đảm bảo cả hai yếu tố này
trong quản lý hành chính nhà nước.

3


II.

NỘI DUNG NGUYÊN TẮC
1.


Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ
quan quyền lực nhà nước cùng cấp

Điều 6 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Nhân dân
sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân là những cơ
quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân…” Như vậy Hiến pháp đã ghi nhận nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông
qua hệ thống cơ quan quyền lực do chính họ bầu ra để thay mặt nhân dân trực tiếp
thực hiện quyền lực đó.
Để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội, một hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước đã được hình thành từ
trung ương tới địa phương. Trong tổ chức và hoạt động các cơ quan hành chính nhà
nước luôn có sự phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Các cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc thành
lập, sáp nhập hay giải thể các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp. Trong hoạt
động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của hệ thống
cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo các hoạt động của mình
trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Tất cả sự phụ thuộc này đều nhằm mục
đích đảm bảo cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với
ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động. Đồng thời đó chính là việc đảm
bảo tập trung quyền lực vào hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước.
Ngược lại, yếu tố dân chủ thể hiện rõ nét trong việc cơ quan quyền lực nhà nước
trao quyền chủ động, sáng tạo cho các cơ quan hành chính nhà nước trong việc chỉ
đọa thực hiện hiến pháp, luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực nhà nước.
Các cơ quan quyền lực nhà nước không can thiệp vào hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước mà tạo điều kiện thuận lợi cần thiết để các cơ quan này hoàn
4



thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là quản lý hành chính nhà nước trên mọi
lĩnh vực đời sống xã hội.
Ví dụ: Điều 109 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi nhận rằng
“Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội…” và Điều 110 quy định “…Thủ
tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước…” Điều này thể hiện rất rõ sự phụ
thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước.
2.

Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương
đối với trung ương

Sự phục tùng này đảm bảo cho cấp trên, trung ương tập trung quyền lực để chỉ
đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và địa phương, tránh việc buông lỏng trong
lãnh đạo dẫn đến tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Sự phục tùng
này trong quản lý hành chính nhà nước biểu hiện ở cả hai phương diện tổ chức và
hoạt động. Sự phục tùng này không phải phục tùng vô điều kiện mà là phục tùng
những mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Tất cả các yêu cầu,
mệnh lệnh do cấp trên, trung ương đề ra, cấp dưới và địa phương có nghĩa vụ phải
thực hiện. Đồng thời cấp trên, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới,
địa phương về công tác tổ chức, hoạt động, các vấn đề khác của quản lý hành chính
nhà nước; tạo mọi điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy tính chủ động, sáng
tạo, tránh tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính chủ động, sáng tạo, tự
chịu trách nhiệm của cấp dưới, địa phương.
Ví dụ: Điều 9 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định nghĩa vụ của cán bộ,
công chức trong thi hành công vụ tại khoản 5 như sau: “Chấp hành quyết định của
cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì phải kịp
thời báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định…”

5



Như vậy, cán bộ, công chức trong hoạt động thi hành công vụ của mình phải
phục tùng theo chỉ thị của cấp trên, đồng thời cũng có quyền kiến nghị với cấp trên
nếu việc đó là trái với quy định của pháp luật.
3.

Sự phân cấp quản lý

Phân cấp quản lý là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới nhằm
đạt được một cách có hiệu quả nhất mục tiêu chung của hoạt động quản lý hành
chính nhà nước. Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và
những phương tiện cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất mục tiêu, nhiệm vụ của
mình.
Phân cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý
hành chính nhà nước. Song điều này chỉ thực sự được thực hiện khi việc phân cấp
quản lý đảm bảo được những yêu cầu sau đây:
-

Để tăng cường sự lãnh đạo tập trung và quản lý thống nhất của Trung ương,
việc phân cấp quản lý phải đảm bảo cho Trung ương có quyền quyết định trong
những lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược nhằm đảm bảo sự
phát triển cân đối và hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và
thống nhất của Nhà nước trong phạm vi toàn quốc.

-

Mạnh dạn giao quyền cho các địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính
chủ động, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy mạnh sản xuất và phục vụ
đời sống, trên cơ sở đó hoàn thành mọi nhiệm vụ được trung ương và cấp trên

giao phó. Mạnh dạn phân cấp cho địa phương và cơ sở là biện pháp đảm bảo tập
trung, tránh cho trung ương và cấp trên ôm đồm các công việc thuộc về chức
trách của địa phương và cơ sở.

-

Việc phân cấp quản lý phải thật cụ thể, hợp lý trên cơ sở của pháp luật.

Ví dụ: Điều 37 Luật đất đai năm 2003 quy định thẩm quyền giao đất, cho thuê đất
như sau:

6


“1. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định giao đất, cho
thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức; giao đất đối với cơ
sở tôn giáo; giao đất, cho thuê đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
cho thuê đất đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài.
2. Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định giao đất,
cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân;
giao đất đối với cộng đồng dân cư.
3. Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử
dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.”
Có thể thấy rằng sự phân cấp quản lý này đem lại hiệu quả tích cực trong công
tác quản lý hành chính nhà nước. Một mặt, nó vừa giúp cơ quan cấp trên không phải
ôm đồm công việc, mặt khác giúp nhân dân chủ động hơn trong việc xin cấp phép
đồng thời tăng tính chủ động, linh hoạt trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước ở
địa phương.
4.


Sự hướng về cơ sở

Hướng về cơ sở chính là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ
trên cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh
tế, văn hóa – xã hội trực thuộc. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là
nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất, trực tiếp phục vụ đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân lao động. Do vậy, trách nhiệm của mọi cơ quan nhà nước là phải tạo điều
kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh tế, văn hóa – xã hội hoàn thành tốt công việc của
mình. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng có các chính sách và biện pháp quản lý một cách
thống nhất, chặt chẽ việc tổ chức, hoạt động của các đơn vị cơ sở này. Có như vậy
mới thúc đẩy mọi hoạt động của các đơn vị kinh tế, văn hóa – xã hội phát triển một
cách mạnh mẽ theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ví dụ: Chính phủ ban hành Nghị định 80/2007/NĐ-CP về Doanh nghiệp khoa
học và công nghệ đã có những chính sách hỗ trợ, ưu đãi của nhà nước đối với doanh
7


nghiệp khoa học công nghệ. Cụ thể như doanh nghiệp khoa học công nghệ được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giao quyền sử dụng hoặc sở hữu các kết quả
khoa học và công nghệ thuộc sở hữu nhà nước; được hưởng chế độ miễn, giảm thuế
thu nhập doanh nghiệp, được trừ một số khoản chi phí hợp lý khi tính thu nhập chịu
thuế và miễn lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà…
Chính sách này đã góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển hơn.
5.

Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương

Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều được tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều hay còn gọi là nguyên tắc song trùng trực thuộc.

Sự phụ thuộc này được thể hiện ở cả hai mặt tổ chức và hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương và được pháp luật quy định cụ thể.
Ở địa phương, ủy ban nhân dân các cấp trước hết phụ thuộc vào hội đồng nhân
dân cùng cấp (mối phụ thuộc ngang). Đồng thời chúng còn phụ thuộc vào cơ quan
hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp trên trực tiếp (mối phụ thuộc dọc).
Mối phụ thuộc ngang tạo điều kiện cần thiết cho cấp dưới phát huy dân chủ, thế
mạnh của địa phương để hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao phó. Mối phụ thuộc
dọc giúp cho cấp trên có thể tập trung quyền lực nhà nước để chỉ đạo hoạt động của
cấp dưới, tạo nên một hoạt động chung thống nhất.
Nguyên tắc phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích chung của cả nước với lợi ích của địa
phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích vùng lãnh thổ.
Ví dụ: Điều 119 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 quy
định: “Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra …Kết quả bầu các
thành viên của Uỷ ban nhân dân phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên trực
tiếp phê chuẩn; kết quả bầu các thành viên của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải được
Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn…”
8


Ở đây ta có thể thấy rõ được sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương. Ủy ban nhân nhân cấp huyện do hội đồng nhân dân cấp huyện
bầu ra và các thành viên của ủy ban nhân dân cấp huyện được Chủ tịch ủy ban nhân
dân cấp tỉnh phê chuẩn.
III.

Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Tập trung dân chủ là nguyên tắc thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa sự chỉ đạo tập


trung thống nhất của các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương, cấp trên với
việc mở rộng dân chủ, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan hành chính
nhà nước cấp dưới, địa phương. Xét ở bình diện rộng hơn, nguyên tắc tập trung dân
chủ còn là cơ sở để phát huy tính chủ động, sáng tạo của nhân dân, của tập thể và đề
cao trách nhiệm, ý thức kỷ luật của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Bất kỳ xã hội và bất kỳ kiểu nhà nước nào, việc quản lý xã hội và thực hiện
quyền lực nhà nước đều phải có sự tập trung quyền lực. Đây là yếu tố bắt buộc và
mang tính tất yếu nhằm quản lý được toàn bộ các hoạt động xã hội, thiết lập và duy
trì một trật tự xã hội phù hợp với ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị xã hội.
Mặt khác, để đất nước phát triển một cách toàn diện, phát huy được sức mạnh tập
thể, sức mạnh toàn dân trong công cuộc xây dựng đất nước thì yếu tố dân chủ là yếu
tố quan trọng hàng đầu. Trong quản lý hành chính nhà nước cũng vậy, nguyên tắc
này đảm bảo cho sự tập trung quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành,
chỉ đạo việc thực hiện chính sách, pháp luật một cách thống nhất. Đồng thời nguyên
tắc này đảm bảo cho việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lý nhằm phát huy trí
tuệ tập thể trong hoạt động quản lý trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật.
Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước còn
giúp cho việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thông qua cơ quan quyền lực

9


nhà nước do nhân dân bầu ra đạt hiệu quả cao hơn, tạo nên cơ chế đảm bảo cho quần
chúng tích cực tham gia quản lý hành chính nhà nước.
Ngoài ra, việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính
nhà nước tạo nên sự thống nhất về mặt ý chí cho các cơ quan quản lý hành chính nhà
nước, tạo ra sự ăn khớp nhịp nhàng giữa các cơ quan hành chính trên toàn quốc đồng
thời vẫn đảm bảo cho địa phương vận dụng chính sách, pháp luật một cách linh hoạt,
phù hợp với điều kiện riêng của địa phương đó.


KẾT LUẬN
Từ mục đích, bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là đảm bảo thực hiện
quyền lực và lợi ích làm chủ xã hội của nhân dân lao động, muốn cho nhà nước thực
sự là cơ quan quyền lực, đại diện cho ý chí, quyền lực của nhân dân, trở thành nhà
nước của dân, do dân và vì dân, đảm bảo cho dân chủ là “Dân làm chủ và dân là
chủ” (Hồ Chí Minh) thì phải thực hiện tập trung dân chủ trong quản lý, đặc biệt là
quản lý hành chính nhà nước. Chỉ có tập trung dân chủ thì nhà nước ta mới thực sự
là nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, góp phần
tích cực xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2010.

2.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.

3.

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)

4.


Luật đất đai năm 2003

5.

Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003

6.

Luật cán bộ, công chức năm 2008

7.



11



×