Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

PHÂN TÍCH NHỮNG BẤT CẬP TRONG VIỆCTHỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.95 KB, 14 trang )

TIỂU LUẬN: PHÂN TÍCH NHỮNG BẤT CẬP TRONG VIỆC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
I.
1)

Lý luận chung về ưu đãi xã hội
Khái niệm
- Ưu đãi xã hội là một trong những nhánh chính của Luật An sinh xã hội. Khi
nghiên cứu về vấn đề này, chắc chắn sẽ có nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên
chúng ta có thể hiểu theo định nghĩa của Giáo trình Luật An sinh xã hội: “Ưu đãi xã
hội là sự đãi ngộ của nhà nước, của cộng đồng và toàn xã hội về đời sống vật chất và
tinh thần đối với những người có công với cách mạng và gia đình của họ”. Cũng
theo cách hiểu này, những người có công phải là những người có thành tích đóng
góp hoặc cống hiến xuất sắc cho đất nước, cho lợi ích của dân tộc. Và chế độ ưu đãi
xã hội dành cho họ những ưu đãi, đãi ngộ đặc biệt là để tri ân, đền đáp phần nào
những cống hiến, đóng góp ấy.
- Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, cơ chế này nhằm đảm bảo cho các
đối tượng được hưởng ưu đãi như sau:

Thương binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh;

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, anh hung lao động, bà mẹ Việt Nam
anh hùng;

Người hoạt động cách mạng trước Cách Mạng tháng Tám năm 1945;

Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt, tù đày;

Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm
nghĩa vụ quốc tế;



Người có công giúp đỡ cách mạng;

Người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học do
Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam;

Thân nhân của các đối tượng trên.
Ngoài ra, chế độ ưu đãi xã hội của Việt Nam còn có chế độ ưu đãi cho những
người đã và sẽ cung cấp sức lao động quý báu cho nền kinh tế-xã hội bao gồm
những người già đã có quá trình làm việc, lao động lâu năm, cống hiến sức lao động
cho xã hội, những bà mẹ có công sinh nở, nuôi nấng con trẻ và trẻ em – nguồn sức
lao động cho sự phát triển kinh tế-xã hội trong tương lai lâu dài. Các chính sách đãi
ngộ nhóm người này ở Việt Nam gồm có:
• Chính sách đối với người cao tuổi (Pháp lệnh người cao tuổi);
• Chính sách đối với bà mẹ và trẻ em.
Tuy nhiên, do giới hạn nghiên cứu, bài Tiểu luận này chỉ tập trung vào nghiên
cứu những bất cập của việc thực hiện những chính sách ưu đãi xã hội với những
người có công.
- Theo những quy định hiện hành, những người có công với cách mạng được
hưởng các chế độ ưu đãi sau:
• Công nhận và tôn vinh danh dự: chế độ ưu đãi đặc biệt của Nhà nước nhằm


ghi nhận và tôn vinh công trạng, thành tích của người có công và cũng là cơ sở để
xác nhận, phân biệt họ với những đối tượng khác. Cụ thể, đó là các chế độ tặng và
truy tặng các danh hiệu: danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”,
“Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”, huân chương kháng chiến, huy chương
kháng chiến; tuyên dương “Anh hùng lao động”, tặng các kỉ niệm chương đối với
người hoạt động cách mạng và hoạt động kháng chiến bị đich bắt, tù đày, đối với
người có công giúp đỡ cách mạng; cấp các giấy chứng nhận: Gia đình Liệt sĩ, Giấy

chứng nhận thương binh...
• Chế độ trợ cấp, phụ cấp: các hình thức ưu đãi bằng tiền nhằm đảm bảo đời
sống, góp phần nâng cao mức sống hằng ngày cho người có công và thân nhân của
họ.
• Chế độ ưu đãi về giáo dục, đào tạo đối với người có công và con em của họ
dưới nhiều hình thức khác nhau như: miễn học phí đối với học sinh, sinh viên đang
học tại các cơ sở giáo dục đào tạo công lập; hỗ trợ học phí trong trường hợp học tại
các cơ sở giáo dục đào tạo dân lập, tư thục; trợ cấp một lần tiền mua sách vở, đồ
dùng học tập; trợ cấp một lần cho học sinh, sinh viên sau khi thi tốt nghiệp...
• Chế độ chăm sóc sức khỏe: Cấp thẻ Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức
khỏe; cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình cùng các sản phẩm phụ...
• Chế độ việc làm và đảm bảo việc làm: chế độ chính sách ưu tiên cho những
người có công cùng với con em của họ nhằm tạo điều kiện cho họ bằng khả năng
của mình tìm kiếm việc làm và nâng cao thu nhập, đảm bảo đời sống.
• Chế độ hỗ trợ cải thiện nhà ở: tặng nhà tình nghĩa, hỗ trợ kinh phí để xây
dựng và sửa chữa nhà ở, hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần tiền sử dụng đất.
• Chế độ chăm sóc về đời sống tinh thần: cấp báo Nhân dân hằng ngày, sinh
hoạt văn hóa tinh thần phù hợp, được chính quyền địa phương thăm nom, tặng quà...
• Ngoài ra còn các chế độ đặc biệt đối với các liệt sỹ, những người đã hy sinh
bản thân mình vì sự nghiệp lớn lao của toàn dân tộc: tìm kiếm, quy tập hài cốt; quản
lý, chăm sóc, giữ gìn phần mộ; ...1
- Chính sách về chế độ ưu đãi xã hội thực chất là chính sách của Đảng và Nhà
nước trong việc thực hiện chế độ đãi ngộ đối với những người có công với nước
nhằm mục đích ghi nhận công lao đóng góp, sự hy sinh cao cả của họ, đồng thời đền
đáp một phần công lao, bù đắp phần nào về đời sống vật chất và tinh thần đối với
người có công, giúp đỡ họ giải quyết những khó khăn trong cuộc sống mà họ gặp
phải chính vì đã đóng góp và hy sinh rất nhiều cho đất nước.
2)

Ý nghĩa của chế độ Ưu đãi xã hội:

Chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định chế độ ưu đãi xã hội có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với mọi mặt của đất nước:
- Về mặt chính trị, chế độ ưu đãi xã hội tạo niềm tin tưởng vào một xã hội tốt đẹp,
là nguồn động viên khích lệ đối với các thành viên của xã hội sẵn sàng đóng góp cho
đất nước trong mọi hoàn cảnh, góp phần ổn định xã hội, giữ vững thể chế, tạo điều
1

Chi tiết xem tại: Các chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và hướng hoàn thiện – ThS. Đỗ Thị Dung.
Tạp chí Luật học số 1/2011


kiện phát triển đất nước một cách ổn định và bền vững.
- Về mặt xã hội và nhân văn, chế độ này thể hiện truyền thống đền ơn đáp nghĩa,
là sự ghi nhận và báo đáp phần nào những công ơn to lớn của những người xả thân
vì đất nước, vì dân tộc. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc, thể hiện sự quan
tâm của Nhà nước, của cộng đồng và toàn xã hội đến mọi mặt đời sống của người có
công. Chế độ này còn có ý nghĩa giáo dục nhận thức của thế hệ trẻ, phát huy truyền
thống yêu nước, uống nước nhớ nguồn, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, lòng biết ơn
đối với thế hệ đi trước.
- Về mặt kinh tế, chế độ ưu đãi xã hội là sự đảm bảo và nâng cao đời sống cho
người có công. Đặc biệt, đối với những người không có khả năng lao động cũng là
như không còn ai để nương tựa thì đây có thể là nguồn thu nhập chính của họ, mặt
khác, giúp người có công có cơ hội phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất
- Về mặt pháp lý, chế độ ưu đãi xã hội là sự đảm bảo về mặt pháp lý cho những
quyền ưu đãi của người có công được ghi nhận trên thực tế. Nó trở thành trách
nhiệm của Nhà nước và các cấp chính quyền, đồng thời là những quyền hợp pháp
của người được hưởng ưu đãi.
II.
Thực trạng thực thi chế độ ưu đãi xã hội ở Việt Nam hiện nay
1)

Thành tựu:
Thực hiện chính sách ưu đãi người có công trong thực tiễn đời sống xã hội, Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Chính phủ ban hành, ban hành theo
thẩm quyền cũng như cùng với các bộ, ngành chức năng ban hành hàng loạt văn bản
hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh về quy trình, thủ tục giải quyết chính sách ưu đãi đối
với người có công, thường xuyên điều chỉnh mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi, chăm sóc
sức khỏe... đối với người có công, cùng các chính sách ưu đãi khác trong giáo dục
đào tạo, dạy nghề, chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ nhà ở, việc làm, vay vốn đầu tư phát
triển sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu lao động...
Cùng với việc không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách, để bảo đảm người
có công được hưởng các chính sách do Nhà nước ban hành một cách đầy đủ, kịp
thời, thời gian qua, việc tuyên truyền, vận động toàn xã hội chăm sóc người có công
đã trở thành phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” thường xuyên và mang tính xã hội hóa
cao với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với từng ngành, từng địa
phương, từng tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội và nhiều cá nhân, nhà doanh
nghiệp tham gia ủng hộ. ở cả hai phương diện huy động nguồn lực là nguồn lực đầu
tư cho ưu đãi xã hội và sự đầu tư của Nhà nước đều được tăng cường, mang lại hiệu
quả rất thiết thực. Bằng những chương trình cụ thể, như ủng hộ Quỹ đền ơn đáp
nghĩa, xây dựng nhà tình nghĩa, phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng, chăm sóc
thương binh, bệnh binh, tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa, tặng học bổng cho con thương
binh, liệt sĩ vượt khó học giỏi, chăm sóc bố mẹ liệt sĩ già yếu cô đơn, con liệt sĩ mồ
côi, thăm hỏi tặng quà các gia đình chính sách nhân dịp lễ, tết, ngày 27-7 hàng năm
ở địa phương, đơn vị sản xuất, cơ quan, hỗ trợ đối tượng và gia đình chính sách lúc
khó khăn, hỗ trợ giống cây trồng vật nuôi, vốn, giúp đối tượng chính sách cải tạo
vườn tạp thành vườn cây cho giá trị kinh tế cao, miễn giảm thuế hoặc ưu tiên cho
thuê, mua, mượn đất làm kinh tế đối với cá nhân, tập thể người có công... Nhiều xã,


phường duy trì phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” thường xuyên, thể hiện được tình
cảm, trách nhiệm của cả cộng đồng dân tộc với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. Sự

chung tay của các lực lượng xã hội và Nhà nước đã góp phần ổn định, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ và gia đình
người có công. Năm 2010, trong điều kiện kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn
nhưng Quỹ đền ơn đáp nghĩa Trung ương đã nhận được sự ủng hộ 290 tỉ đồng,
chúng ta đã xây mới 11.202 nhà tình nghĩa, sửa chữa nâng cấp 7.317 nhà cho đối
tượng người có công với tổng số tiền hơn 401 tỉ đồng. Hơn 94% số xã, phường
trong toàn quốc làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa, trên 95% đối tượng chính sách
đạt được mức sống bằng và cao hơn mức sống trung bình của xã hội, 100% bà mẹ
Việt Nam anh hùng còn sống được phụng dưỡng và chăm sóc chu đáo, tặng 16.282
sổ tình nghĩa với tổng số tiền trên 13 tỉ đồng. Hầu hết các nghĩa trang liệt sĩ quy mô
quốc gia và địa phương, các khu tưởng niệm danh nhân, anh hùng liệt sĩ và những
“địa chỉ Đỏ” được nhân dân và các tổ chức xã hội góp công, góp của trị giá hàng
trăm tỉ đồng để xây dựng và tu bổ.
Theo cục Người có công (Bộ LĐ-TB và XH), hiện toàn quốc có gần 1,5 triệu
người có công hiện đang hưởng trợ cấp hàng tháng, 2,4 triệu người hưởng chế độ
bảo hiểm y tế và chế độ mai táng phí khi từ trần. Trong đó có khoảng 9.000 Mẹ Việt
Nam Anh hùng, 20.000 thương binh, bệnh binh nặng suy giảm khả năng lao động từ
81% trở lên, 330.000 thân nhân, liệt sĩ già yếu cô đơn, con liệt sĩ mồ côi, 300.000
con thương binh, con liệt sĩ đang học tại trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
Ông Dương Minh Đỗ, Phó cục trưởng Cục Người có công (Bộ LĐ-TB và XH) cho
biết: với quy định cụ thể chế độ ưu đãi xã hội đối với người có công, riêng trợ cấp
ưu đãi thường xuyên hàng tháng được điều chỉnh phù hợp với tình hình kinh tế, xã
hội của đất nước và tương ứng với mức tiêu dùng bình quân của toàn xã hội. Mức
trợ cấp, chế độ trợ cấp được điều chỉnh theo lộ trình cải cách tiền lương, Bảo hiểm
xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công.
“Chế độ trợ cấp với người có công được thực hiện từ năm 1995 theo qui định
của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng và một số văn bản pháp qui khác
của Chính phủ. Những chế độ trợ cấp được qui định khá cụ thể, chi tiết, theo từng
mức khác nhau cho từng diện đối tượng. Phải khẳng định rằng chế độ trợ cấp ưu đãi
xã hội bước đầu phù hợp với đặc điểm của phương thức quản lý kinh tế mới theo cơ

chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và được qui định khá hợp lý, cụ thể, phù
hợp với đặc điểm của từng diện đối tượng, được điều chỉnh cùng với sự tăng trưởng
của nền kinh tế. Điều thành công nhất là chế độ trợ cấp này đã góp phần ổn đinh,
từng bước nâng cao đời sống đối tượng chính sách, hợp với lòng dân, đảm bảo sự
công bằng trong việc thụ hưởng chế độ ưu đãi của người có công trong cộng đồng
dân cư, công bằng giữa những người có công. Cụ thể:

Trợ cấp hàng tháng cho người được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quí
Bà Mẹ Việt Nam anh hùng, bằng 2,14 mức lương tối thiểu.

Trợ cấp nuôi dưỡng hành tháng cho diện đối tượng chính sách (thân nhân liệt
sĩ, người có công đối với cách mạng…), cô đơn không nơi nương tựa bằng 1,76 mức
lương tối thiểu.




2)

Mức trợ cấp hàng tháng đối với con liệt sĩ, con thương bệnh binh mất sức lao
động trên 61% trở lên đang học tại các trường cao đẳng, đại học công lập với mức là
140.000 đồng/ tháng và 115.000đồng/ tháng…”2
Đồng thời Nhà Nước đã chi trả chế độ trợ cấp một lần cho khoảng 3 triệu
người hoạt động kháng chiến được Nhà nước khen tặng Huân, Huy chương tổng kết
thành tích kháng chiến. Hoàn thành trả trợ cấp ưu đãi một lần cho khoảng 4 triệu
người và khoảng 1,5 triệu thương binh, thân nhân liệt sĩ, lão thành cách mạng, Bà
mẹ Việt Nam anh hùng… tiếp tục hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng. Theo số liệu
thống kê từ Bộ Lao động Thương binh – Xã hội, từ năm 1996 – 2002 ngân sách Nhà
nước đã chi trả trợ cấp một lần và hàng tháng cho những người có công với cách
mạng, chi cho công tác qui tập mộ liệt sĩ, tu bổ nghĩa trang, nuôi dưỡng thương bệnh

binh, trợ cấp cho cán bộ đi các chiến trường B,C,K với tổng số tiền lên tới: 14.361 tỷ
đồng
Bên cạnh đó,hiện đã có 85% xã, phường toàn quốc không còn hộ chính sách
diện nghèo, 85% gia đình chính sách có mức sống trung bình trở lên so với dân cư
cùng địa bàn cư trú. Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê cho thấy: mỗi
năm, toàn quốc xây dựng, sửa chữa từ 6000 đến 10.000 nhà ở cho người có công với
Cách mạng. Tặng hơn 300.000 nhà tình nghĩa cho gia đình chính sách khó khăn, trị
giá hàng ngàn tỷ đồng. Quỹ đền ơn, đáp nghĩa hàng năm huy động được từ 150 đến
180 tỷ đồng, Quỹ từ Trung ương đạt 5 tỷ đồng. 100% Mẹ Việt Nam anh hùng còn
sống đã được phụng dưỡng, trên 20.000 thương bệnh binh sống tại gia đình, trên
32.000 bố mẹ liệt sĩ già yếu, cô đơn được các đoàn thể chính quyền và nhân dân địa
phương chăm lo chu đáo.
Như vậy, Ưu đãi xã hội đối với người có công bước đầu đã bảo đảm nguyên
tắc bình đẳng, công khai, công bằng xã hội. Người có công được chăm lo, đền đáp,
đền ơn trả nghĩa, người cống hiến hy sinh nhiều được chăm lo ưu đãi nhiều hơn. Họ
được ưu tiên, ưu đãi trong giáo dục, đào tạo, giải quyết việc làm ngoài ra những
trường hợp như thương binh nặng, thân nhân liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng được
ưu tiên về nhà ở, đất ở, được chăm lo, phụng dưỡng về vật chất và tinh thần của địa
phương và các đoàn thể xã hội.
Bất cập
- Hạn chế cơ bản nhất của chế độ ưu đãi xã hội là mức trợ cấp còn thấp và
chưa đáp ứng nhu cầu thiết yếu về đời sống của người có công nếu họ không có sự
trợ giúp của cộng đồng.
Có thể lấy trợ cấp của thương, bệnh binh nặng để minh chứng cho vấn đề này.
Theo kết quả điều tra khảo sát tại vùng Tây bắc (nơi chỉ số sinh hoạt thấp), chỉ tính
chi phí tối thiểu cho sinh hoạt hàng ngày của một người thì cần khoảng 191.000
đồng/tháng và nếu chi phí tối thiểu cho nhu cầu cá chân là 235.000 đồng/ tháng. Chi
2

TRỢ CẤP ƯU ĐÃI XÃ HỘI TRONG HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI VIỆT NAM-TS.

NGUYỄN ĐÌNH LIÊU – Thứ trưởng Bộ Lao động TBXH


phí tối thiểu cho nhu cầu cá nhân bình quân trong cả nước vào khoảng 355.000
đồng/tháng (năm 2001). Trong khi đó mức trợ cấp cho thương bệnh binh nặng năm
2001 mới chỉ dừng lại ở mức:
· Thương binh mất sức lao động 61%, mức trợ cấp là 266.000 đồng/tháng
· Thương binh mất sức lao động 81%, mức trợ cấp 354.000 đồng/tháng
· Bệnh binh mất sức lao động 61%- 70%, mức trợ cấp 227.000 đồng/tháng
· Bệnh binh mất sức lao động 71%- 89%, mức trợ cấp 314.000 đồng/tháng
Mức trợ cấp kể trên rõ ràng chưa thể coi đã là ưu đãi bởi chưa đảm bảo nhu
cầu tối thiểu nhất cho bản thân, chưa kể thực tế họ còn phải gánh vác việc nuôi con,
phụ giúp gia đình.
- Hơn nữa, mức trợ cấp còn phụ thuộc vào chính sách tiền lương, điều chỉnh
theo mức lương tối thiểu là không hợp lý, vì chính sách tiền lương tạo động lực thúc
dẩy năng suất lao động , chất lượng và hiệu quả công việc, chuyển việc phân phối
bằng hiện vật là chủ yếu sang phân phối theo giá trị thông qua tiền lương, trong khi
chính sách ưu đãi thông qua trợ cấp phải phù hợp với tình hình kinh tế xã hội, được
đảm bảo bằng ngân sách nhà nước và tính chất xã hội hóa ngày càng cao.
- Một trong những hạn chế lớn của chế độ ưu đãi xã hội là khó khăn trong việc
giải quyết chế độ cho người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất
độc da cam.
Tình trạng tồn đọng hồ sơ chưa được giải quyết vì theo Thông tư 1609 của Bộ
Lao động thương binh và xã hội về việc hướng dẫn xử lý vướng mắc khi tiếp nhận
hồ sơ giải quyết chế độ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học,
“trước mắt chỉ tiếp nhận và giải quyết đối với trường hợp bị bệnh hiểm nghèo, bệnh
ung thư và người có bệnh án trước ngày 7-4-2009” (thời điểm Thông tư
08/2009/TT-BLĐTBXH hướng dẫn về hồ sơ, lập hồ sơ thực hiện chế độ ưu đãi đối
với người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học được ban hành). Đồng
thời, chỉ tiếp nhận hồ sơ và chuyển đến Hội đồng Giám định Y khoa những bệnh tật

nằm trong danh mục của Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT, không giới thiệu những
bệnh tật nằm ngoài danh mục. Việc này dẫn đến tình trạng tồn đọng rất nhiều hồ sơ
chưa có giấy ra viện sau ngày 7/4/2009 vì chưa được xem xét giải quyết.
Trong thực tế những người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học bị
bất thường sinh sản, sinh con dị dạng dị tật nhưng cũng có những người con tương
đối bình thường, hoặc những người con đã chết. Thế nhưng trong văn bản dẫn lại
chỉ hướng đến đối tượng có con đang sống bị dị dạng, dị tật, còn những người có
con dị dạng dị tật nhưng đã qua đời lại không được hướng dẫn cụ thể. Dẫn đến việc
những đối tượng bị nhiễm chất độc da cam có con “trông có vẻ bình thường” nhưng
không được hưởng. Bên cạnh đó, do việc xác nhận hồ sơ của chính quyền cấp xã
còn thiếu chính xác và hiện chưa có chính sách giải quyết chế độ cho những người
dân sống trong vùng bị rải thảm chất độc hóa học nên đã gây khó khăn, bức xúc
không chỉ cho các đối tượng mà ngay cả các cấp, ngành liên quan.
“Trường hợp ông Nguyễn Duy Tùng, 73 tuổi, quê quán Cương Gián, Nghi
Xuân Hà Tĩnh là một điển hình. Đã từng chiến đấu ở vùng bị nhiễm chất độc hoá
học, ông về sinh 3 con bị dị dạng dị tật nhưng đã qua đời (có cháu 5 tuổi mới qua


đời), sẩy thai nhiều lần, sau có hai con tương đối bình thường (không có dị dạng
thực thể). Đến khi ông nộp hồ sơ để hưởng chế độ thì bị gạt ngay ở vòng sơ loại bởi
vì cán bộ cho rằng hai con của ông hiện không bị dị dạng dị tật. Trong khi đó, hồ sơ
của ông đã được địa phương xác nhận ghi rõ danh tính 3 con dị dạng đã qua đời.
Ông Tùng bức xúc, khiếu nại, phóng viên phản ánh thì cán bộ Phòng Lao độngthương binh và xã hội huyện Nghi Xuân mới hướng dẫn ông làm lại hồ sơ theo đối
tượng “Bất thường sinh sản”.”3
Như vậy, Quyết định 09/2008/QĐ BYT, Thông tư 08/2009/TTLT quy định
danh mục bệnh tật, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm chất độc da cam, điôxin
quá trình thực hiện còn nhiều vướng mắc, không phù hợp với thực tế, trong khi
nhiều nội dung có tính cấp thiết chưa được ban hành. Một số quy định về thủ tục,
hồ sơ đối với người có công, người hoạt động kháng chiến hiện nay quá khắt
khe. Thực tế có những trường hợp không có, hoặc không còn giấy tờ gốc theo

quy định tại Thông tư 25/2007/TT-BLĐTBXH ngày 15.11.2007 nên không được
giải quyết đã gây bức xúc trong nhân dân, đồng thời là nguyên nhân kéo dài thời
gian, gây tồn đọng nhiều hồ sơ đến nay vẫn chưa giải quyết được. Quy định về
thủ tục giám định trong một số trường hợp bị mắc bệnh do nhiễm chất độc hoá
học nhưng lại không quy định việc xác định tỷ lệ suy giảm khả năng lao động, do
đó không có căn cứ để xác định mức trợ cấp.
Chẳng hạn, theo Báo Hòa Bình, “toàn tỉnh hiện có 2.233 người đã được
hưởng chế độ của nạn nhân chất độc da cam/điôxin, trong đó có 1.640 người là đối
tượng trực tiếp và 593 người gián tiếp. Hiện nay, tỉnh còn khoảng 5.000 đối tượng
nghi phơi nhiễm chất độc hóa học chưa được xét nghiệm và hưởng chế độ” 4. ông
Nguyễn Xuân Khoát, Hội Nạn nhân da cam/điôxin tỉnh cho biết: Nguyên nhân nhiều
nạn nhân chất độc hóa học hiện chưa được hưởng trợ cấp xã hội là do trong quá
trình lập hồ sơ thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng đã không còn
giữ đủ một số giấy tờ theo quy định bắt buộc căn cứ vào Nghị định số 54/2006/NĐCP ngày 26/5/2006 của Chính phủ về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp
lệnh ưu đãi người có công với cách mạng; Bộ LĐ-TB&XH sửa đổi, bổ sung mục
VII, Thông tư số 07/2006/TT-BLĐTBXH ngày 26/7/2006 hướng dẫn về hồ sơ, lập
hồ sơ thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng, bao gồm 14 loại giấy tờ
liên quan chứng minh địa bàn hoạt động ở chiến trường, sức khỏe hiện tại của người
tham gia kháng chiến, tình trạng dị dạng, dị tật của con, chứng từ điều trị của bệnh
viện, biên bản họp của địa phương, danh sách niêm yết những người hoạt động
kháng chiến nhiễm chất độc hóa học của UBND cấp xã... Trong khi đó, phần đông
người dân, nhất là bà con dân tộc thiểu số không còn lưu giữ được hồ sơ, lý lịch,
giấy tờ liên quan đến người tham gia kháng chiến, lại thiếu người hướng dẫn, kê
khai dẫn đến sai sót nhiều lần, quá trình giám định phải chờ đợi kéo dài nên nản chí
và bỏ cuộc.
Tình trạng thực hiện sai sót đối tượng trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ
3
4

Theo Báo Dân Trí – Số ra ngày Thứ Bẩy, 24/07/2010

Những tồn tại trong giải quyết chế độ cho nạn nhân chất độc da cam/điôxin. Hồng Nhung
(Báo Hoà Bình)


đặc biệt vẫn còn ở nhiều địa phương: Một số đối tượng không thuộc diện chính sách
ưu đãi, nhưng do quá trình thực hiện chưa được giám sát chặt chẽ nên được xét
hưởng chính sách hỗ trợ đặc biệt. Thậm chí, cách đây khoảng 5 năm, có không ít cán
bộ ở nhiều địa phương bị xử lí, hầu toà vì đã phối hợp làm hàng nghìn bộ hồ sơ
“thương binh giả”. Những đối tượng này đã buộc phải trả lại những gì hưởng không
đúng cho nhà nước. Tuy nhiên hiện nay, dư luận cho rằng đang còn không ít đối
tượng “thương binh giả”, “chính sách dởm” vẫn ung dung thụ hưởng chế độ ưu đãi.
Việc này không chỉ gây thiệt hại cho ngân sách quốc gia mà quan trọng hơn làm xói
mòn niềm tin của người dân vào nhà nước, xúc phạm đến những đối tượng có cống
hiến chân chính.
Một bộ phận người có công thật sự nhưng do thất lạc giấy tờ cần thiết
lại chưa được hưởng chính sách hỗ trợ. Việc giám sát thực hiện ở các cấp còn nhiều
hạn chế. Hệ thống chính sách hỗ trợ đặc biệt được thiết kế khá phức tạp, nên khó
quản lý và giám sát từ khâu giám định, xét duyệt đến khâu chi trả trợ cấp.
Theo nguồn thông tin từ thầy Trần Quang Đại Giáo viên trường THPT Trần
Phú, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, thực tế có một số trường hợp vướng mắc như
sau:
“Ông Trần Xuân Xanh, quê quán Đức Long, Đức Thọ, Hà Tĩnh, 77 tuổi, có 23
năm tham gia quân đội, đến năm 1977 có quyết định chuyển ngành, nhưng nơi
chuyển đến không tiếp nhận. Quay lại đơn vị cũ thì họ bảo đã ra khỏi quân đội rồi.
Về quê không chế độ, chờ đợi hơn 30 năm, đến năm 2006 nhà nước có chính sách
cho những đối tượng đã công tác trên 20 năm trong quân đội được hưởng chế độ
hưu trí, ông nộp hồ sơ để xin hưởng, nhưng bị Bảo hiểm quân đội trả về. Vì trong
văn bản ghi đối tượng đã phục viên, xuất ngũ, còn ông lại là đối tượng “chuyển
ngành”. Thế là ông có nguy cơ vĩnh viễn không được hưởng quyền lợi gì.
Ông Phạm Lý, 77 tuổi, quê quán Trung Lễ, Đức Thọ, Hà Tĩnh là người đã từng

chiến đấu trong vùng bị quân Mỹ rải chất độc da cam. Về quê, sinh con bị chết, dị
tật. Năm 2000, ông được hưởng chế độ cho người tham gia kháng chiến bị nhiễm
chất độc hoá học. Năm 2006, ông khai lại hồ sơ để tiếp tục hưởng, nhưng sau đó đã
bị cắt bởi vì trong hồ sơ bổ sung năm 2006, ông khai sinh năm 1938, trong khi tại hồ
sơ năm 2000 lại ghi năm sinh 1933. Nguyên nhân vì ông trí nhớ giảm sút, hồ sơ nhờ
người khác khai nên không chính xác.
Sau ông khiếu nại, xã, huyện đã tổ chức kiểm tra, xác định năm sinh của ông
trong hồ sơ gốc là 1933, đề nghị Sở Lao động- thương binh và xã hội Hà Tĩnh tiếp
tục cho hưởng chế độ. Nhưng đến nay đã hơn 5 năm, Sở Lao động- thương binh và
xã hội Hà Tĩnh vẫn “án binh bất động”, tiếp tục dừng chế độ của ông mà không hề
có quyết định, văn bản chính thức. Trường hợp của ông được đề nghị nhiều lần
trong các cuộc họp, các cuộc tiếp xúc cử tri Hội đồng nhân dân các cấp, nhưng vẫn
vô hiệu.”5
Ngoài những hạn chế chủ yếu trên, chính sách Ưu đãi xã hội của nước ta còn
những vướng mắc sau cần giải quyết:
5

Xin đừng để người có công phải ngậm ngùi!- Bài viết của Trần Quang Đại Giáo viên
trường THPT Trần Phú, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh Báo Dân Trí


Những việc làm tình nghĩa và phong trào chăm sóc người có công chưa
được thực hiện thường xuyên, chưa phát triển đồng đều ở các địa phương, nhất là
những nơi kinh tế chậm phát triển. Còn nhiều nơi phong trào mới chỉ tập trung trong
dịp 27 tháng 7 hàng năm.
Việc thực hiện chính sách đối với một số đối tượng còn chậm (cựu
thanh niên xung phong, các chiến sỹ du kích tham gia kháng chiến bị hy sinh…).
Công tác đền ơn đáp nghĩa ở một số nơi chưa gắn với việc giáo dục
truyền thống, tuyên truyền mục đích, ý nghĩa của phong trào, tôn vinh người tốt,
việc tốt; một số nơi còn nặng về hoạt động quyên góp, giúp đỡ vật chất.

Những quy định về khen thưởng, xử phạt vi phạm chưa cụ thể, thiếu
các chế tài thực hiện... cũng là những bất cập, tụt hậu với thực tiễn hết sức phong
phú và sự nhạy cảm của đời sống.
Một số bất công đối với người nhận chính sách xã hội như:
Thông tư 25, quy định chế độ ưu đãi với người vừa là thương binh, bệnh
binh vừa mất sức lao động nhưng lại chỉ được hưởng một chế độ gây nhiều bức
xúc, nhưng đến nay vẫn chưa được điều chỉnh. Thủ tục thăm viếng, mức hỗ trợ
thân nhân liệt sỹ đi thăm viếng mộ liệt sỹ và di chuyển hài cốt liệt sỹ quy định tại
Thông tư liên tịch số 01/2008/TTLT/BLĐTBXH-BTC của Bộ LĐ, TB và XH và
Bộ Tài chính còn phát sinh nhiều vướng mắc gây phiền hà, khó khăn trong quá
trình thực hiện.
Hiện nay, thanh niên xung phong không thuộc đối tượng điều chỉnh của
Pháp lệnh Người có công, ngoài chế độ trợ cấp một lần là 1,5 triệu đồng, họ
không được hưởng chế độ nào khác. Trên thực tế, đa số các đối tượng TNXP có
hoàn cảnh rất khó khăn. Đây cũng là điều bất hợp lý, cần được nghiên cứu, sửa
đổi quy định cho phù hợp. Mức trợ cấp cho đối tượng người cao tuổi trong nhiều
trường hợp vẫn thấp so với thu nhập, chi tiêu bình quân chung của toàn xã hội,
do đó cuộc sống của một bộ phận người cao tuổi còn gặp nhiều khó khăn. Cụ thể,
đối tượng người cao tuổi bị địch bắt tù đày, hưởng chế độ một lần theo quy định
hiện hành tối đa là 2,5 triệu đồng/người có thời gian bị tù đày từ 10 năm trở lên.
Số tiền trợ cấp này giảm theo hệ số năm bị bắt tù đày, mức thấp nhất là 500.000
đồng. Ngoài ra, người bị bắt tù đày không được hưởng các chế độ khác như hưu
trí, thương binh, bệnh binh, mất sức... Điều này dẫn đến khó khăn cho đối tượng
này, nhất là trong trường hợp không có thu nhập nào khác lại ốm đau, bệnh tật.
Người có công với cách mạng được trợ cấp hàng tháng với mức 453.000
đồng/tháng hiện quá thấp so với mức lương tối thiểu và dưới mức chuẩn nghèo
mà Chính phủ mới thông qua. Nếu không có thu nhập nào khác thì hết sức khó
khăn, nhất là trong tình hình giá cả leo thang và biến động như hiện nay. Theo
Nghị định 35/NĐ-CP ngày 6.4.2010, người hoạt động kháng chiến được hưởng
trợ cấp một lần 120.000 đồng/năm cũng không phù hợp thực tế.

3)

Giải pháp
Với mục tiêu chăm lo tốt hơn đối với các gia đình chính sách và những người
có công với cách mạng, bảo đảm tất cả các gia đình chính sách đều có mức sống


bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình so với người dân địa phương trên cơ sở kết
hợp ba nguồn lực: Nhà nước, cộng đồng và bản thân đối tượng tự vươn lên, công tác
chăm sóc người có công, bảo đảm an sinh xã hội cho các đối tượng chính sách trong
phát triển bền vững đòi hỏi cần thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau đây:
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, triển khai đồng bộ, thống
nhất và kịp thời tất cả chính sách ưu đãi. Khi Việt Nam đang trong quá trình xây
dựng nền Kinh tế thị trường và trong quá trình hội nhập với thế giới, nguy cơ phân
hóa giàu – nghèo, một bộ phận dân cư bị suy giảm thu nhập và mức sống, thì việc
nghiên cứu và ban hành Luật ưu đãi người có công là điều cần thiết để bảo đảm việc
thực hiện chính sách được thống nhất trên phạm vi cả nước, cũng như bảo đảm cho
mọi đối tượng được tiếp cận với các dịch vụ một cách công bằng và có chất lượng.
Đồng thời, cần tăng cường đổi mới chính sách đãi ngộ theo hướng nâng cao mức trợ
cấp để thực sự có sự tác động mạnh đến chất lượng cuộc sống của đối tượng được
hưởng. Mặt khác, không chỉ dừng lại ở việc trợ cấp, mà cần đẩy mạnh việc nghiên
cứu và phát triển một số lĩnh vực cho các đối tượng chính sách như: hệ thống giáo
dục, đào tạo nghề mang tính chuyên nghiệp; có hệ thống thang bảng lương riêng; có
chương trình đào tạo ở bậc đại học và sau đại học; có hiệp hội công tác xã hội ở cấp
quốc gia... để tạo bước đột phá mới về tạo việc làm, tăng thu nhập và tiếp cận dịch
vụ xã hội cơ bản thuận lợi hơn, chất lượng hơn. Có như vậy, mới cải thiện và nâng
cao mức sống của những người có công phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã
hội một cách bền vững.
Bộ Lao động thương binh và xã hội cần tiếp tục phối hợp các ngành, địa
phương có biện pháp cụ thể và khả thi để hỗ trợ các gia đình chính sách còn khó

khăn từng bước vượt qua nghèo khó, đạt tới mức sống trung bình trong xã hội.
Trước hết là ưu tiên giải quyết chỗ ở, hỗ trợ vốn phát triển sản xuất thông qua việc
“điều tiết” nguồn vốn từ Quỹ đền ơn đáp nghĩa. Chính phủ cũng đang tìm giải pháp
để hoàn thiện, nâng cấp, tu bổ các nghĩa trang liệt sĩ, phần mộ liệt sĩ, đài, bia tưởng
niệm liệt sĩ thật khang trang, đồng thời đáp ứng nguyện vọng thiêng liêng của các
thân nhân liệt sĩ muốn chăm sóc phần mộ liệt sĩ tại quê nhà.
- Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính nhanh chóng, giảm phiền hà
cho đối tượng chính sách nhưng vẫn bảo đảm chính xác, đầy đủ và minh bạch về
chế độ thụ hưởng của người có công. Tổ chức, sắp xếp lại bộ máy quản lý trong lĩnh
vực người có công từ khâu nghiên cứu, quản lý chỉ đạo đến tổ chức thực hiện. Tăng
cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phù hợp với yêu cầu công việc; đồng thời rà soát,
bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao chất lượng, trình độ của đội ngũ
cán bộ cả về đạo đức và năng lực trong lĩnh vực công tác người có công. Tăng
cường thanh tra, kiểm tra thường xuyên công tác xác nhận và thực hiện chế độ ưu
đãi đối với người có công. Phát hiện và giải quyết dứt điểm các vi phạm chính sách
ưu đãi người có công để tạo sự đồng thuận xã hội cao, tập trung trọng tâm giải quyết
những trường hợp đối tượng người thực sự có công còn tồn đọng vì nhiều lý do,
nhất là những người do chiến tranh, thiên tai hay vì những lý do đặc biệt mà thất lạc,
mất mát hồ sơ, chứng nhận cần thiết nên vẫn chịu sự thiệt thòi.
- Triển khai thực hiện tốt Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng đã


được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 27-6-2005, trong đó cần quan
tâm đến một số nội dung được sửa đổi, bổ sung.
- Tổ chức tuyên truyền sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân nội dung của Pháp
lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, các hoạt động phong trào “đền ơn đáp
nghĩa”, về những tấm gương thương binh, thân nhân liệt sỹ, người có công vượt
khó, làm giàu, tiêu biểu trong lao động, sản xuất, hoạt động văn hóa - xã hội...
- Tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách ưu đãi, kiên quyết xử lý
những trường hợp vi phạm. Kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác chính sách bảo

đảm đủ phẩm chất, năng lực công tác, chuyên môn, đủ khả năng tham mưu cho cấp
ủy đảng, chính quyền thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, đồng thời thúc đẩy giải quyết tồn đọng đơn thư khiếu nại, tố cáo.
- Khuyến khích, động viên, tạo điều kiện để người có công tích cực tham gia
các hoạt động xã hội, phát triển kinh tế sản xuất, kinh doanh góp phần ổn định và
nâng cao đời sống gia đình, xứng đáng người công dân kiểu mẫu.
- Bảo đảm cho đối tượng là người có công có mức sống hoặc thu nhập ngang
bằng mức sống trung bình dân cư. Vì trên thực tế, rất nhiều đối tượng hưởng chế độ,
nhưng lại sống với con, cháu, trong các gia đình đông người, đa thế hệ, nếu gia đình
này thu nhập thấp thì khó có thể bảo đảm cho họ có mức sống ngang bằng với mức
sống trung bình của dân cư.
- Thiết kế lại hệ thống chế độ trợ cấp ưu đãi theo hướng gọn nhẹ hơn, đơn giản
hơn, đỡ tốn chi phí quản lý khi có sự thay đổi chế độ trợ cấp. Trước mắt, có thể áp
dụng 2 hệ thống: một là, chế độ trợ cấp cho thương binh và người chính sách như
thương binh giống như hiện nay; hai là, chế độ trợ cấp cho các đối tượng có công
khác, dựa trên mức chuẩn trợ cấp ưu đãi xã hội nhân với một hệ số tương ứng.
Khoảng cách giữa các mức trợ cấp không nên quá gần có thể từ 0,2 - 0,5 chỉ nên sử
dụng chế độ trợ cấp, không nên sử dụng cả chế độ trợ cấp và phụ cấp cho một đối
tượng. Điều này phức tạp và thiếu tính khoa học.
- Điều chỉnh lại khái niệm người có công trước lúc xây dựng Luật Người có
công, trên cơ sở đó rà soát lại đối tượng ưu đãi xã hội và chuyển bộ phận không
thuộc nhóm người có công (ưu đãi xã hội), chuyển sang hưởng chính sách Trợ giúp
xã hội để bảo đảm tính công bằng và cũng phù hợp với xu hướng hội nhập và thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Cần xác định rõ mối quan hệ giữa trợ cấp ưu đãi xã hội với tình hình kinh tế
xã hội của đất nước, với khả năng đảm bảo của nguồn tài chính quốc gia. Thập kỷ
đầu của thiên niên kỷ thứ ba này đất nước ta bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Kinh tế xã hội tiếp tục phát triển, thu nhập bình quân tính theo đầu người sẽ
dần được nâng cao, văn hóa xã hội sẽ có những bước phát triển tiến bộ mới…
Chúng ta cần phải xác định một nguyên tắc là ưu đãi xã hội đối với người có công

với cách mạng nói chung và chế độ trợ cấp ưu đãi xã hội nói riêng phải thể hiện sự
đền đáp, trân trọng những hy sinh mất mát, những cống hiến vô giá của người có
công.
- Cần xác định rõ căn cứ , mức trợ cấp ưu đãi xã hội. Có thể dựa trên những
căn cứ sau đây để tính trợ cấp ưu đãi xã hội:


• Mức chi phí tối thiểu cho nhu cầu cá nhân bình quân trong cả nước
• Mức thu nhập bình quân tính theo đầu người trong cả nước
• Mức sống trung bình của người dân trên cả nước
- Việc đưa ra những căn cứ để tính để tính mức trợ cấp ưu đãi xã hội cần hết
sức cụ thể khách quan, hài hoà và hợp lý so với đời sống xã hội nói chung.
- Mức trợ cấp cho người có công phải được điều chỉnh phù hợp với tình hình
kinh tế xã hội, với đặc điểm của từng diện đối tượng và góp phần quan trọng vào
việc ổn định và nâng cao đời sống của đối tượng.
- Điều đặc biệt cần lưu ý là: ở nước ta số lượng người có công lớn, đời sống
của họ còn gặp không ít khó khăn vì vậy cần phải cải cách chế độ trợ cấp ưu đãi.
Trình tự tiến hành cần được quan tâm, phải có bứoc đi nhanh và phù hợp hơn. Cũng
cần phải quan tâm đến việc cải cách thể chế- chính sách ưu đãi xã hội hiện nay.
- Để giải quyết những vướng mắc liên quan đến chế độ chính sách cho
những người hoạt động kháng chiến và con của họ bị nhiễm chất độc hóa học trong
chiến tranh, cần ban hành cụ thể và rõ rang hơn nữa danh mục bệnh, dị dạng, dị tật
có liên quan đến phơi nhiễm chất độc da cam để làm căn cứ hướng dẫn tổ chức thực
hiện. Đồng thời cần có giải pháp giải quyết hồ sơ đối với những trường hợp có
chứng từ điều trị, giấy ra viện sau ngày 1/7/2009 cho phù hợp với thực tế.
- Để thực hiện tốt hơn chính sách ưu đãi người có công, chăm sóc tốt hơn
những người có công với cách mạng thì cần đẩy mạnh xã hội hóa công tác chăm sóc
người có công với cách mạng, huy động tổng hợp các nguồn lực để dành sự ưu đãi
chăm sóc tốt nhất cho đối tượng người có công. Phấn đấu để trong mọi hoàn cảnh,
nhất là trong tình hình kinh tế - xã hội đang có nhiều tác động bất lợi đến an sinh xã

hội như hiện nay, để người có công và gia đình họ vẫn được bảo đảm ổn định đời
sống.
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân
dân, đặc biệt là trong thế hệ trẻ, nhằm nâng cao nhận thức về công tác chăm sóc
người có công với cách mạng. Luôn coi việc chăm sóc người có công vừa là tình
cảm, vừa là trách nhiệm cao quý, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với công lao hy
sinh to lớn của các anh hùng liệt sĩ và người có công với cách mạng đã xả thân vì
độc lập, tự do của Tổ quốc
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công, từng
bước nâng cao đời sống cho các đối tượng chính sách phải vượt qua nhiều rào cản
và thách thức. Chúng ta phải coi đây vừa là động lực, vừa là mục tiêu phấn đấu của
toàn Đảng, toàn dân vì sự phát triển một xã hội lành mạnh, an sinh xã hội bền vững.
Làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng cũng là góp
phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội, củng cố quốc phòng an ninh,
thực hiện công bằng xã hội.
III.
Tổng kết
Như vậy, chế độ ưu đãi xã hội trong Chính sách An sinh xã hội của Đảng và
Nhà nước là một chế độ hết sức tốt đẹp, mang ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận lẫn thực
tiễn. Chế độ ưu đãi xã hội với mục đích ghi nhận và đền đáp những công ơn to lớn,


những sự đóng góp, hy sinh vô giá của những người có công đối với đất nước, dân
tộc đã thể hiện bản chất ưu việt của con đường mà Đảng và dân tộc đã chọn. Trong
thực tế, ngoài những thành tựu tốt đẹp chúng ta đã đạt được trong việc thực hiện chế
độ cho người có công, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập rất lớn. Trong đó nổi
lên các mặt chính như sau: mức trợ cấp còn thấp và chưa đáp ứng nhu cầu thiết yếu
về đời sống của người có công, mức trợ cấp phụ thuộc vào chính sách tiền lương,
điều chỉnh theo mức lương tối thiểu là không hợp lý, khó khăn trong việc giải quyết

chế độ cho người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc da cam,
cùng những hạn chế trong thủ tục hành chính…và nhiều hạn chế, bất cập khác vẫn
còn là những vấn đề mà chúng ta cần giải quyết nếu mong muốn thực hiện tốt chế
độ cho những người có công. Muốn giải quyết triệt để những vấn đề đó không thể
trong một sớm một chiều mà phải kết hợp đồng bộ các giải pháp, từ hoàn thiện hệ
thống văn bản pháp quy, triển khai đồng bộ, thống nhất và kịp thời tất cả chính sách
ưu đãi, đến thực hiện tốt và tuân thủ các quy phạm pháp luật hợp lý hiện có; xác
định rõ mối quan hệ giữa trợ cấp ưu đãi xã hội với tình hình kinh tế xã hội của đất
nước, với khả năng đảm bảo của nguồn tài chính quốc gia; xác định rõ căn cứ , mức
trợ cấp ưu đãi xã hội, có giải pháp giải quyết dứt điểm tình trạng tồn đọng hồ sơ…
Giải quyết tốt chế độ ưu đãi xã hội cho người có công, như đã phân tích có ý
nghĩa rất to lớn đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời kỳ Đổi
mới và hội nhập. Đó là nhiệm vụ đặt ra cho mọi ngành mọi cấp, từ Trung ương đến
địa phương… Làm được điều này, chúng ta mới có thể tiến lên xây dựng thành công
Chủ nghĩa xã hội.


Danh mục tài liệu tham khảo:
1)
Giáo trình Luật An sinh xã hội – Đại học Luật Hà Nội.
2)
Pháp luật An sinh xã hội- Kinh nghiệm của một số nước đối với Việt
Nam
3)
Các chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và hướng hoàn thiện
– ThS. Đỗ Thị Dung. Tạp chí Luật học số 1/2011.
4)
Trợ cấp ưu đãi xã hội trong hệ thống An sinh xã hội Việt Nam- TS.
Nguyễn Đình Liêu- Thứ trưởng Bộ Lao động, thương binh và xã hội.
5)

Những tồn tại trong giải quyết chế độ cho nạn nhân chất độc da
cam/điôxin. Hồng Nhung (Báo Hoà Bình).
6)
Xin đừng để người có công phải ngậm ngùi!- Bài viết của Trần
Quang Đại Giáo viên trường THPT Trần Phú, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh Báo
Dân Trí.
7)
Ths. Lê Thị Hoài Thu – Khoa Luật – D9HQG Hà Nội (Tạp chí Bảo
Hiểm xã hội số 6/2004)
8)
Tạp chí Đảng Cộng sản: />


×