Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÌNH CÔNG VÀ BẢO VỆ NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG ĐÌNH CÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.19 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU................................................................................2
Chương 1 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
ĐÌNH CÔNG VÀ BẢO VỆ NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
TRONG ĐÌNH CÔNG............................................................7
KẾT LUẬN...........................................................................21

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự hình thành và phát triển của thị trường lao
động, quan hệ lao động ở nước ta cũng được hình thành và có
bước phát triển nhất định. Bên cạnh các yếu tố về chất lượng,
trình độ tay nghề của người lao động thì vấn đề đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ lao động
cũng trở thành vấn đề lớn trong môi trường kinh doanh, phát
triển kinh tế - xã hội. Cùng với sự phát triển của đời sống xã
hội, quyền và lợi ích của người lao động đã ngày càng được
chú trọng và quan tâm thông qua nhiều chính sách, chủ trương
của nhà nước và pháp luật. Song để đảm bảo sự hài hoà trong
quan hệ pháp luật lao động thì việc bảo vệ quyền và lợi ích của
người sử dụng lao động là điều cần thiết. Đặc biệt trong thời
gian gần đây, hiện tượng đình công trong các nhà máy, xí
nghiệp ngày càng tăng. Đình công nếu không được sử dụng
đúng lúc, đúng cách và đúng mục đích sẽ để lại những hậu quả
đáng tiếc cho người sử dụng lao động, với tư cách là một chủ
thể bình đẳng với những người lao động và việc thực thi


nguyên tắc “trước pháp luật mọi người đều bình đẳng”, pháp
luật lao động cần thiết phải bảo vệ những quyền và lợi ích hợp
pháp của người sử dụng lao động trong các cuộc đình công.
Từ những lý do như trên, tác giả luận văn chọn đề tài
nghiên cứu: “Pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người sử dụng lao động trong đình công ở Việt Nam
hiện nay”. Với mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận về
quyền và lợi ích của người sử dụng lao động trong các cuộc
đình công, thực trạng quy định và việc thực hiện pháp luật về
đình công, tác giả mong muốn được góp phần hoàn thiện hơn
2


nữa những quy định nhằm đảm bảo hài hòa mối quan hệ trong
quan hệ pháp luật lao động. Đó là điều không chỉ có ý nghĩa về
mặt luận mà còn là yêu cầu của thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Đình công là hiện tượng không mới trong quá trình công
nghiệp hóa trên thế giới, nhằm bảo đảm sự công bằng xã hội.
Đây cũng là vấn đề phức tạp, đang được tranh luận khá sôi nổi
ở một số diễn đàn khoa học trong nước. Hiện nay cũng đã có
rất nhiều các công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến vấn đề
đình công không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các quốc gia khác
trên thế giới, cách thức và phương pháp bảo vệ người lao động
trong đình công. Vấn đề bảo vệ người sử dụng lao động trong
đình công cũng đã được không ít tác giả nghiên cứu và đề cập
dưới các góc độ và khía cạnh khác nhau, trong số đó phải kể
đến các bài viết, tạp chí nghiên cứu trực tiếp như: “Bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong
các cuộc đình công bất hợp pháp” của ThS.Nguyễn Hằng Hà,

tạp chí Luật học số 1/2008; “bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người sử dụng lao động trước, trong và sau đình
công” của TS. Đỗ Ngân Bình, tạp chí khoa học pháp lý.
Ngoài ra, vấn đề nghiên cứu và tìm hiểu các quy định pháp
luật có liên quan đến quyền và lợi ích của người sử dụng lao động
cũng có một số công trình nghiên cứu khác như: “Pháp luật về
đình công và giải quyết đình công ở Việt Nam trong điều kiện
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” - Luận án tiến sĩ Luật học
của tác giả Đỗ Ngân Bình (2005); “Đánh giá quy định của Bộ
luật lao động về đình công và giải quyết đình công” của TS.
Nguyễn Xuân Thu, tạp chí Luật học số 9/2009;
Qua các kết quả nghiên cứu của các bài viết và luận văn
trên đã đề cập về các vấn đề liên quan đến pháp luật về đình
3


công, người sử dụng lao động trong đình công. Tuy nhiên
chưa có công trình nào nghiên cứu sâu sắc về vấn đề bảo vệ
người sử dụng lao động trong quan hệ lao động nói chung và
trong đình công nói riêng, hoặc đó mới là các nghiên cứu ở
một góc cạnh, một mức độ nhất định mà chưa đề cập đầy đủ
và toàn diện.
Kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có và sự tìm hiểu
nghiêm túc, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật về bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong
đình công ở Việt Nam hiện nay”
3. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ những đặc điểm của thị trường lao động Việt
Nam và những yêu cầu của thực tiễn về mối quan hệ pháp luật
giữa người lao động và người sử dụng lao động. Mục đích

chính của luận văn là nghiên cứu các vấn đề lý luận về quyền
và lợi ích của người sử dụng lao động được bảo vệ như thế nào
và thực trạng quy định của pháp luật hiện hành. Sự cần thiết
bảo vệ người sử dụng lao động trong quan hệ lao động nói
chung và trong đình công nói riêng. Trên cơ sở đó đối chiếu
với các quy định của pháp luật lao động Việt Nam để có sự
đánh giá, đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện
hơn nữa hệ thống pháp luật lao động.
4. Phạm vi nghiên cứu
Dưới góc độ khoa học pháp lý và phù hợp với chuyên
ngành nghiên cứu, luận văn chỉ tập chung nghiên cứu những
vấn đề lý luận và thực tiễn của chế độ bảo vệ người sử dụng
lao động trong quan hệ làm công hưởng lương tại Việt Nam.
Với mục đích nghiên cứu như trên, với nội dung của đề tài
này, tác giả luận văn chủ yếu nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động
4


trong đình công trên phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng,
từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn quy định của
pháp luật về vấn đề này. Như vậy, phạm vi nghiên cứu chủ
yếu là vấn đề bảo vệ người sử dụng lao động trong đình công
ở quan hệ lao động làm công ăn lương với người lao động –
trên cơ sở hợp đồng lao động, đó là đối tượng nghiên cứu
chính của luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin vào việc đánh giá luận
giải các vấn đề thuộc đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn cũng sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh, đối chiếu, diễn giải, quy nạp để thực hiện nhiệm vụ
đặt ra.
6. Ý nghĩa của luận văn
Về mặt lý luận: Đề tài luận văn có ý nghĩa làm rõ hệ
thống lý luận, những vấn đề pháp lý cơ bản về vấn đề đình
công, sự cần thiết bảo vệ người sử dụng lao động trong đình
công cũng như bảo vệ người sử dụng lao động ở những nội
dung nào. Từ đó có những nhận thức mới, sâu sắc hơn đối với
vai trò của người sử dụng lao động trong quan hệ lao động.
Bảo đảm nguyên tắc “ trước pháp luật mọi người đều bình
đẳng” để có cái nhìn khách quan và đầy đủ hơn về quan hệ lao
động nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
Về mặt thực tiễn: Phân tích thực trạng các quy định pháp
luật, tình hình đình công ở nước ta trong thời gian qua cũng
như đánh giá các quy định của pháp luật trong việc bảo vệ
người sử dụng lao động trước, trong và sau đình công. Trên cơ
sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp
luật lao động về vấn đề này cũng như đề xuất kiến nghị nhằm
5


hoàn thiện cơ sở chính sách pháp luật, góp phần tăng cường
hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt
động của các nhà đầu tư, doanh nghiệp khi họ được đảm bảo
hoạt động trong môi trường pháp lý đầy đủ và an toàn.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm 3 chương với kết cấu và nội dung nghiên cứu
như sau:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về đình công và
bảo vệ người sử dụng lao động trong đình công.
Chương 2: Quy định pháp luật lao động về bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong đình công
và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng lao động trong đình công ở Việt Nam hiện nay.

6


Chương 1 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
ĐÌNH CÔNG VÀ BẢO VỆ NGƯỜI SỬ DỤNG LAO
ĐỘNG TRONG ĐÌNH CÔNG.
1.1.
Khái quát chung về đình công
1.1.1 Khái niệm
Xuất phát từ quan điểm này và trên cơ sở khuyến nghị
của Tổ chức lao động quốc tế ILO và kinh nghiệm của các
nước về vấn đề này, tại điều 172 của Bộ luật lao động đã sửa
đổi, bổ sung năm 2006 của nước ta đưa ra khái niệm: “Đình
công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện và có tổ chức của
tập thể lao động để giải quyết tranh chấp lao động tập thể”.
1.1.2 Đặc điểm của đình công
Thứ nhất, đình công là biểu hiện bằng sự ngừng việc tạm thời
của người lao động. Đây là dấu hiệu cơ bản nhất, giữ vai trò
trung tâm, liên kết các dấu hiệu khác tạo nên hiện tượng đình
công. Trong ý thức của những người ngừng việc và trên thực
tế, sự ngừng việc này chỉ diễn ra tạm thời, trong một thời gian

ngắn.
Thứ hai, đình công phải có sự tự nguyện của người lao động
Đây là dấu hiệu về mặt ý chí của người lao động (bao gồm cả
người lãnh đạo và người tham gia đình công), thể hiện ở việc
họ được quyền quyết định và tự ý quyết định ngừng việc, tham
gia đình công trong khi có thể có những cách giải quyết khác.
Thứ ba, đình công luôn có tính tập thể
Thứ tư, đình công luôn có tính tổ chức.
Thứ năm, mục đích của đình công là nhằm đạt được những
yêu sách về quyền và lợi ích mà những người thực hiện quan
tâm
1.2.

Bảo vệ người sử dụng lao động trong đình công
7


1.2.1 Khái niệm và đặc điểm về người sử dụng lao động.
Người sử dụng lao động là một bên trong quan hệ lao
động, trong nhiều trường hợp, người sử dụng lao động được
hiểu là các đơn vị sử dụng lao động Theo điều 6 Bộ luật lao
động đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006 và 2007 của
nước ta quy định: “Người sử dụng lao động là doanh nghiệp,
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân, nếu là cá nhân thì ít nhất phải
đủ 18 tuổi, có thuê mướn, sử dụng và trả công lao động”.
1.2.2 Sự cần thiết bảo vệ người sử dụng lao động
trong đình công
Xuất phát từ mặt lý luận: bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người sử dụng lao động là một trong những nguyên
tắc cơ bản của Luật lao động, là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt

quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật lao động. Với tư cách
là một chủ thể bình đẳng với những người lao động và với việc
thực thi nguyên tắc: “trước pháp luật, mọi người đều bình
đẳng”, pháp luật lao động cần thiết phải bảo vệ những quyền
và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trước, trong
và sau đình công.
Xuất phát từ thực tiễn khách quan: hiện đang có nhiều
cuộc đình công bất hợp pháp, gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp. Đình công để lại
nhiều hậu quả cho doanh nghiệp, ảnh hưởng đến lợi ích của
tập thể và cá nhân người lao động ở một mức độ nhất định,
hoặc gây thiệt hại cho kinh tế xã hội nói chung.
Xuất phát từ thông lệ pháp luật trên thế giới: Nhiều quốc
gia như Pháp, Đức, Philippin… đã và đang duy trì các quy
định hợp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các nhà đầu tư
trước, trong và sau đình công. Thậm chí, coi đây như một yếu
tố thu hút đầu tư nước ngoài.
8


1.2.3 Nội dung pháp luật bảo vệ người sử dụng lao động
trong đình công
Bảo vệ người sử dụng lao động trước khi đình công.
Trước khi xảy ra cuộc đình công, pháp luật lao động cần có
các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục để tiến hành cuộc đình
công, thời gian báo trước cho người sử dụng lao động với các
quy định cụ thể như về cách thức gửi yêu cầu của người lao
động, thời gian báo trước, thành phần và nội dung thương
lượng giữa các bên, cách thức lấy ý kiến người lao động trước
khi đình công, phạm vi được phép đình công, thời điểm đình

công .... Đồng thời, pháp luật lao động cũng xác định rõ chủ
thể có quyền tổ chức và lãnh đạo đình công, đại diện của các
bên tham gia để từ đó xác định rõ tư cách pháp lý của các bên
trong quan hệ lao động này. Một số hành vi bị cấm trước khi
xảy ra đình công cũng cần được đề cập và quy định cụ thể để
tạo điều kiện cho các bên xác định rõ phạm vi quyền hạn và
nghĩa vụ thực hiện để tiến hành một cuộc đình công theo đúng
pháp luật, đảm bảo lợi ích của các bên và lợi ích cộng đồng.
Bảo vệ người sử dụng lao động trong khi xảy ra đình
công: Pháp luật cần có các quy định nhằm tạo điều kiện cho
người sử dụng lao động bảo vệ tài sản, máy móc không bị đập
phá, gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Đồng thời người sử dụng
lao động có thể thông báo cho cơ quan hữu quan ở địa phương
để yêu cầu sự trợ giúp.
Bảo vệ người sử dụng lao động sau khi xảy ra đình công:
Sau cuộc đình công, người sử dụng lao động cần lưu ý các
hành động đối với người lao động để không xảy ra tình trạng
vi phạm pháp luật như hành vi trù dập, trả thù người lao động
tham gia đình công, xử lý kỷ luật hoặc chấm dứt hợp đồng lao
động đối với người lao động tham gia đình công…. Việc quy
9


định các hành vi không được thực hiện của người sử dụng lao
động cũng là cách để các doanh nghiệp có hướng xử lý phù
hợp, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên.
Sau khi cuộc đình công xảy ra, người sử dụng lao động cân
nhắc về việc giải quyết các chế độ quyền lợi cho người lao
động. Dù hợp pháp hay không hợp pháp thì đình công vẫn gây
thiệt hại về kinh tế cho người sử dụng lao động, vì vậy giải

quyết chế độ quyền lợi cho người lao động trong thời gian
đình công cũng cần có quy định cụ thể và hợp lý. Đó cũng là
nội dung mà người sử dụng lao động cần được bảo vệ và quy
định trong các quy định của pháp luật để có căn thực hiện.
Tổ chức đại diện của người sử dụng lao động: Đối với
người lao động thì công đoàn là tổ chức đại diện cho tiếng nói
và nguyện vọng của họ trong các quan hệ lao động. Cũng vậy
tổ chức đại diện người sử dụng lao động lao động là thiết chế
được lập ra với chức năng, nhiệm vụ đại diện và bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong quan hệ
lao động. Việc xác lập các tổ chức đại diện người sử dụng lao
động đề dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tự do liên kết.
1.3
Sơ lược lịch sử phát triển của pháp luật lao động
về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao
động trong đình công
- Giai đoạn trước năm 1994
- Giai đoạn từ 1994 đến nay
1.4 Quan điểm của tổ chức lao động quốc tế (ILO) và
kinh nghiệm của một số quốc gia về bảo vệ quyền và lợi ích
của người sử dụng lao động trong đình công.
1.4.1 Quan điểm của tổ chức lao động quốc tế (ILO)
1.4.2 Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới.
Chương 2 – QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ
BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI
10


SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG ĐÌNH CÔNG VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1 Tình hình đình công ở nước ta trong thời gian qua
2.2.1 Số lượng, quy mô và phạm vi của đình công
Bảng 2.1: Tình hình đình công trong các doanh nghiệp từ
năm 1995 đến tháng 6/2010 [35]

Năm

Tổng
số

Doanh
nghiệp
Nhà nước
Số
%
vụ

Doanh
nghiệp FDI
Số
vụ

%

Doanh
nghiệp
dân doanh
Số
%
vụ


1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Đến

60
59
59
62
67
70
90
99
142
124
152
390

551
720
217

11
6
10
11
4
15
9
5
3
2
8
4
1
0
0

18.3
10.2
16.9
17.7
6.0
21.4
10.0
5.1
2.1
1.6

5.3
1.0
0.2
0.0
0.0

28
39
35
30
42
38
55
65
104
92
105
287
438
584
157

46.7
66.1
59.3
48.4
62.7
54.3
61.1
65.7

73.2
74.2
69.1
73.6
79.5
81.1
72.4

21
14
14
21
21
17
26
29
35
30
39
99
112
136
60

35.0
23.7
23.7
33.9
31.3
24.3

28.9
293
24.6
24.2
25.7
25.4
20.3
18.9
27.6

6/201

228

0

0.0

194

85.1

34

14.9

2862

89


3.1

2099

73.3

674

23.5

0
Tổng
số

Từ năm 1995 đến tháng 6/2010 đã xảy ra 2.862 cuộc đình
công; trong đó xảy ra chủ yếu ở các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài (với 2.099 cuộc đình công, chiếm 73.3%), tiếp đến là
11


doanh nghiệp tư nhân trong nước (với 674 cuộc đình công,
chiếm 23.5%), doanh nghiệp Nhà nước chỉ xảy ra 89 cuộc
đình công chiếm 3.1%. Số cuộc đình công so với tổng số
doanh nghiệp đang hoạt động thì từ năm 2001 đến nay số
doanh nghiệp xảy ra đình công chiếm khoảng 0.15%, riêng
năm 2006 chiếm 0.16% và năm 2007 chiếm 0.18%; Đối với
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thì trong giai
đoạn 2001 – 2005 số doanh nghiệp xảy ra đình công chiếm
khoảng từ 2.7% đến 4% số doanh nghiệp đang hoạt động,
nhưng năm 2006 và năm 2007 tăng nhanh, tỷ lệ này lần lượt là

7.3% và 10.3%. Như vậy, mức độ xảy ra đình công có xu
hướng tăng nhanh ở các năm về sau.
Bảng 2.2: Tình hình đình công tại các doanh nghiệp
chia theo các giai đoạn [23, tr.22]
Năm

Tống
số vụ

DNNN
Số
%
vụ

DNĐTNN
Số
%
vụ

DNTN
Số
%
vụ

19952000

377

57


15.12

212

56.23

108

28.65

20012005

607

27

4.45

421

69.36

159

26.19

1878

5


0.27

1466

78.06

407

21.67

2868

89

3.1

2099

73.3

674

23.5

20066/2010
Tổng
số vụ

12



Bảng 2.3: Số cuộc đình công phân theo địa bàn trọng điểm
[23, tr.24]

Tổn
g số

TP.
HCM

1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007

60
59
59
62
67
70

90
99
142
124
152
390
551

Số
vụ
28
29
37
44
33
34
38
44
57
44
52
108
109

2008

720

2009
2010

Tổn
g số

217
228
2862


m

Bình
Dương

Đồng
Nai

46.7
49.2
62.7
71.0
49.3
48.6
42.2
44.4
40.1
35.5
34.2
27.7
19.8


Số
vụ
12
8
0
6
19
19
35
20
27
11
7
139
217

20.0
13.6
0.0
9.7
28.4
27.1
38.9
20.2
19.0
8.9
4.6
35.6
39.4


Số
vụ
6
17
14
5
12
6
7
14
32
43
41
95
106

165

22.9

127

17.6

70
8

32.3
3.5


35
51

16.1
22.4

892

31.2

682

23.8

%

%

%

Tây Ninh

Long An

Số
vụ

Số
vụ


%

%

10.0
28.8
23.7
8.1
17.9
8.6
7.8
14.1
22.5
34.7
27.0
24.4
19.2

44

8.0

24

4.4

167

23.2


67

9.3

57

7.9

35
96

16.1
42.1

10
1

4.6
0.4

6
1

2.8
0.4

600

21.0


121

4.2

87

3.0

13

Tỉnh, TP
khác
Số
vụ
14
5
8
7
3
11
10
21
26
26
52
48
51
13
7
61

71
48
0

%
23.3
8.5
13.6
11.3
4.5
15.7
11.1
21.2
18.3
21.0
34.2
12.3
9.3
19.0
28.1
31.1
16.8


2.2.2 Đặc điểm chung các cuộc đình công ở Việt Nam trong thời
gian qua.
- Các cuộc đình công đều diễn ra bất ngờ, không có báo trước,
người lao động luôn coi đó như là một giải pháp đầu tiên và tốt nhất
để đấu tranh.
- Việc tiến hành đình công được thực hiện trước khi tiến hành giải

quyết tranh chấp tập thể theo trình tự (chưa yêu cầu hội đồng hòa
giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động tiến hành hòa giải;
chưa được giải quyết tại hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh….)
- Không có người lãnh đạo đình công chính thức (không do ban
chấp hành công đoàn hoặc đại diện tập thể lao động khởi xướng, tổ
chức và lãnh đạo) mà chủ yếu do một số thủ lĩnh giấu mặt lãnh đạo;
chưa lấy ý kiến của tập thể lao động trước khi tổ chức đình công;
không báo trước cho các cơ quan quản lý và người sử dụng lao
động. Đây chính là yếu tố đáng lo ngại cho sự biến thể của đình
công sang những vấn đề ngoài quan hệ lao động, có thể gây ra
những tác động xấu cho tình hình an ninh, chính trị, trật tự xã hội.
2.2 Thực trạng quy định của pháp luật lao động về bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong đình công.
2.2.1 Quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trước khi
đình công.
Thứ nhất: bảo vệ người sử dụng lao động khi xác định thời
điểm được phép tiến hành đình công.
Thứ hai: bảo vệ người sử dụng lao động trong các quy định về
thủ tục chuẩn bị đình công.
Thứ ba: bảo vệ người sử dụng lao động đối với nội dung yêu
cầu của người lao động.
Như vậy ngay từ thời điểm trước khi xảy ra cuộc đình công, pháp
luật cũng đã có những quy định nhằm hạn chế những hành vi vi
14


phạm pháp luật của người lao động đối với thiết bị, tài sản của
doanh nghiệp, tư liệu sản xuất của người sử dụng lao động. Đây là
giai đoạn để các bên có thể cân nhắc, thương lượng tìm được tiếng
nói chung hạn chế được nguy cơ xảy ra đình công

2.2.2 Quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong
khi đình công.
Trong quá trình xảy ra đình công pháp luật cũng quy định
những hành vi bị cấm đối với người lao động: cấm dùng bạo lực,
cấm làm tổn tại máy móc, thiết bị, tài sản của doanh nghiệp
Ngay cả trong thời điểm khi cuộc đình công đã xảy ra, người sử
dụng lao động vẫn được sử dụng quyền chấp nhận toàn bộ hoặc một
phần nội dung bản yêu cầu của người sử dụng lao động, tạo điều
kiện để cuộc đình công có thể dừng lại tránh gây các thiệt hại không
đáng có cho các bên. Trong thời điểm này, luật vẫn cho phép người
sử dụng lao động được quyền yêu cầu Tòa án nhân dân xét tình hợp
pháp của cuộc đình công để đảm bảo quyền lợi của mình.
Nhìn chung quy định về người có quyền và thời điểm yêu cầu
tòa án giải quyết đình công như hiện nay là hợp lý, nó bảo đảm được
quyền tự định đoạt của các bên trong việc giải quyết đình công và
bảo đảm tính hợp lý về thời điểm và sự cần thiết thực sự trong việc
yêu cầu tòa án giải quyết đình công.
2.2.3 Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động
sau khi đình công.
Sau thời hạn 3 tháng kể từ ngày chấm dứt đình công, người sử
dụng lao động quyền nộp đơn đến Tòa án yêu cầu xét tính hợp pháp
của cuộc đình công. Khi đã có quyết định của Tòa án về cuộc đình
công là bất hợp pháp mà người lao động không ngừng đình công,
không trở lại làm việc thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý
kỷ luật lao động theo quy định của pháp luật lao động. Trong trường
15


hợp cuộc đình công là bất hợp pháp, gây thiệt hại cho người sử dụng
lao động thì tổ chức, cá nhân tham gia đình công có lỗi phải bồi

thường thiệt hại theo quy định của pháp luật (Điều 179 Bộ luật lao
động sửa đổi bổ sung năm 2006). Các quy định trên nhằm đảm bảo
hoạt động sản xuất sớm đi vào ổn định, tránh gây thiệt hại cho cả
người lao động và người sử dụng lao động.
2.2.4 Tổ chức đại diện người sử dụng lao động
Theo các quy định hiện hành, tổ chức đại diện người sử dụng
lao động hiện nay gồm: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam (VCCI) và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (VCA).
2.3 Một số đánh giá về quy định của pháp luật trong việc bảo vệ
người sử dụng lao động trong đình công ở nước ta hiện nay.
2.3.1 Về phía cơ quan nhà nước
Đến nay, nước ta đã hình thành được một hệ thống luật pháp để
điều chỉnh quan hệ lao động gồm: Hiến pháp, Bộ luật lao động và
các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành; các văn bản
quy định về tổ chức đại diện người sử dụng lao động như Điệu lệ
phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, các quy định liên
quan khác như Luật bảo hiểm xã hội, Luật doanh nghiệp, Bộ luật tố
tụng dân sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính … và 17 công ước
của tổ chức lao động quốc tế (ILO) về lĩnh vực lao động.
Về tổng thể, có thể thấy pháp luật lao động đã được tạo lập
đồng bộ, đáp ứng yêu cầu trong nền kinh tế thị trường, việc bảo vệ
quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ lao động đã được quan
tâm kịp thời và điều chỉnh cho phù hợp với xu thế chung.
2.3.2 Về phía tổ chức người đại diện của người sử dụng lao
động
Vai trò của VCCI là tổ chức của giới chủ sử dụng lao động,
VCCI tham gia vào các hoạt động ba bên, phối hợp hai bên chặt chẽ
16



với Bộ lao động Thương binh và xã hội và Tổng liên đoàn lao động
Việt Nam thông qua Biên bản ghi nhớ và thỏa thuận hợp tác. VCCI
đã tích cực lấy ý kiến giới chủ sử dụng lao động để đóng góp vào
các đề án xây dựng pháp luật.
2.3.3 Về phía tổ chức tham vấn và hòa giải.
Ở Việt Nam hiện nay, tham vấn chưa trở thành phổ biến trong
quan hệ lao động, theo Quyết định số 68/2007/QĐ – TTg ngày
17/7/2007 của Thủ tướng chính phủ đã thành lập Ủy ban quan hệ lao
động ở cấp Trung ương với chức năng chính là tư vấn cho Thủ
tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách, giải pháp xây dựng quan hệ
lao động lành mạnh, xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tổ
chức liên quan trong việc phòng ngừa, giải quyết tranh chấp lao
động và đình công.
Về tổ chức hòa giải, theo quy định tại điều 162 của Bộ luật lao
động thì Hội đồng hòa giải lao động cơ sở phải được thành lập trong
các doanh nghiệp có công đoàn cơ sở hoặc ban chấp hành công đoàn
lâm thời với đại diện ngang nhau của bên người lao động và người
sử dụng lao động. Thực hiện vai trò hòa giải các tranh chấp lao động
tập thể trước khi để xảy ra các cuộc đình công, tuy nhiên tổ chức
này hầu như không phát huy được tác dụng vì hội đồng này không
có vị trí độc lập và năng lực thực hiện chức năng hòa giải tranh
chấp.
2.3.4 Về phía tổ chức trọng tài lao động và Tòa án
Theo thống kê của Bộ lao động thương binh và xã hội hiện đã
có 54/64 tỉnh thành phố đã thành lập Hội động trọng tài, với số
lượng thành viên từ 5 -7 người, tuy nhiên số vụ tranh chấp lao động
được giải quyết tại Hội đồng trọng tài không nhiều.
Việc xác định thẩm quyền, thủ tục xét tính hợp pháp của cuộc
đình công tại Tòa án nhân dân trong Bộ luật lao động hiện nay nhìn
17



chung là hợp lý và nhiều điểm tiến bộ so với quy định trước đây, tuy
nhiên có một số điểm còn hạn chế như về thủ tục yêu cầu tòa án giải
quyết đình công. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người chủ sử dụng lao động trong đình công
hiện nay.

18


Chương 3 – MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG ĐÌNH CÔNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY.
3.1 Quan điểm cơ bản hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong các cuộc
đình công
Một là, đình công là một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan
trong nên kinh tế thị trường, có hai mặt tích cực và tiêu cực không
tách rời nhau, do đó cần thừa nhận thực tế này để có giải pháp phù
hợp, hướng các cuộc đình công diễn ra một các hợp pháp, theo
khuôn khổ pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng
của người lao động và người sử dụng lao động, bảo đảm an ninh
chính trị, trật tự và an toàn xã hội.
Hai là, người sử dụng lao động và người lao động trong các
doanh nghiệp cần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, tiến bộ trên
cơ sở thực hiện cơ chế thỏa thuận giữa các bên ở cấp ngành theo
đúng nguyên tắc thị trường.
Ba là, thống nhất nhận thức về bản chất và đặc điểm quan hệ

lao động, tranh chấp lao động và đình công ở Việt Nam để có cách
ứng xử, can thiệp đúng, phù hợp với nguyên tắc thị trường và điều
kiện cụ thể của Việt Nam.
Bốn là, hoàn thiện cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động ở
nước ta hiện nay, cơ chế ba bên đã khẳng định được vai trò của
mình trong đời sống lao động - xã hội.
3.2 Một số giải pháp cơ bản và kiến nghị
3.2.1 Hoàn thiện hệ thống quy định của pháp luật lao động
Thứ nhất, không nên cho phép tập thể lao động tiến hành đình
công đối với các tranh chấp lao động tập thể về quyền.
19


Thứ hai, nên bổ sung các quy định để phương thức hoà giải
phát huy tác dụng trong việc giải quyết tranh chấp lao động (là
nguyên nhân dẫn đến đình công).
Thứ ba, hoàn thiện quy định về cách thức đình công
3.2.2 Đối với công tác quản lý nhà nước về lao động
Về bộ máy quản lý lao động các cấp: Cần tập trung hoàn thiện
cơ cấu tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ ở các cấp một cách cụ
thể, rõ ràng, tránh trường hơp bỏ trống, chồng chéo chức năng
nhiệm vụ, trong đó cần tập trung tăng cường số lượng biên chế cho
cơ quan lao động cấp huyện, đối với các tỉnh thành phố lớn như TP.
Hà Nội, TP. HCM, Đồng Nai, Bình Dương….
Về công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật: Trước mắt, tập
trung thực hiện có hiệu quả Đề án tuyên truyền phổ biến pháp luật
giai đoạn 2009 – 2012 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
Quyết định số 31/2009/QĐ-TTg ngày 24/12/2009, với mục tiêu đến
hết năm 2012 có 95% người sử dụng lao động và 70% người lao
động được tuyên truyền phổ biến pháp luật lao động.

Về công tác thanh tra, kiểm tra và tham gia giải quyết các cuộc
đình công tự phát: Khi đình công xảy ra, cơ quan quản lý lao động
địa phương cần chuyển dần cách tiếp cận từ chỗ can thiệp hành
chính với danh nghĩa thay mặt cho người lao động sang vai trò của
bên thứ ba trung gian nhằm tới mục đích hỗ trợ hai bên thương
lượng và làm trung gian hòa giải tranh chấp.
3.2.3 Nâng cao vai trò của tổ chức đại diện người sử dụng lao
động
Một là, cần đổi mới nhận thức về tổ chức đại diện người sử
dụng lao động và vai trò của nó trong lĩnh vực lao động và trong đời
sống xã hội.
20


Hai là, cần phải xây dựng thể chế pháp lý về tổ chức hoạt động
của tổ chức đại diện người sử dụng lao động.
Ba là, bản thân tổ chức đại diện người sử dụng lao động cần tự
đổi mới về phương thức tổ chức, hoạt động.
Bốn là, đại diện người sử dụng lao động cần phải là một cơ cấu
thống nhất, tối thiểu là một bộ máy thực hiện quyền đại diện do
những người sử dụng lao động trong cả nước, được bầu ra theo thể
thức bỏ phiếu công nhận.
3.2.3 Tăng cường vai trò của tổ chức công đoàn trong giải quyết
các cuộc đình công.
- Đối với tổ chức công đoàn cơ sở
- Đối với công đoàn cấp trên cơ sở
3.2.4 Một số kiến nghị
Thứ nhất: Về quyền “đóng cửa tạm thời nơi làm việc” Quyền
của người sử dụng lao động khi xảy ra đình công cần được xem xét
và ghi nhận trong các quy định của luật. Nếu như coi đình công là

quyền của người lao động, thì đóng cửa tạm thời nơi làm việc được
coi là quyền của người sử dụng lao động.
Thứ hai: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 22 –
CT/TW năm 2008 của Ban Bí thư về xây dựng quan hệ lao động hài
hòa ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp.

KẾT LUẬN
Đình công là hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, ảnh
hưởng đến an ninh, trật tự xã hội và môi trường đầu tư, làm thiệt hại
21


cho người lao động, cho doanh nghiệp và cho cả nền kinh tế. Trong
quan hệ lao động, việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ
thể là điều kiện cần thiết cho sự phát triển của các bên. Vì vậy cần
phải được nghiên cứu để có những giải pháp nhằm giải quyết vấn đề
này phù hợp, với cách tiếp cận trên, luận văn đã tập trung làm rõ
một số vấn đề về quyền và lợi ích của người sử dụng lao động trong
đình công ở Việt Nam như sau:
Hệ thống và làm rõ một số vấn đề mang tính chất lý luận về
đình công trong kinh tế thị trường, trong đó nêu rõ cách tiếp cận về
khái niệm, đặc điểm của đình công; vai trò của người sử dụng lao
động trong quan hệ lao động; nguyên tắc, ý nghĩa của bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, thiệt hại mà các
bên chủ thể phải gánh chịu khi đình công xảy ra. Các vấn đề, nội
dung về mặt lý luận trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng lao động. Bên cạnh đó cũng tìm hiểu sơ lược lịch sử
các quy định pháp luật về bảo vệ người sử dụng lao động trong đình
công ở Việt Nam; kinh nghiệm của một số quốc gia Châu Á và ra
một số bài học cho giải quyết đình công ở nước ta hiện nay.

Phân tích tình hình đình công xảy ra trên thực tế ở Việt Nam
trong thời gian qua, đánh giá đặc điểm chung của các cuộc đình
công đó cũng như tìm hiểu các quy định của pháp luật về bảo vệ
người sử dụng lao động trước, trong và sau đình công. Đồng thời
đánh giá các điểm hợp lý và chưa hợp lý trong các quy định của
pháp luật về vấn đề trên.
Để giải quyết vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích pháp của người sử
dụng lao động trong đình công ở nước ta hiện nay, luận văn cũng đã
có những quan điểm, đề xuất các giải pháp và kiến nghị cả về mặt
quan điểm định hướng cũng các giải pháp cụ thể nhằm hạn chế đình
công nói chung cũng như giảm thiểu thiệt hại do đình công gây ra
22


cho các chủ thể quan hệ lao động trong đó có quyền và lợi ích hợp
pháp của người sử dụng lao động. Mặc dù đã có sự cố gắng song với
khả năng tiếp cận vấn đề còn hạn chế, tác giả rất mong muốn nhận
được sự góp ý cụ thể về vấn đề này để luận văn được hoàn thiện hơn
và có tính thực tiễn hơn.

23



×