Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tìm hiểu vấn đề ly hôn trong hệ thống pháp luật Việt Nam ( Từ thời phong kiến đến nay)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.87 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Gia đình là tế bào của xã hội, là tổ ấm của mỗi người, là môi trường quan
trọng giáo dục nếp sống và hình thành nếp sống con người mới, góp phần vào công
cuộc xây dụng và bảo vệ tổ quốc. Thực trạng quan hệ hôn nhân và gia đình không
chỉ phát triển thuận theo ý tưởng và mong muốn của chúng ta, sự tan vỡ của gia
đình cũng là hiện tượng thực tế đặt ra một chiều hướng ngược lại mà mọi ngành
khoa học nói chung và ngành luật học nói riêng phải nghiên cứu. Việc chia tay của
nhiều cặp vợ chồng bằng ly hôn vì nguyên nhân nào đó đã trở thành những trở ngại
lớn cho sự phát triển chung của xã hội, làm tổn hại trực tiếp đến mỗi con người,
đặc biệt làm ảnh hưởng tới sự phát triển bình thường của con trẻ vì không đủ điều
kiện để đảm bảo về vật chất và tinh thần cho chúng. Nếu kết hôn là hiện tượng xã
hội bình thường của quan hệ hôn nhân thì ly hôn là mặt trái của quan hệ hôn nhân,
nhưng lại không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân tan vỡ.Ly hôn được xem là
giải pháp để các bên thoát khỏi quan hệ vợ chồng khi đã thực sự tan vỡ, đây cũng
là biện pháp loại bỏ những quan hệ hôn nhân không còn sức sống, không còn lành
mạnh để góp phần cũng cố các quan hệ gia đình trên cơ sở vững chắc hơn. Chính
vì thế, em xin chọn đề bài: “Tìm hiểu vấn đề ly hôn trong hệ thống pháp luật
Việt Nam ( Từ thời phong kiến đến nay)” để làm đề tài phân tích cho phần bài
tập lớn học kỳ.

NỘI DUNG
I.Một số vấn đề khái quát chung.
1. Khái niệm ly hôn.
Theo quy định tại khoản 8 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2000 (LHNVGĐ
2000): “ Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do tòa án công nhận hoặc quyết
định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoăc cả hai bên vợ chồng.”
1


Như vậy, có thể hiểu rằng, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ giữa vợ và chồng
trên cở sở tự nguyện của ít nhất một bên và trên cơ sở tự nguyện đó cơ quan có


thẩm quyền của nhà nước sẽ xem xét, giải quyết cho vợ chồng ly hôn hay không ly
hôn.
Quyền ly hôn là quyền nhân than cơ bản của cá nhân được pháp luật quy định
và phải được thực hiện trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân
sự về việc xác lập, thực hiện các quyền dân sự và các nguyên tắc được quy định
trong Luật HNVGĐ 2000.
2. Căn cứ ly hôn.
Ở nước ta, Luật HNVGĐ 2000 quy định căn cứ ly hôn vừa mang tính khái quát
vừa mang tính cụ thể. Theo Điều 89 Luật HNVGĐ 2000 quy định cụ thể như sau:
2.1. Tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích

hôn nhân không đạt được.
Quan hệ vợ chồng đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài là
muốn nói đến tình yêu của vợ chồng đã không còn nữa, tình yêu đó có thể bị phai
nhạt hay bị một tình yêu mới làm chia dẽ tình cảm vợ chồng. Qua đó, giữa vợ
chồng hay xảy ra những mâu thuẫn sâu sắc tới mức không thể hàn gắn được, nếu
tiếp tục cuộc sống chung của vợ chồng chỉ đem lại những đau khổ cho nhau mà
thôi và sẽ ảnh hưởng đời sống của các thành viên khác trong gia đình mà quan
trọng là ảnh hưởng tới việc chăm sóc và giáo dục con cái. Bởi vậy, chỉ có cách giải
thoát cho nhau mới đem lại cuộc sống vui vẻ cho hai bên vợ chồng.
Bên cạnh đó, cần làm rõ vấn đề của mục đích của hôn nhân không đạt được
là thế nào? Ta biết rằng, mục đích của việc xác lập quan hệ hôn nhân là xây dựng
gia đình ấm no, hạnh phúc, bình đẳng và tiến bộ trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện.
Một khi ddã không đạt được mục đích hôn nhân tức là vi phạm nguyên tắc cơ bản
2


của hôn nhân thì vợ chồng có thể được ly hôn. Khi chung sống, mỗi bên đều cảm
thấy hạnh phúc, vợ chồng hoàn toàn bình đẳng với nhau thì sự tồn tại quan hệ hôn
nhân đó đã đạt được mục đích của nó. Nhưng ngược lại, khi mà vợ chồng chung

sống mà mỗi người hoặc một trong hai người cảm thấy thiệt thòi, bất hạnh, là sự
thờ ơ, là sự xúc phạm nhau về tinh thần và thể xác dẫn tới việc họ không còn muốn
chung sống với nhau suốt đời thì rõ ràng cuộc hôn nhân đó đã không đạt được mục
đích.
Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23/11/2000 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao, tại điểm a3 mục 8 hướng dẫn về viêcmục đích hôn nhân
không đạt được như sau: “ Không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng vè
quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng; không tôn trọng danh dự, uy tín, nhân phẩm của
vợ, chồng; không tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp
đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt”.

2.2. Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tòa án tuyên bố mất tích
xin ly hôn thì tòa án giải quyết cho ly hôn.
Quyết định tuyên bố mất tích của tòa án cũng được xem là căn cứ ly hôn nếu
người vợ hoặc người chồng của người bị tuyên bố mất tích yêu cầu được ly hôn.
Thực tế cho thấy rằng, căn cứ cho ly hôn theo khoản 2 Điều 89 Luật HNVGĐ rất
dễ được xác định, chỉ cần có quyết định tuyên bố của vợ hoặc chồng mất tích và có
đơn yêu cầu của người kia thì tòa án sẽ cho ly hôn.
Pháp luật hôn nhân và gia đình quy định đây là căn cứ cho ly hôn là hoàn toàn
phù hợp với mục đích của hôn nhân. Nếu một trong hai bên vợ chồng bị tuyên bố
mất tích có nghĩa là họ đã biệt tích 2 năm mà không có tin tức xác thực về người
đó còn sống hay đã chết. Chính sự vắng mặt đó của một trong hai bên vợ chồng
làm cho hôn nhân của họ tồn tại chỉ là hình thức, do vậy, giải quyết ly hôn trong
trường hợp này nhằm bảo vệ quyền cho người vợ hoặc chồng ở nhà về các lợi ích
3


nhân than và lợi ích tài sản, đồng thời cũng nhằm cũng cố mối quan hệ gia đình nói

chung.

II. Vấn đề ly hôn trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ thời phong
kiến đến nay.
Căn cứ vào quá trình phát triển của cách mạng nói chung, vào quá trình phát
triển của Luật HNVGĐ nói riêng, em chia quá trình phát triển của chế định ly hôn
trong pháp luật Việt Nam thành các giai đoạn sau đây ( Sự phân chia này chỉ mang
ý nghĩa tương đối mà thôi).

1.Chế định ly hôn trước năm 1945.
Trước cách mạng tháng Tám 1945, Việt Nam là nước thuộc địa nữa phong
kiến dựa trên nền tảng kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của
giai cấp và địa chủ phong kiến. Cùng với việc duy trì quan hệ sản xuất phong kiến,
Thực dân Pháp và giai cấp địa chủ phong kiến còn lợi dụng chế độ HNVGĐ phong
kiến đã tồn tại nhiều thế kỷ ở nước ta để cũng cố địa vị thống trị của chúng. Thực
hiện chính sách “ chia để trị”, Thực dân Pháp đã chia nước ta thành ba miền khác
nhau và mỗi miền ban hành, áp dụng theo từng bộ luật cụ thể. Tại Bắc Kỳ áp dụng
những quy định trong Bộ dân luật 1931, tại Nam Kỳ áp dụng Bộ dân luật giản yếu
Nam Kỳ 1883 và tại Trung Kỳ áp dụng Bộ dân luật 1936.
Cả ba Bộ luật trên đều thừa nhận chế độ đa thê, cho phép người chồng được
lấy nhiều vợ đã tạo điều kiện cũng cố quyền gia trưởng của người đàn ông.Tập
quán xã hội phong kiến và quy định của pháp luật đã chói chặt người vợ vào vị trí
là nô lệ trong gia đình. Nếu vợ chết thì chồng để tang vợ 12 tháng mới được đi tái
thú, còn nếu chồng chết thì vợ phải để tang chồng 27 tháng mới tái giá.
Ba bộ luật trên đã đặt viêc giải quyết ly hôn dựa trên yếu tố lỗi của vợ chồng.
Những duyên cớ ly hôn của vợ chồng thực chất là vi phạm nghĩa vụ của vợ chồng
4


theo luật định. Điều 118 Bộ dân luật Bắc kỳ và Điều 117 Bộ dân luật Trung Kỳ đã
quy định những duyên cớ riêng cho vợ ( chồng). chồng có thể xin ly hôn vì vợ
ngoại tình, vì vợ đã bỏ nhà chồng mà đi tuy đã được chồng gọi về mà không về, vì

bạo hành với vợ chính.
Đặc biệt, Bộ dân luật giản yếu 1883 đã quy định việc chỉ do người chồng
quyết định, người vợ không có quyền đó. Theo cổ luật phong kiến Việt Nam,
chồng có quyền “ rẫy” vợ nếu: Hai vợ chồng nghèo, sau khi mới cưới nhau đã trở
nên giàu có, người vợ để tang nhà chồng 3 năm, người vợ không có nơi nương tựa
để trở về nhà.
=> Như vậy, chế độ hôn nhân và gia đình ở nước ta trước 1945 là công cụ pháp lý
của nhà nước thực dân phong kiến nhằm cũng cố và bảo vệ lợi ích của gia đình địa
chủ phong kiến, cũng cố ách thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Sau khi Đảng ra đời, đã đề ra yêu cầu đấu tranh đòi “ bỏ hết thảy các pháp luật
và tục lệ hủ bại làm cho đàn bà không bình đẳng với đàn ông, bỏ chế độ áp bức của
cha mẹ đối với con cái, của chồng đối với vợ, cấm tục lấy nhiều vợ , vợ lẽ; quyền
đàn bà được giữ lại con mình lúc ly dị”.

2. Chế định ly hôn trong giai đoạn từ cách mạng tháng 8/1945 đến
1954.
Trong thời gian này nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh 90/SL ngày 10/10/1945
của chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa(VNDCCH), theo đó, các quy định
về luật HNVGĐ trong ba Bộ luật: Bắc Kỳ 1931, Trung Kỳ 1936 và Nam Kỳ 1883
vẫn có hiệu lực thi hành trên phạm vi toàn cõi Việt Nam.
Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của VNDCCH ra đời. Lần đầu tiên trong lịch sử
pháp luật Việt Nam, quyền bình đẳng nam nữ được ghi nhận trong đạo luật có giá
trị pháp lý cao nhất. Đây là cơ sở pháp lý cho đấu tranh xóa bỏ chế độ HNGĐ thời
phong kiến, xây dựng chế độ HNGĐ mới, dân chủ tiến bộ. Cụ thể là Nhà nước đã
5


ban hành hai Sắc lệnh đầu tiên có quy định về HNGĐ là Sắc lệnh 97/SL ngày
22/5/1950 và Sắc lệnh 159/SL ngày 17/11/1950.
+ Sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950 có 15 điều, trong đó có 8 điều quy định về

HNGĐ đã xóa bỏ tính chất quyền gia trưởng cũ áp bức cá nhân. Sắc lệnh cho phép
người đàn bà ly dị có thể lấy chồng khác khi có án tuyên ly dị, nếu dẫn chứng được
mình không có thai hoặc đang mang thai(Điều 4 và 6) đã thể hiện được sự bình
đẳng nam nữ trong quan hệ gia đình. Đối với người đàn bà lấy chồng có toàn năng
thực hiện mọi hành vi dân sự.
+ Đặc biệt Sắc lệnh 159/SL ngày 17/11/1950 quy định vấn đề ly hôn có 9 điều,
chia làm 3 mục: Duyên cớ ly hôn, thủ tục ly hôn và hiệu lực của việc ly hôn. Sắc
lệnh quy định quyền tự do kết hôn và ly hôn, xóa bỏ sự phân biệt không bình đẳng
về các duyên cớ ly hôn chung của hai vợ chồng là: Ngoại tình, một bên can án phạt
giam, một bên mắc bệnh điên hoặc bệnh khó chữa khỏi, một bên bỏ nhà đi quá 2
năm mà không có lý do chính đáng, vợ chồng tính tình không hợp hoặc đối xử đến
mức không thể sống chung được( Điều 2).
Đơn giản thủ tục ly hôn, Điều 3 của Sắc lệnh quy định: “ Vợ chồng có thể xin
thuận tình ly hôn và khi xử việc ly hôn, tòa án áp dụng thủ tục bình thường như khi
xử các việc khác của họ”. Tuy nhiên, trong trường hợp vợ chồng xin thuận tình ly
hôn, nếu tòa án nhân dân huyện hay xã hòa giải không thành và sau một tháng mà
hai vợ chồng vẫn giữ nguyên ý kiến xin ly hôn thì tòa án nhân dân huyện, xã sẽ
chính thức công nhận cho ly hôn( Điều 4).
Sắc lệnh đã quy định bảo vệ phụ nữ có thai và thai nhi trong việc ly hôn. Theo
đó, nếu người vợ có thai thì vợ hay chồng có thể xin tòa án hoãn đến kỳ sinh nở
mới xử lý việc ly hôn (Điều 5).
Thực hiện nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người con chưa thành niên khi ly
hôn, tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi của các con vị thành niên để ấn định việc chăm
6


nom, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng. Hai vợ chồng đã ly hôn phải cùng chịu phí tổn về
việc nuôi dạy con, mỗi người tùy theo khả năng của mình.
=>Như vậy, Sắc lệnh 97/SL và 159/SL đã góp phần xóa bỏ chế độ hôn nhân gia
đình phong kiến. Nội dung hai sắc lệnh này đã thể hiện tính dân chủ và tiến bộ rất

nhiều so với chế độ HNVGĐ phong kiến. Tuy nhiên, hai Sắc lệnh này vẫn còn hạn
chế, chưa xóa bỏ tận gốc và toàn diện chế độ HNVGĐ phong kiến. Đối với Sắc
lệnh 159/SL khi quy định về ly hôn đã quy định giải quyết ly hôn dựa trên những
nguyên cớ của vợ chồng, tức là dựa vào yếu tố lỗi như: Do một bên ngoại tình, bị
can án phạt giam…mà chưa dựa vào bản chất của quan hệ hôn nhân.

3. Chế độ ly hôn trong giai đoạn 1955 đến 1975.
Trong thời kỳ này, Hiến pháp của nước VNDCCH đã được Quốc Hội khóa 1 kỳ
họp thứ XI thông qua ngày 31/12/1959 và được chủ tịch nước ký công bố ngày
1/1/1960, trong đó Điều 24 đã quy định quyền bình đẳng giữa nam và nữ về mọi
mặt: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và quy định “ Đây là cơ sở pháp lý cho việc
xây dựng luật HNVGĐ mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta”.Luật HNVGĐ đã được
Quốc Hội khóa 1 kỳ họp thứ XI chính thức thông qua ngày 29/12/1959 và được
chủ tịch nước ký Sắc lệnh thông qua ngày 13/1/1960. Theo Sắc lệnh số 02/SL gồm
6 chương chia làm 35 điều, trong đó, chương V gồm 9 điều quy định về ly hôn và
căn cứ ly hôn một cách chính xác.
Luật HNVGĐ 1959, đã công nhận quyền tự do kết hôn và quyền tự do ly hôn,
xóa bỏ sự bất bình đẳng về duyên cớ ly hôn chung cho hai vợ chồng. Luật
HNVGĐ 1959, không quy định những căn cứ ly hôn riêng biệt mà quy định căn cứ
ly hôn chung nhất cho mọi trường hợp là: Tình trạng vợ chồng mâu thuẫn trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.
Luật HNVGĐ 1959 đơn giản về thủ tục ly hôn. Điều 25 quy định: Vợ chồng có
thể xin thuận tình ly hôn sau khi điều tra nếu xét đúng hai bên tự nguyện xin ly hôn
7


thì tòa án sẽ công nhận việc thuận tình ly hôn. Việc ra quyết định thuận tình ly hôn
hoặc bản án xử cho ly hôn là sự phản ánh thực tế khách quan cuộc sống chung giữa
hai vợ chồng không còn nữa chứ không phải là thể hiện ý chí của người xét xử. Ở
đây “ tình trạng vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài,

mục đích của hôn nhân không thể đạt được” không chỉ đơn giản là hai vợ chồng
không còn tình yêu mà nó nói tới việc nuôi dạy con cái…và nếu tiếp tục duy trì
cuộc sống đó thì nó không thể là cơ sở xây dựng hòa thuận, hạnh phúc. Vì vậy, tòa
án xét xử cho ly hôn chỉ là công nhận về mặt pháp lý với thực trạng là cuộc hôn
nhân đã chết.
Luật này cũng định bảo vệ phụ nữ có thai: “ chỉ có thể xin ly hôn khi người mẹ
đã sinh đẻ được một năm. Điều hạn chế này không áp dụng đối với việc ly hôn của
người vợ”(Điều 27); “ vợ chồng khi ly hôn vẫn có nghĩa vụ và quyền lợi đối với
con chung”(Điều 31) và quy định việc giao con cho ai trông nom, nuôi dưỡng cũng
như việc đóng góp phí tổn nuôi nấng, giáo dục con cái, mỗi người tùy theo khả
năng của mình (Điều 32).
Luật HNGĐ 1959 đã được nhà nước ban hành và khẳng định được bản chất
XHCN, phục vụ cho lợi ích của nhân dân, phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng
của toàn dân, nhằm xây dựng chế độ HNGĐ chế độ XHCN mới.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện và áp dụng Luật HNVGĐ 1959 còn gặp không
ích trở ngại, một số trường hợp phát sinh quan hệ HNVGĐ nhưng không có quy
phạm điều chỉnh…Do đó, cần sữa đổi toàn diện Luật HNVGĐ 1959 để phù hợp
với giai đoạn mới của đất nước. Ở Miền Nam từ 1954-1975, đế quốc Mỹ và bè lũ
tay sai đã ban hành một số văn bản pháp luật áp dụng trong các quan hệ HNGĐ
như: Luật gia đình 2/1/1959, Sắc luật 15/64 ngày 23/7/1964 và Bộ dân luật
20/12/1972…Các văn bản này thường quy định độ tuổi kết hôn , đối với nam là
phải đủ 18 còn nữ là đủ 15 và cho phép hạ thấp độ tuổi kết hôn trong những trường
hợp đặc biệt, việc kết hôn của nam nữ dưới 21 tuổi phải được sự đồng ý của cha
8


mẹ hay ông bà. Chế định ly than được áp dụng theo quyết định của tòa án dựa trên
yếu tố lỗi của vợ chồng. Đặc biệt, Luật gia đình 2/1/1959, tại Điều 55 đã quy định
cấm vợ chồng không được ly hôn trong những trường hợp đặc biệt.
Sắc luật 15/64 và Bộ dân luật 1972 có quy định chế định ly hôn, tuy nhiên,

việc giải quyết ly hôn cũng dựa trên những duyên cớ, thực chất là lỗi của vợ chồng,
những duyên cớ cho ly than cũng áp dụng chung cho ly hôn (Điều 70 Bộ dân luật
1972).
=>Như vậy, chế độ HNGĐ ở Miền Nam nước ta trước ngày giải phóng là chế độ
HNGĐ phong kiến tư sản với tính chất lạc hậu, phản động như bản chất của nhà
nước thực dân phong kiến. Do dó, yêu cầu xóa bỏ chế độ HNGĐ tư sản, phong
kiến lạc hậu là không thể tránh khỏi.

4. Chế định ly hôn trong giai đoạn 1976 đến nay.
Giai đoạn này nước ta hoàn toàn giải phóng. Ngày 25/3/1976, Hội đồng chính
phủ đã đưa ra Nghị quyết 76/CP quy định về việc thực hiện thống nhất pháp luật
trong phạm vi cả nước, trong đó có Luật HNGĐ 1959. Việc áp dụng và thực hiện
Luật HNGĐ 1959 trong phạm vi cả nước ngoài nhiệm vụ xóa bỏ chế độ HNGĐ cũ
ở Miền Nam còn nhằm xây dựng gia đình mới XHCN ở nước ta.
Ngày 18/12/1980, tại kỳ họp thứ 7 Quốc Hội khóa VI đã chính thức thong qua
bản hiến pháp mới. Trong Hiến pháp 1980, các điều 38, 47, 63, 64 đã quy định
nguyên tắc của chế độ hôn nhân gia đình XHCN là cơ sở pháp lý cho việc xây
dựng luật HNGĐ mới. Và đến 29/12/1986 dự án Luật HNGĐ mới đã được Quốc
Hội khóa VII, kỳ họp thứ 12 chính thức thông qua và chính thức công bố vào
03/01/1987.
Luật HNGĐ 1986 gồm 57 điều, chia thành 10 chương dựa trên nguyên tắc
hôn nhân tự nguyện, tiến bộ một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng, bảo vệ cha
mẹ và con cái. Luật HNGĐ 1986 kế thừa và phát triển Luật HNGĐ 1959 góp phần
9


giải phóng phụ nữ, xây dựng gia đình XHCN thật sự dân chủ, hòa thuận, hạnh
phúc bền vững.
Tại chương 7 Luật HNGĐ 1986 quy định về ly hôn ( Điều 40 đến 45) về các
trường hợp ly hôn, về căn cứ ly hôn cơ bản giống luật HNGĐ 1959, chỉ có căn cứ

pháp lý duy nhất là khi vợ chồng ly hôn mà điều tra, hòa giải không thành, tòa án “
nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích
cuộc hôn nhân không đạt được thì tòa án xử lý ly hôn” ( Điều 40 luật HNGĐ 1986
và Điều 25, 26 luật HNGĐ 1959”.
Tuy nhiên, theo Luật HNGĐ 1986, thủ tục hòa giải được đặt ra và coi là thủ
tục pháp lý bắt buộc phải có trong việc giải quyết án kiện ly hôn, dù hai bên vợ
chồng thuận tình ly hôn hoặc chỉ có một bên yêu cầu.Phần giải quyết hậu quả pháp
lý của việc ly hôn, đặc biệt là các nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng thì
Điều 42 Luật HNGĐ 1986 quy định cụ thể , chi tiết hơn Điều 29 Luật HNGĐ
1959. Như vậy, chế định ly hôn trong Luật HNGĐ 1986 đã quy định khá đầy đủ
các quan hệ cần thiết, khá cụ thể so với Luật HNGĐ 1959. Tuy nhiên, những năm
gần đây tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước có nhiều biến đổi, nó đã
tác động đến các quan hệ HNGĐ. Do đó, các quy định của Luật HNGĐ 1986 khi
áp dụng không còn phù hợp với tình hình thực tế. Các trường hợp nảy sinh trong
xã hội cần điều chỉnh bằng pháp luật nhưng Luật HNGĐ 1986 chưa có quy định
như: Quan hệ HNGĐ giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giải quyết
xung đột pháp lý giữa các bên có yếu tố nước ngoài…Do đó, cần sữa đổi bổ sung
luật HNGĐ 1986 cho phù hợp.
Với những yêu cầu trên, ban soạn thảo luật HNGĐ được thành lập và Luật
HNGĐ được công bố 22/6/2000 có hiệu lực thi hành 1/1/2001. Đây được xem là
pháp luật quy định những vấn đề HNGĐ chính thức của nươc ta cho đến thời điểm
hiện nay. Trong đó, tại chương “ ly hôn” quy định:

10


+ Thứ nhất, về căn cứ ly hôn: T heo Luật HNGĐ 2000, thì căn cứ ly hôn là những
tình tiết, điều kiện cần thiết để cho ly hôn. Qua đó ta thấy, căn cứ ly hôn này không
dự vào yếu tố lỗi mà dựa vào bản chất quan hệ hôn nhân gồm: Tình yêu và trách
nhiệm của vợ chồng. Điều 89 Luật HNGĐ 2000 quy định có hai căn cứ ly hôn:

Một là, “ Tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của
hôn nhân không đạt được”. Như vậy, căn cứ ly hôn này rất khái quát vì ở mỗi cặp
vợ chồng tình trạng và mục đích không giống nhau, điều này sẽ gây khó khăn cho
các thẫm phán giải quyết. Ví dụ: có cặp vợ chồng cãi nhau suốt ngày lại cho rằng
không trầm trọng nhưng có cặp vợ chồng mới cãi nhau một vài lần lại cho rằng
trầm trọng về quan hệ HNGĐ và đòi ly hôn; Hai là, “ Khi một bên vợ chồng mất
tích” vì hôn nhân là sự kết hợp giữa nam và nữ một cách tự nguyện và giữa họ phải
thực hiện quyền và nghĩa vụ với nhau nên khi một bên mất tích 3 năm thì bên còn
lại được phép ly hôn.
+ Thứ hai, về các trường hợp ly hôn và đường lối giải quyết: Một là, trường hợp ly
hôn do một bên yêu cầu, tức chỉ có một bên vợ hoặc chồng thể hiện yêu cầu ly hôn
còn bên kia có thể thể hiện yêu cầu hoặc không thể hiện yêu cầu ly hôn. Trong
trường hợp này, đường lối giải quyết như sau: Sauk hi tòa án thụ lý đơn ly hôn sẽ
tiến hành hòa giải ( vì đây là thủ tục bắt buộc) nhằm hàn gắn quan hệ vợ chồng
một lần nữa. Trong hòa giải, nếu hòa giải không thành thì lập biên bản hòa giải
không thành, sau khi hòa giải lần 1, lần 2 không thành nhưng đến lần thứ 3 mà
thành thì tòa án vẫn không phải mở phiên tòa cho ly hôn. Nhưng nếu sau 3 lần hòa
giải vẫn không thành thì tòa án sẽ quyết định mở phiên tòa cho ly hôn. Khi mở
phiên tòa xét xử phải theo hai hướng: Thứ nhất, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn
nếu xét thấy đủ điều kiện ly hôn như : Quan hệ vợ chồng không thể tồn tại và mục
đích hôn nhân không đạt được thì phải cho ly hôn ( kể cả trường hợp một bên
không đồng ý ly hôn); Thứ hai, bác yêu cầu ly hôn của nguyên đơn nếu xét thấy
chưa đủ điều kiên ly hôn như : Tình trạng vợ chồng chưa đến mức trầm trọng để
tan vỡ hôn nhân;
11


Hai là, trường hợp ly hôn khi hai bên thuận tình ly hôn, tức cả hai vợ chồng
đều mong muốn trong đơn là được ly hôn. Cụ thể được thể hiện ở Điều 90 Luật
HNGĐ 2000 “ Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại tòa

án không thành, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và thỏa thuận về
việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì tòa án
công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận về tài sản và con trên cơ sở bảo vệ
quyền lợi chính đáng của vợ và con; nếu không thõa thuận được hoặc tuy có thõa
thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì tòa án quyết
định.” Trong trường hợp này thì đường lối giải quyết như sau : Tòa án tiến hành
hòa giải, nếu hòa giải thành thì tòa án sẽ không phải mở phiên tòa xét xử cho ly
hôn, nhưng nếu hòa giải không thành thì tòa sẽ xét mở phiên tòa theo hai hướng
như sau : Thứ nhất, ra quyết định thuận tình ly hôn nếu các bên thỏa thuận giải
quyết được về vấn đề con chung , tài sản chung thì tòa án sẽ ra quyết định thuận
tình ly hôn có chữ ký của thẫm phán; Thứ hai, nếu các bên không thể thỏa thuận
được về con chung và tài sản chung thì tòa án sẽ mở phiên tòa để giải quyết vấn đề
con chung, tài sản chung mà hai bên vợ chồng không thể giải quyết được, do đó,
tòa án sẽ ra bản án giải quyết.

III. Hậu quả pháp lý của việc ly hôn.
- Thứ nhất, về quan hệ nhân thân : Quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng
chấm dứt.
- Thứ hai, về quan hệ tài sản :
+ Về tài sản riêng, tài sản riêng thuộc về mỗi bên;
+ Về tài sản chung, nguyên tắc chia : Chia đôi nhưng có xem xét đến công sức
đóng góp, tình trạng tài sản; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ và con; bảo
vệ lợi ích chính đáng của các bên; chia bằng hiện vật hay chia bằng giá trị. Như
vậy, sẽ chấm dứt sở hữu chung hợp nhất.
12


- Quan hệ cấp dưỡng giữa vợ chồng : bên vợ hay chồng yêu cầu bên còn lại phải
cấp dưỡng cho mình khi đảm bảo điều kiện cần và đủ sau: bên yêu cầu có khó
khăn, yêu cầu và có lý do chính đáng và bên bị yêu cầu phải có khả năng cấp

dưỡng.
- Quan hệ giữa cha mẹ và con :
+ Đối với người trực tiếp nuôi con : chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì có thể
do hai bên vợ chồng thỏa thuận hoặc do tòa án quyết định ( khi vợ chồng không
thỏa thuận được) hoặc do sự tự nguyện của con ( đối với con đủ 9 tuổi trở lên). Tất
cả đều nhằm đảm bảo lợi ích của con.
+ Đối với người không trực tiếp nuôi con : Thứ nhất, có nghĩa vụ cấp dưỡng cho
con, mức cấp dưỡng theo chi phí tối thiểu cho nhu cầu của con, phương thức cấp
dưỡng theo thỏa thuận, nếu không sẽ theo định kỳ hàng tháng; thứ hai, quyền thăm
con ( có thể bị hạn chế).

IV. Giai pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của
pháp luật HNGĐ và đường lối xét xử các vụ việc ly hôn.
- Quy định rõ hơn về nội dung căn cứ ly hôn, như thế nào là “ tình trạng trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.
- Cần quy định vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng có quyền yêu cầu ly hôn khi
có “ lý do chính đáng”, bên cạnh đó nên quy định như thế nào là lý do chính đáng.
- Cần quy định rõ việc giao, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn; quyền và nghĩa vụ mỗi
bên trong vieevj thăm nom, nuôi dưỡng, giáo dục con nhằm đảm bảo về quyền lợi
mọi mặt của đứa trẻ.
- Cần quy định cụ thể các nguyên tắc thanh toán hoặc chia tài sản của vợ chồng khi
ly hôn, về vấn đề thừa kế hay vay mượn khi ly hôn. Đặc biệt chia nhà ở trong
trường hợp giải quyết quyền lợi về nhà ở đối với nhà đang thuê hay trường hợp nhà
13


ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng, chia quyền sở hữu đất của vợ chồng trong
trường hợp sống chung với gia đình mà ly hôn. Cần quy định các biện pháp đảm
bảo tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng trong trường hợp một bên vợ hoặc
chồng có hành vi phá tán tài sản ảnh hưởng tới lợi ích của vợ chồng và lợi ích của

gia đình.
- Ngày nay cùng với sự phát triển của giao lưu dân sự quốc tế, các quan hệ HNGĐ
nói chung cũng như ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng ngày càng xuất hiện
nhiều nên Luật HNGĐ cần dự liệu đầy đủ các trường hợp có yếu tố nước ngoài
trong các quan hệ hôn nhân gia đình nói chung và ly hôn nói riêng, theo từng
trường hợp định rõ việc áp dụng pháp luật nhằm giải quyết xung đột pháp luật.
- Cần có những cán bộ xét xử ( thẫm phán, hội thẫm nhân dân) có trình độ chuyên
môn cao. Vì vậy, cần thường xuyên bồi dưỡng kiến thức pháp lý mới cho họ,
không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và nắm bắt được các thong
tin pháp lý cần thiết phục vụ cho công tác xét xử, đồng thời đẩy mạnh công tác
tuyên truyền pháp luật trong cán bộ và nhân dân nhằm xây dựng ý thức pháp luật
và nâng cao dân trí.
- Vấn đề hôn nhân gia đình nói chung, ly hôn nói riêng là vấn đề phức tạp mang
tính chất đặc thù riêng biệt, ở nhiều nước trên thế giới đã thành lập tòa án HNGĐ.
Vì vậy, ở nước ta vấn đề thành lập tòa án HNGĐ theo em đến lúc phải nghiên cứu
làm rõ các cơ sở lý luận vàthực tiễn, trên cơ sở đó có những kiến nghị xác đáng.
Do đó, yêu cầu Nhà nước thành lập tòa HNGĐ.
- Cần quy định thêm một số quy định cần thiết về cuộc sống ly thân của vợ chồng
để điều chỉnh tình trạng ly thân ngày càng tăng ở nước ta. Vì ly thân là tiền đề của
ly hôn nên nó có thể phát triển theo hai hướng : Nếu phát triển theo hướng có lợi
thì khả năng vợ chồng đoàn tụ là rất lớn và ngược lại.
- Hoàn thiện đồng bộ đường lối xét xử cả về mặt lý luận và thực tiễn.
14


KẾT LUẬN
Trên đây là tất cả những gì phân tích của em về đề tài, tuy đã có nhiều cố
gắng, nỗ lực để hoàn thiện bài viết. Tuy nhiên, với sự hiểu biết về vấn đề ly hôn
nói riêng và hôn nhân gia đình nói chung còn nhiều hạn chế; đặc biệt, lĩnh vực về
hôn nhân và gia đình cũng rất phức tạp. Vì vậy, bài làm của em cũng không tránh

khỏi những vướng mắc, thiếu sót nên em rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp của các thầy cô để bài viết của em đươc hoàn thiên hơn. Em xin chân thành
cảm ơn.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giao trình luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. Nguyễn Văn cừ và Ngô Thị Hường, một số vấn đề lý luận và thực tiễn về luật
hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
3. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
4. Bộ dân luật Bắc Kỳ 1931; Bộ dân luật Trung Kỳ 1936; Bộ dân luật giản yếu
Nam Kỳ 1883.
5. Hiến Pháp 1946, 1959, 1980.
6. Nguyễn Văn Cừ, chế độ tài sản của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học luật Hà Nội.

16


PHỤ LỤC

17



×