Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

ĐỀ CƯƠNG NGUYÊN lý 1 THẾ GIỚI QUAN và PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT học của CHỦ NGHĨA mác – LÊNIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.28 KB, 30 trang )

ĐỀ CƯƠNG NGUYÊN LÝ 1 THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
TRIẾT HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
Câu 1. Vấn đề cơ bản của triết học. Triết học duy tâm, triết học duy vật. Triết
học nhất, nhị nguyên. Các hình thức cơ bản của triết học duy tâm và triết học
duy vật.
1. Vấn đề cơ bản của triết học
Trong tác phẩm “L.Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của Triết học cổ điển Đức”
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt là triết học
hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”.
Trong thế giới có vô vàn hiện tượng nhưng chung quy lại chúng ta chỉ phân làm hai
loại, một là, những hiện tượng vật chất (tồn tại, tự nhiên), hai là, những hiện tượng tinh
thần (tư duy, ý thức). Do vậy, vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được goi là
“vấn đề cơ bản lớn nhất” hay “vấn đề tối cao” của triết học. Việc giải quyết vấn đề này là
cơ sở, là điểm xuất phát để giải quyết mọi vấn đề khác của triết học.
Nội dung của vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt (hai phương diện):
Theo Mác - Ăngghen:“Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học
hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”
Vấn đề này gồm hai mặt:
- Mặt thứ nhất (bản thể luận) trả lời câu hỏi: giữa ý thức và vật chất ( tư duy và tồn
tại) thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào sinh ra cái nào, cái nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai (nhận thức luận) trả lời câu hỏi: con người có khả năng nhận thức thế
giới chung quanh hay không?
Thực chất vấn đề cơ bản của triết học đó là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức. Bởi vì:
- Vật chất và ý thức là hai hiện tượng rộng lớn nhất của đời sống con người
- Đây là vấn đề xuyên suốt trong mọi hệ thống triết học.
- Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nó là cơ sơ để phân định lập trường
triết học của các trường phái, các khuynh hướng, các hình thức của triết học.
2. Triết học duy tâm, triết học duy vật
- Triết học duy vật: Khi 1 triết gia cho rằng bản chất của thế giới là vật chất; vật
chất (tồn tại, tự nhiên) có trước , ý thức (tư duy, tinh thần) có sau; vật chất quyết định ý


thức thì triết gia đó được xem là 1 nhà duy vật. Học thuyết của họ hợp thành các môn phái
khác nhau của chủ nghĩa duy vật.
- Triết học duy tâm: Khi 1 triết gia cho rằng bản chất của thế giới là ý thức; ý thức
(tư duy, tinh thần) có trước, vật chất có sau; ý thức quyết định vật chất thì triết gia đó được
1


xem là 1 nhà duy tâm. Học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa
duy tâm.
3. Triết học nhất, nhị nguyên
- Triết học nhất nguyên: Khi giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết
học, thừa nhận 1 nguyên thể (hoặc là vật chất hoặc là ý thức) là nguồn gốc của thế giới.
Khi giải quyết mặt thứ 2 trong vấn đề cơ bản của triết học thừa nhận con người có khả
năng nhận thức thế giới.
- Triết học nhị nguyên: Khi giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết
học, thừa nhận vật chất và ý thức tồn tại hoàn toàn độc lập với nhau và thừa nhận cả 2
nguyên thể đều là nguồn gốc của thế giới. Khi giải quyết mặt thứ 2 trong vấn đề cơ bản của
triết học do không khẳng định được vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào nên họ phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con người. Quan
điểm của họ đa phần là hoài nghi.
4. Các hình thức cơ bản của triết học duy tâm và triết học duy vật
* Có 3 hình thức tồn tại và phát triển của CNDV là:
- Chủ nghĩa duy vật chất phác
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng
* Có 2 hình thức tồn tại và phát triển của CNDT là:
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan

Câu 2. Định nghĩa vật chất của Lênin. Các hình thức và phương thức tồn tại

của vật chất. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu các khái niệm trên
1. Vật chất
* Quan niệm trước C.Mác về vật chất
- Chủ nghĩa duy tâm: thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là 1 bản nguyên tinh
thần nào đó. Đó có thể là “ ý chí của Thượng đế”, “ý niệm tuyệt đối”.
- Chủ nghĩa duy vật cổ đại: đồng nhất vật chất nói chung với những dạng tồn tại cụ thể
của nó,.
Ví dụ: Talet = nước; Anaximen = không khí; Heraclit = lửa; Démocrite = nguyên tử;
Triết học Ấn Độ = đất, nước, lửa, gió; Thuyết Âm dương - Ngũ hành ở Trung Quốc = kim,
mộc, thủy, hỏa, thổ.
Quan niệm về vật chất thời kỳ cổ đại mang tính trực quan, cảm tính. Tuy nhiên,
nó chỉ có tác dụng chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo
- Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII đồng nhất vật chất với nguyên tử và khối
2


lượng. Niu – tơn cho rằng, khối lượng là vật chất.
Quan niệm về vật chất thời kỳ cận đại mang tính cơ học, máy móc, siêu hình.
* Quan niệm của triết học C.Mác về vật chất
Cả C.Mác và Ph.Ăngghen đều cho rằng, vật chất là cái tồn tại khách quan, độc lập
với ý thức con người. Thế giới vật chất luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng, ở đâu
có vật chất là có vận động và vận động không ngừng.
* Định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và
không lệ thuộc vào cảm giác”.
* Nội dung của định nghĩa:
- Vật chất là cái khách quan, tồn tại bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý
thức, bất kể sự tồn tại ấy đã được con người nhận thức hay chưa.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động

lên giác quan con người.
- Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
* Ý nghĩa của định nghĩa:
- Giải quyết triệt để hai mặt trong vấn đề cơ bản của triết học theo quan điểm của
CNDV biện chứng.
- Khắc phục triệt để những sai lầm, hạn chế của CNDV trước Mác về phạm trù vật
chất; bác bỏ, phủ nhận CNDT và tôn giáo về vấn đề vật chất.
- Tạo cơ sở cho các nhà triết học duy vật biện chứng xây dựng quan điểm vật chất
trong đời sống xã hội.
2. Phương thức, hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm của CNDV biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của vật
chất; không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
* Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
- Triết học Mác- Lênin khẳng định: vật chất không do ai sáng tạo ra và không thể bị
tiêu diệt, cho nên vận động với tính cách là phương thức tồn tại tất yếu của vật chất cũng
không thể bị mất đi hoặc sáng tạo ra. Thừa nhận sự tồn tại vĩnh cửu của vật chất, trên thực
tế cũng là thừa nhận tính vô sinh, vô diệt của vận động: Vật chất không thể tồn tại bằng
cách nào khác ngoài vận động. Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng chứng minh
một cách khoa học rằng vận động được bảo toàn cả mặt lượng lẫn mặt chất. Nếu một hình
thức vận động nào đó của 1 sự vật nhất định mất đi thì tất yếu sẽ nảy sinh ra 1 hình thức
vận động thay thế nó. Nghĩa là các hình thức vận động chỉ chuyển hóa lẫn nhau, chứ vận
động của vật chất nói chung thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất
- Các hình thức vận động của vật chất
3


Có 5 hình thức vận động cơ bản:
+ Vận động cơ giới : là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
+Vận động vật lý (thay đổi trạng thái vật lý): là vận động của phân tử, của các hạt cơ
bản, vận động của nhiệt, ánh sáng, điện, trường, âm thanh.

+ Vận động hóa học (thay đổi trạng thái hóa học): là sự vận động của các nguyên tử;
sự hóa hợp và phân giải của các chất.
+Vận động sinh vật: vận động của các cơ thể sống như sự trao đổi chất, đồng hóa, dị
hóa, sự tăng trưỏng, sinh sản, tiến hóa.
+Vận động xã hội: mọi hoạt động xã hội của con người; sự thay thế các hình thái
kinh tế -xã hội từ thấp đến cao.
- Vận động không ngừng của thế giới vật chất còn bao hàm trong nó hiện tượng đứng
im tương đối
+ Không có hiện tượng đứng im tương đối thì không có sự vật nào tồn tại được.
+ Hiện tượng đứng im tương đối hay là trạng thái cân bằng tạm thời của sự vật trong
quá trình vận động của nó, trên thực tế, chỉ xảy ra khi sự vật được xem xét trong một quan
hệ xác định nào đó.
+ Đứng im là một trạng thái vận động (vận động trong thăng bằng).
* Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
- Bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng chiếm 1 vị trí nhất định, ở vào 1 khung cảnh
nhất định trong tương quan về mặt kích thước so với các khách thể khác...Các hình thức
tồn tại như vậy của vật thể được gọi là không gian.
- Sự tồn tại của các khách thể vật chất còn được biểu hiện ở mức độ tồn tại lâu dài
hay mau chóng của các hiện tượng, ở sự kế tiếp trước sau của các giai đoạn vận động...
Những thuộc tính này của sự vật được đặc trưng bằng phạm trù thời gian.
- Không gian và thời gian có 3 tính chất:
+ Tính khách quan
+ Tính vĩnh cửu và vô tận
+ Tính 3 chiều của không gian và tính 1 chiều của thời gian
- Không gian và thời gian gắn bó mật thiết với nhau và gắn liền với vật chất; là
phương thức tồn tại của vật chất. Không có dạng vật chất nào tồn tại bên ngoài không gian
và thời gian. Cũng không có không gian và thời gian ngoài vật chất.
- Không gian và thời gian tồn tại khách quan vì đó là không gian và thời gian của vật
chất. Vì vật chất tồn tại vô cùng, vô tận nên không gian và thời gian của vật chất cũng tồn
tại vô cùng, vô tận. Chúng không mất đi mà chỉ chuyển từ không gian và thời gian của vật

này sang không gian và thời gian của vật khác.
3. Ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa vật chất của Lênin
- Định nghĩa vật chất của Lênin đã bao quát cả 2 mặt vấn đề cơ bản của triết học trên
lập trường duy vật biện chứng , thừa nhận trong nhận thức luận thì vật chất là tính thứ nhất
4


và con người có thể nhận thức được thế giới vật chất . Như vậy định nghĩa vật chất của
Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết , khắc phục được tính chất siêu hình, trực quan trong
các quan niệm về vật chất.
- Định nghĩa này chống lại các quan điểm duy tâm về vật chất , tạo cơ sở khắc phục
các quan điểm duy tâm về đời sống xã hội.
- Có vai trò định hướng cho sự phát triển của nhận thức khoa học.

Câu 3 Quan điểm của triết học Mác- Lênin vầ nguồn gốc, bản chất của ý thức. Mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ này
trong hoạt động nhận thực và thực tiễn
1. Nguồn gốc của ý thức
* Nguồn gốc tự nhiên:
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là 1 thuộc tính của vật chất
nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của 1 dạng vật chất sống có
tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức
năng của bộ óc người. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động thần
kinh sinh lý của thần kinh của bộ óc người. Ý thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động
sinh lý thần kinh của bộ óc người.
- Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên
ngoài để bộ óc phản ánh lại những tác động đó thì cũng không thể có ý thức. Phản ánh là
sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong
quá trình tác động qua lại của chúng.
- Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy sinh ở giai

đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người. Ý thức bắt
nguồn từ 1 thuộc tính của vật chất - thuộc tính phản ánh - phát triển thành.
Như vậy, bộ óc người cũng với thế giới bên ngoài tác động lên nó – đó chính là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
* Nguồn gốc xã hội:
- Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề , nguồn gốc xã hội.
Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và quan
hệ xã hội.
- Chính nhờ lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người mới có thể
phản ánh được thế giới khách quan, mới có ý thức về thế giới đó.
- Quá trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động chủ động của con người. Con
người có ý thức vì chính vì con gnười chủ động tác động vào thế giới thông qua hoạt động
thực tiễn để cải tạo thế giới. Ý thức con người được hình thành thông qua hoạt động thực
tiễn của con người.
- Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là hệ thống
tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại
5


được. Ý thức không phải là hiện tượng thuần túy cá nhân mà là một hiện tượng có tính chất
xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể
hình thành và phát triển được.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển
của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội.
2. Bản chất của ý thức
- Ý thức là sự phản ánh hiện thực khác quan vào bộ óc con người một cách năng
động và sáng tạo.
- Ý thức là sự phản ánh, là cái phản ánh; còn vật chất là cái được phản ánh. Cái được
phản ánh (vật chất) tồn tại khách quan, ở ngoài và độc lập với cái phản ánh (ý thức). Vì
vậy không thể đồng nhất hoặc tách rời ý thức với vật chất.

- Ý thức là của con người mà con người là 1 thực thể xã hội năng động sáng tạo. Ý
thức phản ánh thế giới khách quan trong quá trình con gnười tác động cải tạo thế giới. Do
đó, ý thức con người là sự phản ánh có tính năng động sáng tạo
- Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt:
+ Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh
+ Hai là, mô hình hóa đôi tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
+ Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan ( tức là quá trình hiện thực
hóa tư tưởng thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái hiện thực, biến
cái ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực).
- Phản ánh và sáng tạo là 2 mặt thuộc bản chất của ý thức. Ý thức trong bất cứ trường
hợp nào cũng là sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Trong mối quan hệ này, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của
ý thức, quyết định ý thức, song ý thức không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở
lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
* Vai trò của vật chất đối với ý thức
Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức
vì:
+ Vật chất quyết định ý thức bởi vì bộ não của con người là dạng vật chất có tổ chức
cao nhất và chỉ có duy nhất ở con người. Đó là cơ quan phản ánh cho ra đời ý thức là 1
dạng biểu hiện của vật chất đồng thời các yếu tố tạo thành nguồn gốc ra đời của ý thức
hoặc là chính thế giới vật chất, tất cả các yếu tố đó đều thuộc về dạng vật chất.
+ Sự phản ánh của ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo hiện thực khách quan, là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Thế giới khách quan quyết định nội dung và
hình thức biểu hiện của ý thức. Quá trình phản ánh của ý thức chịu tác dộng của các quy
luật tự nhiên, xã hội và điều kiện sinh hoạt vật chất của con người. Như vậy vật chất quyết
định ý thức
6



* Vai trò của ý thức đối với vật chất
Ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
+ Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất phải thông qua lao động thực tiễn của
con người bởi vì thông qua lao động của con ngừoi khi tác động vào thế giới khách quan
đã làm cho thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những quy luật từ đó con người
có thể nhận thưc dễ dàng hơn các sự vật hiện tượng trong thế giới đó, đồng thời trong quá
trình phản ánh thế giới khách quan, thế giới khách quan đã được cải biến đi thông qua cơ
quan cảm giác của con người thông qua lăng kính chủ quan của con người.
+ Ý thức tác động trở lại vật chất theo 2 hướng, nếu ý thức phản ánh đúng đắn hiện
thực khách quan thì sẽ cung cấp cho con người những tri thức đúng đắn giúp con người
xây dựng phương hướng kế hoạch đạt hiệu quả; ngược lại nếu ý thức không phản ánh đầy
đủ thế giới khách quan thì tri thức mang lại là sai lầm nó sẽ làm cho con người xây dựng
phương hướng kế hoạch mục đích sai lầm.
4. Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn
trọng khách quan, đồng thời thấy được tính năng động sáng tạo của ý thức phát huy vai
trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực sáng tạo của ý thức

Câu 4 Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của của nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
* Nội dung
- Liên hệ là phạm trù triết học chỉ sự quy định, sự tác động qua lại lẫn nhau, sự phụ
thuộc lẫn nhau, sự ảnh hưởng, sự tương tác và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng trong thế giới hay giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính của sự vật, hiện tượng, 1
quá trình.
- Mối liên hệ có vai trò làm cơ sở cho sự tồn tại; làm điều kiện cho sự vật bộc lộ
thuộc tính của mình (bởi lẽ thông qua mối liên hệ với các sự vật khác thì sự vật mới bộc lộ
thuộc tính).
- Liên hệ phổ biến là khái niệm nói lên rằng mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới ( cả

tự nhiên, xã hội và tư duy) dù đa dạng, phong phú, nhưng đều nằm trong mối liên hệ với
các sự vật, hiện tượng khác; đều chịu sự chi phối, tác động, ảnh hưởng của các sự vật,hiện
tượng khác.
- Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất cảu thế giới. Bởi lẽ, dù
các sự vật trong thế giới đa dạng đến đâu thì cũng chỉ là hình thức tồn tại cụ thể của vật
chất. Cho nên chúng đều chịu sự chi phối của quy luật vật chất. Ngay cả ý thức, tinh thần
cũng chỉ là thuộc tính của 1 dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người. Do vậy, ý thức,
tinh thần cũng bị chi phối bởi quy luật vật chất. Vì vậy chính tính thống nhất vật chất của
thế giới đã làm cho mọi sự vật, hiện tượng có mối liên hệ với nhau.
7


- Các tính chất của mối liên hệ:
+ Tính khách quan
+ Tính phổ biến
+ Tính đa dạng phong phú
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích về sự vật phải đặt nó trong mối
quan hệ với sự vật khác. Đồng thời phải nghiên cứu tất cả những mặt, những yếu tố, những
mối liên hệ vốn có của nó. Qua đó để xác định những mối liên hệ bên trong, bản chất...để
từ đó nắm được bản chất, quy luật của sự vật và hiện tượng.
- Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi khi nghiên cứu sự vật phải thấy sự tồn tại vận
động và phát triển của bản thân các sự vật và hiện tượng là 1 quá trình có tính giai đoạn,
tính lịch sử cụ thể. Cho nên khi phân tích tính toàn diện về các mối liên hệ của sự vật phải
đặt nó trong mối quan hệ cụ thể, với những điều kiện lịch sử cụ thể của các mối quan hệ
đó.
2. Nguyên lý về sự phát triển
* Nội dung
- Phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

- Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là mâu thuẫn
trong bản thân sự vật. Quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn đó quy định sự vận
động, phát triển của sự vật.
- Phát triển là 1 trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển sẽ
nảy sinh tính quy định mới cao hơn về chất. Nhờ vậy làm tăng khả năng hoàn thiện về : cơ
cấu tổ chức; về phương thức tồn tại và vận động; về chức năng vốn có của sự vật.
- Phát triển là quá trình vận động phức tạp, quanh co, bao gồm cả sự thụt lùi tương
đối, nhưng xu hướng chung là vận động đi lên.
- Phát triển diễn ra theo xu hướng đường xoáy ốc, nghĩa là trong quá trình phát triển
dường như có sự quay lại điểm xuất phát nhưng trên cơ sở cao hơn. Phát triển diễn ra theo
cách thức đứt đoạn trong liên tục, nghĩa là từ sự tích lũy về lượng dẫn tới thay đổi về chất,
rồi từ sự thay đổi về chất tác động trở lại sự thay đổi về lượng. Cứ như vậy, phát triển diễn
ra 1 cách khách quan, tự thân, vốn có của sự vật.
- Tính chất của sự phát triển:
+ Tính khách quan
+ Tính phổ biến
+ Tính đa dạng, phong phú

8


* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Khi xem xét sự vật hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, phát triển, phải phát
hiện ra các xu hướng biến đổi chuyển hóa của chúng.
- Phát triển đồi hỏi phải nắm vững các nguyên tắc tích lũy về lượng để thay đổi về
chất, giải quyết triệt để bên trong; đồng thời phải kế thừa, chọn lọc cái cũ, ủng hộ cho sự ra
đời cái mới non nớt, nhỏ bé.
- Sự phát triển của sự vật, hiện tượng không diễn ra theo đường thẳng tắp mà quanh
co phức tạp, thậm chí thụt lùi, vì thế đứng trước thất bại không được nản chí, mà cần có cái
nhìn đúng đắn khách quan để tìm ra nguyên nhân cải tạo cái cũ, mở đường cho cái mới.

- Khắc phục những sai lầm, nóng vội, chủ quan, duy ý chí , thủ tiêu mâu thuẫn, dung
hòa mâu thuẫn , phủ định sạch trơn trong quá trình xem xét cái cũ mở đường cho cái mới.
Câu 5. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi
về chất và ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận
* Khái niệm
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật
và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải cái
khác.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật biểu thị số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như các
thuộc tính của nó.
* Mối quan hệ biện chứng
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Trong quá trình vận động và
phát triển, chất và lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi của lượng và của chất không
diễn ra độc lập với nhau, trái lại, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng không phải
bất kỳ sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản chất của sự vật.
Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn
bản chất của sự vật đó. Sự thay đổi của lượng chưa dẫn tới sự thay đổi của chất trong
những giới hạn nhất định. Vượt quá giới hạn đó sẽ làm cho sự vật không còn là nó, chất cũ
mất đi, chất mới ra đời.
Khuôn khổ mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất của sự vật,
được gọi là độ.
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là
khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của
9


sự vật.
VD: Khi xét các trạng thái khác nhau của nước trong khoảng nhiệt độ từ 0 0C đến
1000C, bản chất của nước vẫn không thay đổi (xét về cấu tạo chất). Khoảng nhiệt độ từ 0 0C

đến 1000C là độ.
Điểm nút là điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi chất của
sự vật.
Trong ví dụ trên, nếu coi trạng thái của nước là chất thì 00C và 1000C là điểm nút.
Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ
dẫn đến sự ra đời chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng.
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa về chất của
sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra.
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút. Sau khi
ra đời, chất mới tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Chất mới có thể làm thay đổi quy
mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật đó.
Nội dung cơ bản của quy luật lượng - chất như sau:
Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần
về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông
qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa thay đổi về lượng và thay đổi về
chất chúng ta sẽ rút ra được ý nghĩa phương pháp luận quan trọng cho hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn.
- Vì bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong
tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, do đó trong nhận thức và
thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng, tạo nên sự
nhận thức toàn diện về sự vật, hiện tượng.
- Vì những thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng có khả năng tất yếu chuyển hóa
thành những thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng và ngược lại, do đó trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất;
đồng thời có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự
vật, hiện tượng.
- Sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của sự vật, hiện

10


tượng với điều kiện lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm nút, do đó trong công tác
thực tiễn cần khắc phục tư tưởng nôn nóng, tả khuynh. Tả khuynh chính là hành động bất
chấp quy luật, chủ quan, duy ý chí, không tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện
những bước nhảy liên tục về chất.
- Mặt khác, theo tính tất yếu quy luật thì khi lượng đã được tích lũy đến giới hạn
điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất của sự vật, hiện tượng, vì thế
cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, hữu khuynh trong công tác thực tiễn. Hữu
khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không dám thực hiện bước nhảy mặc dù
lượng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát triển chỉ đơn thuần là sự tiến hóa về
lượng.
- Vì bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú, do vậy trong
nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho
phù hợp với từng điều kiện, từng lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt, trong đời sống xã hội quá trình
phát triển không chỉ phụ thuộc vào yếu tố khách quan, mà con phụ thuộc vào nhân tố chủ
quan của con người. Do đó cần phải nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc
đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách hiệu quả nhất.

Câu 6 Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Ý nghĩa phương
pháp luận
* Khái niệm
- Mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các
mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tương, hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
- Mặt đối lập là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những đặc điểm, những
thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại 1cách
khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Các tính chất chung của mâu thuẫn:
+ Tính khách quan

+ Tính phổ biến
+ Tính đa dạng, phong phú
* Mối quan hệ biện chứng
- Hai mặt đối lập có thuộc tính bài trừ, phủ định nhau nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ
với nhau, chúng đồng thời tồn tại.
- Hai mặt đối lập trong sự vật tồn tại trong sự thống nhất của chúng. Sự thống nhất của
các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt đối lập, sự tồn tại
11


của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
- Do có sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn, đến
1 lúc nào đó, mặt đối lập này có thể chuyển hóa sang mặt đối lập kia - khi xét về 1 vài đặc
trưng nào đó
- Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của
chúng.
- Tồn tại trong 1 thể thống nhất, 2 mặt đối lập luôn luôn tác động qua lại với nhau,
“đấu tranh” với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng
bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
- Sự thống nhất có quan hệ hữu cơ với sự đứng im, sự ổn định tạm thời của sự vật . Sự
đấu tranh có mối quan hệ gắn bó với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó
có nghĩa là sự thống nhất của các mặt là tương đối, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là
tuyệt đối.
- Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính
thay đổi. Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay
đổi của sự vật . Do vậy, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
Thực chất quy luật thống nhất và đáu tranh giữa các mặt đối lập như sau:
Mọi sự vật và hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối
lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất

đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, đọng lực của sự
vận động và phát triển , do vậy trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trong mâu thuẫn,
phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận
động và phát triển.
- Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi. Cho nên, chúng ta
không được giải quyết mâu thuẫn 1 cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện; cũng không để
việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra tự phát.
- Mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh. Đối với các mâu thuẫn khác
nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau.

Câu 7. Quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa phương pháp luận
* Khái niệm
12


- Phủ định nói chung là sự bài trừ, bác bỏ sự vật nhất định nào đó. Nói cách khác,
phủ định là một quá trình vận động trong đó sự vật, hiện tượng này được thay thế bởi sự
vật, hiện tượng khác (đây là sự biến đổi nói chung).
- Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu
trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, cái tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.
- Phủ định biện chứng gồm hai đặc trưng sau đây:
+ Tính khách quan: là điều kiện của sự phát triển. Phủ định biện chứng là sự tự thân
phủ định, là kết quà giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật tồn tại khách quan
+ Tính kế thừa: là nhân tố liên hệ giữa cái cũ và cái mới. Đây là đặc trưng cơ bản
nhất của phủ định biện chứng. Phủ định biện chứng là quá trình cái mới ra đời phủ định cái
cũ, nhưng cái mới chỉ phủ định mặt lạc hậu, lỗi thời của cái cũ, đồng thời kế thừa những
giá trị của cái cũ. Do đó, phủ định biện chứng là sự phủ định nhưng đồng thời cũng là sự
khẳng định.

*Mối quan hệ biện chứng
- Phủ định của phủ định là khái niệm nói lên rằng sự vận động, phát triển của sự vật
thông qua 2 lần phủ định biện chứng, dường như quay lại điểm xuất phát ban đầu nhưng
cao hơn.
- Phủ định lần thứ 1 làm cho sự vật cũ trở thành cái đối lập của mình. Sau những lần
phủ định tiếp theo, đến 1 lúc nào đó sẽ dẫn đến sự ra đời sự vật mới mang nhiều đặc trưng
giống với sự vật ban đầu (xuất phát). Như vậy về hình thức là trở lại cái ban đấu song
không phải giống nguyên như cũ, dường như lập lại cái cũ nhưng cao hơn.
VD: hạt ngô (cái ban đầu khẳng định) - cây ngô (phủ định lần 1 - đối lập với hạt ngô - cái
xuất phát) - bắp ngô (phủ định lần 2 - phủ định của phủ định).
- Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc 1 chu kỳ phát triển, đồng thời lại là
sự xuất phát của 1 chu kỳ tiếp theo, tạo ra đường xoáy ốc của sự phát triển. Mỗi đường mới
của đường xoáy ốc thể hiện 1 trình độ cao hơn của sự phát triển. Sự nối tiếp nhau của các
vòng xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển.
Nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định
Quy luật này nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái bị phủ định và cái phủ định;
do có sự kế thừa đó, phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ
tất cả sự phát triển trước đó, mà là điều kiện cho sự phát triển, nó duy trì và giữ gìn nội
dung tích cực của các giai đoạn trước,lập lại 1 số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát,
nhưn trên cơ sở mới cao hơn; do vậy sự phát triển có tính chất tiến lên không phải theo
đường thẳng, mà theo đường xoáy ốc.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần chống thái độ phủ định sạch trơn cái
cũ. Đồng thời cần phải biết sàng lọc những gì tích cực của cái cũ.
- Chống thái độ hư vô chủ ngĩa, đồng thời chống thái độ bảo thủ, khư khư giữ lại
13


những cái lỗi thời cản trở sự phát triển của lịch sử
- Sự phát triển không phải là đường thẳng hay vòng tròn khép kín mà là đường xoáy

ốc đi lên. Nghĩa là có nhiều khó khăn, phức tạp trong quá trình vận động, phát triển.

Câu 8 Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng và cái đơn nhất. Ý
nghĩa phương pháp luận
* Khái niệm
- Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá
trình riêng lẻ nhất định.
- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung
không những chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định mà còn được lặp lại trong nhiều sự
vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
- Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những nét, những mặt, những
thuộc tính chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định nhất định và không được lặp lại ở bất kỳ
một kết cấu vật chất nào khác.
* Mối quan hệ biện chứng
- Cái chung, cái riêng, cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên
hệ hữu cơ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ:
+ Cái chung chỉ tồn tai trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại
của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng.
+ Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có cái riêng
nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung.
+ Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ phận
nhưng là cái sâu sắc hơn cái riêng (ta nói cái chung là bộ phận của cái riêng nhưng đây là
bộ phận có tính chất bản chất chứ không phải là bộ phận hợp thành của cái riêng, nó được
xác định trong mối quan hệ cụ thể).
+ Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá cho nhau trong quá trình phát triển
của sự vật.
+). Sự chuyển hoá của cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của của quá trình
cái mới ra đời thay thế cái cũ
+). Sự chuyển hoá của cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của cái cũ, cái lỗi
thời bị phủ định.

* Ý nghĩa phương pháp luận
- Cần phải nhận thức cái chung để vận dụng vào cái riêng. Muốn nắm được cái
chung thì cần phải xuất phát từ những cái riêng bởi cái chung tồn tại trừu tượng ngoài
những cái riêng.
- Cần phải cụ thể hóa cái chung trong mỗi điều kiện, hoàn cảnh cụ thể; khắc phục
14


bệnh giáo điều, siêu hình, máy móc cục bộ,địa phương trong vận dụng mỗi cái chung
không tồn tại trừu tượng, ngoài những cái riêng
- Cần vận dụng các điều kiện thích hợp cho sự chuyển hóa giữa cái đơn nhất và cái
chung thao những mục đích nhất định

Câu 9 Mối quan hệ biện chứng giữa giữa nguyên nhân và kết quả. Ý nghĩa
phương pháp luận
* Nội dung
- Nguyên nhân là phạm trù dùng để sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong 1 sự
vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây ra những biến đổi nhất định
- Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau
của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
- Các tính chất của mối liên hệ nhân quả
+ Tính khách quan
+ Tính tất yếu
+ Tính phổ biến
* Mối quan hệ biện chứng
- Nguyên nhân sản sinh ra kết quả
+ Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết
quả, được sản sinh ra kết quả. Còn kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và
bắt đầu tác động. Tuy nhiên, không phải mọi sự tiếp nối nhau về thời gian đều là quan hệ
nhân quả. Cái phân biệt liên hệ nhân - quả với liên hệ nối tiếp nhau về mặt thời gian chính

là ở chỗ: giữa nguyên nhân và kết quả còn có mối quan hệ sản sinh, quan hệ trong đó
nguyên nhân sinh ra kết quả.
+ Thực tiễn cho thấy cùng 1 nguyên nhân có thể gây nên nhiều kết quả khác nhau
tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, 1 kết quả có thể gây nên bởi những nguyên
nhân khác nhau tác động riêng lẻ hay tác động cùng 1 lúc.
+`Khi các nguyên nhân tác động lên cùng 1 lúc sự vật thì hiệu quả tác động của
từng nguyên nhân tới kết quả sẽ khác nhau tùy thuộc vào hướng tác động của nó. Nếu các
nguyên nhân tác động lên sự vật theo cùng 1 hướng thì chúng sẽ gây nên ảnh hưởng cùng
chiều với sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên
sự vật theo các hướng khác nhau thì chúng sẽ làm suy yếu, thậm chí hoàn thành triệt tiêu
các tác dụng của nhau.
- Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân: Sau khi xuất hiện, kết quả
không giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân, trái lại nó ảnh hưởng tích cực trở lại đối
với nguyên nhân
- Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ
khác lại là kết quả; và ngược lại.
* Ý nghĩa phương pháp luận
15


- Muốn cho hiện tượng đó xuất hiện cần tạo nguyên nhân cùng những điều kiện cho
nguyên nhân đó phát huy tác dụng. Ngược lại, muốn cho hiện tượng nào đó mất đi thì phải
làm mất nguyên nhân tồn tại của nó.
- Phải biết xác định đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề nảy sinh vì các nguyên
nhân có vai trò không như nhau.
- Nguyên nhân có thể tác động trở lại kết quả do đó, trong hoạt động thực tiễn cần
khai thác, tận dụng những kết quả đã đạt được để thúc đẩy nguyên nhân tác động theo
hướng tích cực.

Câu 10. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về bản chất của nhận thức. Về

thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Ý nghĩa phương pháp luận
của vấn đề này.
* Bản chất của nhận thức
Nhận thức là 1 quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách
quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới
khách quan.
Đó là quan điểm duy vật biện chứng về nhận thức. Quan điểm này xuất phát từ
những nguyên tắc cơ bản sau:
- Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài con người, độc lập
đối với cảm giác, tư duy và ý thức con người.
- Hai là, thừa nhận năng lực nhận thức thế giới của con người. Về nguyên tắc không
có cái cái gì là không thể biết. Dứt khoát là không có và không thể có đối tượng nào mà
con người không thể biết được, chỉ có những cái hiện nay con người chưa biết, nhưng
trong tương lai với sự phát triển của khao học và thực tiễn, con người sẽ biết được.
- Ba là, nhận thức không phải là 1 hành động tức thời, giản đơn, máy móc và thụ
động mà là 1 quá trình biện chứng, tích cực, sáng tạo. Quá trình nhận thức diễn ra theo con
đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
Đó cũng là quá trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến
bản chất sâu sắc hơn.
- Bốn là, cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất cảu nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn còn là
mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của nhận thức.
* Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của
con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
+ Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức: Con người quan hệ với thế giới
không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động
thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con ngườiđược hình thành và phát triển. Thực tiễn
cung cấu những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp
16



đối với người này hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khác, ở trình độ kinh ngiệm hay lý
luận xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
+ Thực tiễn là động lực của nhận thức: Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và
phương thức phát triển của nhận thức. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải
tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó thúc đấy sự ra đời và phát triển của các ngành
khoa học.
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Nhận thức phải quay về phục vụ thực tiễn.
Kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực
sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức: Tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối vừa
có tính tương đối. Tiêu chuẩn thực tiễn cso tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách
quan để kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được nhận
thức được chân lý. Thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên 1 chỗ
mà biến đổi và phát triển; thực tiễn là 1 quá trình và được thuẹc hiện bởi con người nên
không tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên, cơ sở thực tiễn, đi sâu vào
thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn.
- Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời
thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu.
Đồng thời không tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và kinh
nghiệm chủ nghĩa.

Câu 11. Phân tích luận điểm “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng
và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận
thức chân lý, nhận thức thực tại khách quan”. Ý nghĩa phương pháp luận của
luận điểm trên?
Lênin đã chỉ ra con đường biện chứng của nhận thức chân lý thành luận điểm “

Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn,
đó là con đường biện chứng cảu sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại
khách quan”.
Con đường của sự nhận thức chân lý là 1 quá trình. Quá trình đó bắt đầu từ
“trực quan sinh động” (nhận thức cảm tính) đến “tư duy trừu tượng” (nhận thức lý
tính) và
* Giai đoạn từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng (từ nhận thức
17


cảm tính đến nhận thức lý tính).
Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính) là giai đoạn mở đầu của quá trình
nhận thức. Là sự phản ánh trực tiếp các sự vật, hiện tượng khách quan, mang tính
chất cụ thể, với những biểu hiện phong phú của nó trong mối quan hệ với sự quan
sát của con người thông qua các giác quan. Giai đoạn này nhận thức được thực hiện
qua 3 hình thức cơ bản: cảm giác, tri giác, biểu tượng.
Cảm giác là hình thứ đầu tiên, đơn giản nhất của nhận thức cảm tính, được nảy
sinh do sự tác động trực tiếp của khách thể lên giác quan của con người. Cảm giác là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nó là cơ sở hình thành nên tri giác.
Tri giác là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về biểu hiện cảu sự
vật, hiện tượng khách quan, cụ thể, cảm tính, được hình thành trên cơ sở liên kết,
tổng hợp những cảm giác về sự vật, hiện tượng.
Biểu tượng là sự tái hiện hình ảnh về sự vật, hiện tượng khách quan vốn đã
được phản ánh bởi cảm giác và tri giác; nó là hình thức phản ánh cao nhất và phức
tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính, đồng thời nó cũng chính là bước quá độ
từ giai đoạn nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính.
Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính) đó là giai đoạn cao hơn của quá trình
nhận thức. Đó là sự phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính,
những đặc điểm bản chất của sự vật, hiện tượng khách quan. Nhận thức lý tính được
thực hiện thông qua 3 hình thức cơ bản là: khái niệm, phán đoán, suy lý.

Khái niệm là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, phản ánh những đặc tính
bản chất của sự vật, hiện tượng; là kết quả cảu sự khái quát, tổng hợp biện chứng các
đặc điểm, thuộc tính cảu sự vật, hiện tượng; là cơ sở hình thành nên những phán
đoán.
Phán đoán là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, được hình thành thông
qua việc liên kết các khái niệm với nhau theo phương thức khẳng định hay phủ định
một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng nhận thức.
Suy lý là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, đuwọc hình thành trên cơ sở
liên kết các phán đoán nhằm rút ra tri thức mới về sự vật, hiện tượng.
* Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính với thực tiễn.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là 2 giai đoạn, 2 cấp độ cảu chu trình
18


nhận thức thống nhất. Nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với tác động của
khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính, nhờ có tính
khái quát cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh
động của sự vật, hiện tượng giúp cho nhận thức cảm tính có được sự định hướng
đúng và trở nên sâu sắc hơn.
Có thể thấy quy luật chung, có tính chu kỳ lặp đi lặp lại của quá trình vận động,
phát triển của nhận thức là: thực tiễn đến nhận thức - từ nhận thức trở về với thực
tiễn - từ thực tiễn tiếp tục quá trình phát triển nhận thức... Quá trình này lặp đi lặp
lại, không có điểm dừng cuối cùng, trình độ nhận thức và thực tiễn ở chu kỳ sau
thường cao hơn chu kỳ trước, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt tới những tri thức
ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về thực tại khách quan. Đây cũng
chính là quan điểm về tính tương đối của nhận thức của con người trong quá trình
phản ánh thực tế khách quan.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong
hoạt động nhận thức con người phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân lý, coi

chân lý là một quá trình, đồng thời phải thường xuyên tự giác vận dụng chân lý vào
hoạt động thực tiễn để phát triển thực tiễn.
Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào
các hoạt động kinh tế xã hội, nâng cao hiệu quả của hoạt động thực tiễn của con
người. Về thực chất đó chính là việc phát huy vai trò của chân lý khoa học trong
hoạt động thực tiễn.

Câu 12 Khái niệm sản xuất vật chất, phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực
lượng sản xuất. Ý nghĩa của việc nắm vững quy luật này trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta hiện nay
1. Khái niệm
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động (trực
tiếp hoặc gián tiếp) vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra
19


của cải xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển - nhu cầu phong phú và vô tận
của con người.
Phương thức sản xuất là những cách thức mà con người sử dụng để tiến hành quá
trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định.
Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành sức
mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn, phát triển của con người.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản
xuất.
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất
* Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với sự hình thành và biến đổi của quan hệ
sản xuất
- Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ kỹ
năng, kinh nghiệm của người lao động, trình độ ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản

xuất...ứng với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của nó. Trình độ của lực lượng sản
xuất quyết định quan hệ sản xuất. Điều này thế hiện ở chỗ:
+Thứ nhất, xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và phát triển.
Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất
mà trước hết là công cụ lao động. Từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất này mà quan hệ
sản
xuất
phải
biến
đổi
theo
cho
phù
hợp.
+ Thứ hai, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, nó luôn luôn vận
động và biến đổi trong quá trình lịch sử. Lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản xuất
là hình thức xã hội của quá trình sản xuất. Sự biến đổi trong lực lượng sản xuất (nội dung)
sớm muộn cũng kéo theo sự biến đổi trong quan hệ sản xuất (hình thức).
+ Thứ ba, sự phát triển của lực lượng sản xuất đến trình độ nào đó nhất định làm
cho quan hệ sản xuất trở nên không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất nữa. Khi
ấy, xuất hiện mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn này tất
yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao của nó là cách mạng xã hội nhằm phá bỏ
"xiềng xích trói buộc" lực lượng sản xuất để xác lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính
chất

trình
độ
của
lực
lượng

sản
xuất.
* Tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Mặc dù bị quyết định bởi lực lượng sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất có tính độc
lập tương đối so với lực lượng sản xuất. Vì vậy, quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại lực
lượng sản xuất. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra
theo
2
xu
hướng:
+ Thứ nhất, nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng thì sẽ thúc đẩy
lực
lượng
sản
xuất
phát
triển.
+ Thứ hai, nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất
20


(hoặc là lạc hậu, hoặc là vượt trước quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất) thì sẽ
kìm
hãm
sự
phát
triển
của
lực
lượng

sản
xuất.
Sự phù hợp (được quan niệm là sự phù hợp biện chứng chứa đựng mâu thuẫn), tức là
sự
phù
hợp
trong
mâu
thuẫn,
bao
hàm
mâu
thuẫn.
Tiêu chí của sự phù hợp được biểu hiện thông qua sự tác động biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất và được thể hiện cụ thể là năng suất lao động tăng;
người lao động hăng hái sản xuất; đời sống của người lao động được nâng cao; môi trường
làm việc được cải thiện; lực lượng sản xuất phát triển, v.v.
Sự tác động của quan hệ sản xuất tới lực lượng sản xuất còn được thể hiện ở chỗ,
quan hệ sản xuất quy định mục đích của nền sản xuất. Trên cơ sở đó tác động đến thái độ
của người lao động, tới tính tích cực ứng dụng khoa học, kỹ thuật hay cải tiến công cụ lao
động, v.v của người lao động. Từ đó tác động tới lực lượng sản xuất.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là
quy luật chung nhất chi phối toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Quy luật này làm cho lịch
sử là một dòng chảy liên tục song mang tính gián đoạn. Trong từng giai đoạn lịch sử cụ
thể, quy luật này có những biểu hiện đặc thù của nó.
3. Ý nghĩa trong việc nắm vững quy luật này trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
- Phát triển lực lượng sản xuất: công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng lực lượng sản
xuất tiên tiến. Coi trọng yếu tố con người trong lực lượng sản xuất.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm phát huy mọi tiềm năng vốn có của lực

lượng sản xuất ở nước ta.
- Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Phát huy vai trò chủ đạo
của thành phần kinh tế nhà nước. Nâng cao sự quản lý của Nhà nước đối với các thành
phần kinh tế; đảm bảo các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Câu 13. Khái niệm cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng. Mối quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Ý nghĩa của việc nắm vững
quy luật này trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay
* Khái niệm
- Cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó
- Kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ hệ thống các hình thái ý thức xã hội
(chính trị, đạo đức, pháp quyền, tôn giáo, khoa học, nghệ thuât...) cùng với thiết chế chính
trị - xã hội tương ứng , được hình thành trên 1 cơ sở hạ tầng nhất định.
*Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
21


- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
+ Mỗi cơ sở hạ tầng hình thành nên 1 kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó
+ Tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định tính chất kiến trúc thượng tầng
+ Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào giữa địa vị thống trị về kinh tế thì cũng giữ
địa vị thống trị trong nền kinh tế thì cũng giữ địa vị thống trị trong kiến trúc thượng tầng,
trong đời sống chính trị, tinh thần. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quy định tính chất mâu
thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng,
+ Sự biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi căn bản của kiến trúc
thượng tầng. Điều này thể hiện rất rõ khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì sớm hay muộn, ít hay
nhiều kiến trúc thượng tầng cũ do nó sinh ra cũng mất theo, khi cơ sở hạ tầng mới ra đời
thì kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó sẽ xuất hiện.
+ Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến dự thay đổi của kiến trúc thượng tầng rất

phức tạp. Có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng sự thay
đổi của cơ sở hạ tầng như quan điểm chính trị, pháp luật. Nhưng cũng có những yếu tố
thay đổi rất chậm như tôn giáo, nghệ thuật...
- Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng
+ Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thông qua
chức năng xã hội của nó. Chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là duy trì, bảo vệ,
củng cố và phát triển trên cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở và kiến trúc
thượng tầng của xã hội cũ.
+ Các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng
nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà
nước không chỉ dựa vào hệ tư tưởng mà còn dựa vào chức năng kiểm soát xã hội để tăng
cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị.

+ Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật cũng tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng thường thường phải thông qua nhà
nước, pháp luật.
+ Sự tác dộng của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng diễn ra theo 2 chiều
hương tích cực và tiêu cực
+ Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan
thì nó sẽ tác động mạnh mẽ tới kinh tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển thúc đẩy cơ
sở hạ tầng phát triển.
+ Nếu kiến trúc thượng tầng không tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách
quan thì nó sẽ kìm hãm cơ sở hạ tầng phát triển. Tuy nhiên nếu kiến trúc thượng tầng kìm
22


hãm kinh tế phát triển thì sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thượng
tầng cũ sẽ bị thay đổi bằng kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ hơn, để thúc đẩy kinh tế phát
triển.
* Ý nghĩa của quy luật này trong quá trình đổi mới ở nước ta

Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế, tức là
các kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ sản xuất với các hình thức sở hữu khác nhau,
thậm chí đối lập nhau, cũng tồn tại trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa là có sự
thống nhất ở mức độ nhất định về mặt lợi ích, nhưng nó cũng tồn tại những mâu thuẫn nhất
định.
Tương ứng với những mâu thuẫn là sự không đồng nhất về bản chất kinh tế do sự
tác động của nhiều hệ thống qui luật kinh tế. Đó là hệ thống các qui luật kinh tế xã hội chủ
nghĩa phát sinh trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, hệ thống các qui luật kinh
tế sản xuất hàng hóa nhỏ và các qui luật kinh tề tư bản chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ
nghĩa với nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần thì sự quản lý của nhà nước
không chỉ bó hẹp trong trong kinh tế quốc doanh mà phải bao quát tất cả các thành phần
kinh tế khác, nhằm từng bước xã hội hóa xã hội chủ nghĩa với tất cả các thành phần kinh tế
khác phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân. Trong
đó, kinh tế quốc doanh bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, quyết định đối với quá trình xây
dựng và phát triển cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tập thể phải thu hút phần lớn
những người sản xuất nhỏ, kinh tế tư nhân và gia đình có khả năng phát huy được mọi tiềm
năng kinh tế góp phần vào quá trình phát triển kinh tế của xã hội.
Xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng ta khẳng định lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho hành động và nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi
chế độ bóc lột, xây dựng một xã hội công bằng văn minh... Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta trong sự
nghiệp cách mạng Việt Nam. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản chất
giai cấp công nhân, đội tiền phong của nó là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, bảo đảm cho
nhân dân ta là người chủ thật sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực xã hội thuộc về xã hội
thuộc về nhân dân, thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi khả năng sáng
tạo, tính tích cực chủ động của mọi cá nhân, mọi tầng lớp xã hội trong cuộc phát triển kinh
tế và văn hóa phục vụ ngày càng cao của đời sống nhân dân. Các tổ chức, thiết chế xã hội,
các lực lượng xã hội tham gia vào hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa đều hướng về mục

tiêu chung làm cho dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh.

Câu 14. Khái niệm và kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội? Tại sao nói sự phát
triển của các hình thái kinh tế - xã hội là 1 quá trình lịch sử tự nhiên
23


*Khái niệm
Hình thái kinh tế - xã hội là 1 phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với 1 kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã
hội đó phù hợp với 1 trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với 1 kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
* Kết cấu
Hình thái kinh tế - xã hội là 1 hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, nhưng có 3
mặt cơ bản là: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng.
- Mỗi mặt này có vị trí riêng, nhưng tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
Trong đó, lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã
hội. Xét đến cùng, lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển của mỗi hình
thái kinh tế-xã hội. Bản thân các lực lượng sản xuất không phải là sản phẩm riêng của một
thời đại nào mà là sản phẩm của cả một quá trình phát triển liên tục từ thấp lên cao qua các
thời đại, là sự tiếp biến không ngừng của lịch sử.
- Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của hình thái kinh tế - xã hội và quyết
định các hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt
chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác.
- Kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng sinh ra và quy định nhưng nó có nhiệm vụ
bảo vệ, duy trì, phát triển cơ ở hạ tầng sinh ra nó.
- Ngoài những mặt cơ bản nói trên, mỗi hình thái kinh tế - xã hội còn có những quan
hệ khác: dân tộc, gia đình và những quan hệ xã hội khác. Các quan hệ xã hội đó đều gắn bó
chặt chẽ với quan hệ sản xuất và biến đổi cùng sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
* Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên

Hình thái kinh tế - xã hội cho phép đi sâu vào bản chất của quá trình lịch sử, hiểu
được logic khách quan của quá trình đó, nhìn thấy sự phát triển của xã hội loài người như
là một quá trình lịch sử tự nhiên, một quá trình diễn ra nhiều mặt và chứa đầy mâu thuẫn,
quá trình vận động hợp với quy luật khách quan. Đó là những quy luật nội tại, tự thân trong
cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng
tầng.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã và đang trải qua 5 hình thái kinh tế - xã
hội khác nhau: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng, mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều
có những quy luật riêng của nó khi nó phát sinh, phát triển và chuyển sang 1 hình thái cao
hơn. Đồng thời cũng khẳng định đến sự tồn tại của những quy luật phản ánh những đặc
điểm chung của mọi hình thái kinh tế - xã hội, những quy luật phổ biến phát huy tác dụng
24


trong tất cả các giai đoạn phát triển của lịch sử , trong tất cả các hình thái phát triển kinh tế
- xã hội.
Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển của các hình thái kinh
tế - xã hội, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Con người làm ra lực lượng sản xuất bằng năng
lực thực tiễn của mình. Tuy nhiên năng lực thực tiễn lại bị quy định bởi nhiều điều kiện
khách quan. Mỗi thế hệ làm ra lực lượng sản xuất của mình phải dựa trên những lực lượng
sản xuất đã đạt được của thế hệ trước ở hình thái kinh tế - xã hội trước đó. Vì vậy bản thân
các lưc lượng sản xuất không phải là sản phẩm riêng của thời đại nào, mà là sản phẩm của
quá trình phát triển từ thấp lên cao qua các hình thái kinh tế - xã hội. Nhưng tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất đã quy định 1 cách khách quan tính chất và trịnh độ của
quan hệ sản xuất, do đó xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết định quá trình vận động
phát triển của hình thái kinh tế - xã hội như 1 quá trình lịch sử tự nhiên.
Sự vận động phát triển thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp lên

cao trước hết được giải thích bằng tác động của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất, 1 mặt của
phương thức sản xuất là yếu tố đảm bảo tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của lịch
sử. Quan hệ sản xuất là mặt thứ 2 của phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong
sự phát triển của lịch sử.
Lịch sử loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã
hội, nhưng lịch sử cụ thể vô cùng phong phú, không thể xem quá trình lịch sử là 1 công
thức hoặc như 1 đường thẳng. Thực tế lịch sử diễn ra những hình thức quá độ khác nhau
của các dân tộc, một số dân tộc phải trải qua tuần tự các hình thái kinh tế - xã hội, một số
dân tộc lại bỏ qua 1 số hình thái đê đạt được những bước phát triển nhanh hơn.
Nhân loại hiện nay đang và sẽ trải qua hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa có 3 giai đoạn phát triển: thời kỳ quá độ từ tư
bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa Cộng sản.

Câu 15. Khái niệm, kết cấu của tồn tại xã hội, ý thức xã hội. Mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Ý nghĩa của vân đề này trong việc
xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
* Khái niệm, kết cấu của tồn tại xã hội, ý thức xã hội
- Tồn tại xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội.
- Các yếu tố cấu thành tồn tại xã hội bao gồm: Phương thức sản xuất vật chất,điều
kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân cư. Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống
nhất biện chứng, tác động lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội,
25


×