Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Vấn đề thể hiện “cái tôi cá nhân” trong mối quan hệ với tập thể - NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN (PHẦN 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.56 KB, 22 trang )

Trang 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
CƠ SỞ II TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ
MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC-LÊNIN (PHẦN 1)
TÊN CHỦ ĐỀ
(Vấn đề thể hiện “cái tôi cá nhân” trong mối quan hệ với tập thể)

Nhóm thực hiện: Nhóm 7 (K31)
Nhóm trưởng: Lê Văn Hiệp
MSSV: 1102015015
Email:
Trang 2
TP.HCM - 01/2012
Trang 3
Đề tài: TÊN CHỦ ĐỀ (DÀN Ý CHI TIẾT
Đề tài thuyết trình : Vấn đề thể hiện “cái tôi cá nhân” trong mối quan hệ với
tập thể (Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, mối quan hệ cặp phạm
trù cái riêng – cái chung).
DANH SÁCH NHÓM VÀ PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
Nhóm 7
Stt
Họ và tên
MSSV
Nhiệm
vụ
Thái
độ
thực
hiện


Số
phiếu
cộng
điểm
Ghi
chú
1 VÕ THUỲ HƯƠNG
GIANG
1102015008 II.1+2+
3
T
2 LÊ VĂN HIỆP 1102015015 III.1+2
+3.3
T
3 TRẦN PHƯỚC HIỆP 1102015016 I2.1 T
4 HUỲNH TRUNG HIẾU 1102015017 III.34 T
5 NGUYỄN TRUNG HIẾU 1102015018 I2.3 T
6 NGUYỄN THỊ KIỀU HOA 1102015021 I1.2+III
3.2
T
7 PHẠM TRONG PHÚ 1102015047 I2.2 T
8 ĐẶNG THANH THẢO 1102015060 I1.1 T
9 NHAN HOÀ THUẬN 1102015066 I3.1+II
3
T
10 NGUYỄN THỊ THUỲ
TRANG
1102015077 Mở đầu T
11 NGUYỄN NGỌC 1102015068 Phần T
Nhận xét Điểm tiểu luận Chữ ký giáo viên

Trang 4
NGUYỆT THUÝ kết
Thời gian nộp Nhóm trưởng xác nhận
Phần Mở đầu:
Trang 5

Có bao giờ bạn tự hỏi mình đang ở đâu giữa dòng sống vận động hối hả? Có bao
giờ bạn chăm chú nhìn vào một vì sao giữa triệu triệu vì sao? Và đã bao giờ bạn
nhìn vào Giọt Nước trong ly và nghĩ tới Biển Cả? Bạn nghĩ một Giọt Nước là quá
bé nhỏ so với Đại Dương mênh mông. Bạn không để ý đến nó, và rồi bạn chợt giật
mình khi nhận ra : chính bạn cũng đang là Giọt Nước giữa Biển Cả mênh mông ấy.
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến hiện
đại. Trước khi có học thuyết Mác, những cố gắng của các trường phái triết học
nhằm đạt tới sự hiểu biết về con người đều bị hạn chế bởi thế giới quan duy tâm,
nhị nguyên luận hoặc duy vật siêu hình. Với quan điểm duy vật triệt để và phương
pháp biện chứng triết học Mác-Lênin đã tạo ra một bước ngoặc trong việc nhận
thức bản chất con người là gì ? Vị trí, vai trò của con người đối với thế giới như thế
nào? Và mối quan hệ con người trong xã hội, “ cá nhân trong mối quan hệ tập
thể” …
Để có thể hiểu sâu sắc và toàn diện hơn vấn đề này, chúng tôi đã sử dụng nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến và cặp phạm trù cái riêng, cái chung của phép biện
chứng duy vật để phân tích và đánh giá một cách đầy đủ và khái quát nhất.
Phần luận:
Trang 6
I. Trước hết, chúng ta tìm hiểu về nguyên lý mối liên hệ phổ biến của phép
biện chứng duy vật trong chủ nghĩa Mác – Lênin.
1. Khái niệm về mối liên hệ, và mối liên hệ phổ biến.
1.1. Mối liên hệ: là sự quy định, tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng hay giữa các yếu tố trong cùng một sự vật, hiện tượng với nhau.
1.2. Mối liên hệ phổ biến: là những mối liên hệ tồn tại một cách phổ biến cả trong

tự nhiên, xã hội và tư duy. Mối liên hệ phổ biến mang tính chất bao quát tồn tại
thông qua các mối liên hệ đặc thù của sự vật hiện tượng, nó phản ánh tính đa dạng
và đặc thù của thế giới.
2. Tính chất của các mối liên hệ:
2.1. Tính khách quan của mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của
thế giới là có tính khách quan. Sự quy định lẫn nhau, tác động và chuyển hóa lẫn
nhau của các sự vật, hiện tượng hoặc trong bản thân chúng là cái vốn có của nó,
tồn tại không phụ thuộc vào ý chí con người; con người chỉ có khả năng nhận thức
được những mối liên hệ đó.
2.2. Tính phổ biến của mối liên hệ Phép biện chứng duy vật khẳng định:
Không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại một cách riêng lẻ, cô
lập tuyệt đối với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác mà trái lại chúng tồn tại
trong sự liên hệ, ràng buộc, phụ thuộc, tác động, chuyển hóa lẫn nhau. Không có
bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm các
yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại
nào cũng là một hệ thống mở tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác
và làm biến đổi lẫn nhau.
Ph.Ăngghen chỉ rõ, tất cả thế giới tự nhiên mà chúng ta có thể nghiên cứu được là
một hệ thống, một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau
Trang 7
Việc các vật thể ấy đều có liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này
tác động lẫn nhau, và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động”.
2.3. Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định mối liên hệ còn có tính phong
phú, đa dạng. Tính chất này được biểu hiện ở chỗ:
- Các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể
khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó.
- Cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể
khác nhau.

- Ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì
cũng có tính chất và vai trò khác nhau. Do đó, không thể đồng nhất tính chất, vị trí
vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật nhất định. Căn cứ
vào tính chất, đặc trưng của từng mối liên hệ, có thể phân loại thành các mối liên
hệ sau:
o Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài.
o Mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp
o Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu
o Mối liên hệ cơ bản và mối liên hệ không cơ bản
o Mối liên hệ cụ thể, mối liên hệ chung, mối liên hệ phổ biến.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, quan
điểm lịch sử - cụ thể.
3.1. Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ, đã cho ta thấy
được quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xem xét
sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, các yếu
Trang 8
tố, giữa các mặt của sự vật và trong sự tác động qua lại giữ sự vật đó với sự vật
khác. Trên cơ sở đó có nhận thức và hành động đúng với thực tiễn khách quan.
“Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các
mặt, tất cả các mối liên hệ và “ quan hệ gián tiếp” của sự vật đó.
Chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần
thiết phải xem xét tất cả các mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự
cứng nhắc”(V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1976, t.42,
tr.384)
Đối lập với quan điểm biện chứng toàn diện thì quan điểm siêu hình xem xét sự
vật, hiện tượng một cách phiến diện. Nó không xem xét tất cả các mặt, các mối liên
hệ của sự vật, hiện tượng; hoặc xem mặt này tách rời mặt kia, sự vật này tách rời
sự vật khác.

Quan điểm toàn diện cũng khác với chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ biện. Chủ
nghĩa chiết trung thì kết hợp các mặt một cách vô nguyên tắc, kết hợp những mặt
vốn không có mối liên hệ với nhau hoặc không thể dung hợp được với nhau. Thuật
nguỵ biện cường điệu một mặt, một mối liên hệ; hoặc lấy mặt thứ yếu làm mặt chủ
yếu.
3.2. Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ cho thấy trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải kết hợp quan điểm toàn diện với quan
điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu việc nhận thức các tình huống trong hoạt động
thực tiễn cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tác động; xác
định rõ vị trí vai trò khác nhau của mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ
thể để đưa ra các biện pháp đúng đắn phù hợp với đặc điểm cụ thể của đối tượng
cần tác động nhằm tránh quan điểm phiến diện, siêu hình, máy móc.
4. Liên hệ nguyên lý mối liên hệ phổ biến với vấn đề “cái tôi cá nhân trong mối
liên hệ tập thể”
Trang 9
Ở bất kỳ lĩnh vực nào trong đời sống xã hội đều có hai mặt; trong đó, đề tài :
“cái tôi cá nhân” và mối liên hệ với “tập thể” cũng vậy. Xã hội thời nay ngày càng
phát triển việc hoàn thiện và hòa hợp giữa “cá nhân” và “tập thể” đòi hỏi con
người phải biết nhìn nhận một cách toàn diện, phải biết đặt mình đúng vị trí và
đúng lúc, đúng hoàn cảnh, đừng vì “cái tôi” của mình quá lớn mà không nghĩ đến
lợi ích tập thể, bởi vì một “tập thể” có tồn tại được thì mới có chỗ đứng cho “cá
nhân” và “tập thể” muốn phát triển và bền vững thì phải cần đến mỗi “cá nhân”
đóng góp.
Chính vì vậy, muốn hiểu được chúng liên quan với nhau như thế nào thì chúng ta
phải đi sâu vào nghiên cứu. Trong khi nghiên cứu, chúng ta không thể chỉ nhìn từ
một phía, một khía cạnh nào đó, mà cần có cái nhìn toàn diện. Như trong mối liên
hệ phổ biến đã khẳng định, chúng ta phải nhìn vào cái bản chất của sự vật. Mà giữa
“cái tôi cá nhân” và “tập thể” có mối liên hệ bản chất, cái này thúc đẩy giúp cái kia
trở nên vững mạnh hơn. Nếu chúng ta không dùng mối liên hệ phổ biến để xem xét

sẽ dễ dẫn đến chỉ có thể nhìn sự việc một cách phiến diện, không hoàn chỉnh và chỉ
nhìn thấy sự liên quan bên ngoài một cách sơ sài, mà không đầy đủ.
II. Phân tích vấn đề “ Cái tôi cá nhân trong mối liên hệ tập thể ” dựa trên cặp
phạm trù cái riêng, cái chung trong chủ nghĩa duy vật của Mác - Lênin.
1.Các khái niệm cơ bản:
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta tiếp xúc với những sự vật, hiện tượng, quá
trình khác nhau; đồng thời, chúng ta cũng thấy giữa chúng ta lại có những mặt
giống nhau như những cái bàn đều được làm từ gỗ, đều có màu sắc, hình dạng nhất
định. Để phản ánh điều đó, phép biện chứng duy vật quan niệm:
1.1. Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng lẻ nhất định.
Trang 10
1.2. Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính chung không
những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật,
hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
1.3. Cần phân biệt “cái riêng” với “cái đơn nhất”. Cái đơn nhất là phạm trù triết
học dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính chỉ có ở một sự vật,
một kết cấu vật chất nhất định, không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất
khác.
Thí dụ, thủ đô Hà Nội là một “cái riêng”, ngoài các đặc điểm chung giống các
thành phố khác của Việt Nam, còn có những nét riêng như phố cổ, có Hồ Gươm,
có những nét văn hóa truyền thống mà chỉ có ở Hà Nội mới có, đó là cái đơn nhất.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung.
Trong lịch sử triết học, mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung được quan
niệm khác nhau. Theo chủ nghĩa duy tâm, thì đồng nhất thượng đế với cái chung
và cho rằng chỉ có cái chung mới tồn tại độc lập khách quan và là nguồn sản sinh
ra nhiều cái riêng. Đối lập lại với chủ nghĩa trường phái duy tâm, các nhà triết học
như P. Abơla (1079- 1142), Đumxcot (1265- 1308) cho rằng chỉ những sự vật, hiện
tượng tồn tại riêng biệt với những chất lượng riêng của chúng mới là có thực còn
khái niệm cái chung chỉ là sản phẩm của tư duy của con người.

Trên cơ sở kế thừa các giá trị về tư tưởng biện chứng trong kho tàng lý luận của
nhân loại, và khắc phục hạn chế của hai quan niệm trên, đồng thời khái quát những
thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên thế kỷ XIX (khoa học về các quá trình,
về nguồn gốc, về mối liên hệ và sự phát triển) phép biện chứng duy vật trong chủ
nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra các mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái
chung như sau:
- Theo quan điểm của phép biện chứng duy vật: cái riêng, cái chung và cái đơn
nhất đều tồn tại một cách khách quan.
Trang 11
- Nhưng, cái chung tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn
tại của nó, không có cái chung nào tồn tại độc lập, và không có cái chung nào tách
rời cái riêng.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung, và cũng không có cái
riêng nào tồn tại tuyệt đối tách rời cái chung. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào khi xét
đến cùng đều có cái chung, không có sự vật, hiện tượng nào hoàn toàn đơn lẻ,
riêng biệt. Cái chung mà đơn giản nhất là gắn kết với vật chất, chính là vật chất.
- Sự vật, hiện tượng nào cũng bao hàm cái chung. Cái chung là bộ phận, nhưng sâu
sắc hơn cái riêng, còn cái riêng là toàn bộ nhưng phong phú hơn cái chung. Cái
riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn
nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính,
những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy,
cái chung là cái gắn liền với bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển
của cái riêng.
Có thể khái quát một công thức như sau: Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
Từ những khái niệm trên, ta rút ra được những luận điểm trong thực tiễn:
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, chúng ta cần phải nhận thức cái chung
để vận dụng vào cái riêng. Việc nhận thức đúng cái chung sẽ giúp chúng ta tránh
được những sai lầm và mất phương hướng khi giải quyết từng cái riêng.
- Muốn nắm được cái chung, thì cần xuất phát từ những cái riêng bởi cái chung

không tồn tại ngoài cái riêng.
- Cần cụ thể thể hóa cái chung trong mỗi điều kiện hoàn cảnh cụ thể, để khắc phục
bệnh giáo điều, máy móc, hoặc cục bộ địa phương, ếch ngồi đáy giếng, phiến
diện…
- Trong quá trình phát triển của sự vật hiện tượng, trong những điều kiện nhất định
“cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” có thể biến
Trang 12
thành “cái đơn nhất” , nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều
kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người trở thành”cái chung” và “cái
chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”.
4. Liên hệ với đề tài : “ cái tôi cá nhân trong mối quan hệ tập thể” dựa trên cặp
phạm trù cái riêng cái chung:
Trong một “tập thể” có nhiều “cá nhân” và mỗi “cá nhân” đó có thể là một
“gam màu” cho “tập thể”, đôi khi có sự khác biệt giữa mỗi cá nhân ( ở đây “cá
nhân” là cái đơn nhất) chính sự khác biệt đó sẽ giúp cho ta phân biệt được giữa
một “tập thể này” với một “tập thể khác” thông qua từng “cá nhân” trong “tập thể”
đó”. Tập thể” và “cá nhân” nhìn bề ngoài là hai chỉnh thể tách biệt nhau. Thế
nhưng, chúng lại là hai vấn đề liên quan mật thiết với nhau. Chúng không thể tách
rời nhau được, thiếu một trong hai nhân tố đó sẽ khó đánh giá một vấn đề, mà vấn
đề ở đây là mối liên hệ giữa “cái tôi cá nhân” và “tập thể”.
III. Những biểu hiện cụ thể của mối quan giữa cá nhân và tập thể trong cuộc
sống xưa và nay.
1.Định nghĩa “cái tôi cá nhân”:
Trong phân tâm học, "cái tôi" là phần cốt lõi của tính cách liên quan tới thực
tại và chịu ảnh hưởng của tác động xã hội. Theo Sigmund Freud, "cái tôi" cùng với
"nó" và "cái siêu tôi" là ba miền của tâm thức. "Cái tôi" được hình thành ngay từ
khi con người sinh ra và qua tiếp xúc với thế giới bên ngoài, "cái tôi" học cách cư
xử sao cho kiểm soát được những ham muốn vô thức không được xã hội chấp
nhận. "Cái tôi" có vai trò trung gian hòa giải giữa những ham muốn vô thức và
những tiêu chuẩn nhân cách và xã hội.

Trong triết học, "cái tôi cá nhân" được hiểu là cái tôi ý thức hay đơn giản là
tôi, bao hàm trong đó những đặc tính để phân biệt tôi với những cá nhân khác.
Như vậy, triết học nào củng phải trả lời bằng cách này hay cách khác câu
hỏi: Con người là gì ? Con người sinh ra từ đâu , họat động và phát triển ra sao?
Trang 13
Trước khi có học thuyết Mác, những cố gắng của tư duy triết học nhằm đạt tới sự
hiểu biết về con người “ cụ thể” hiện thực đều không đem lại kết qủa , rốt cuộc là
chủ nghĩa duy tâm vẫn ngự trị trong nhận thức về con người và về đời sống xã hội .
Chỉ đến triết học Mác , vấn đề con người mới được xem xét một cách nhất quán,
đầy đủ và sâu sắc hơn, trên cơ sở lập trường của duy vật triệt để.
2. Khái niệm tập thể:
Tập thể là một nhóm người có tổ chức phối hợp với nhau một cách chặt chẽ trong
hoạt động vì một mục đích chung. Sự tồn tại và phát triển của tập thể dựa trên cơ
sở thoả mãn và kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích chung.
Tập thể luôn có hai loại cấu trúc chính thức và không chính thức. Cấu trúc chính
thức của tập thể là hệ thống tổ chức của bộ máy, cơ quan đơn vị thành lập do pháp
luật qui định. Còn cấu trúc không chính thức của tổ chức là các tổ chức tồn tại
không bằng con đường chính thức.
3. Phân tích cái tôi cá nhân trong mối quan hệ tập thể, dựa trên nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến và cặp phạm trù cái riêng, cái chung trong phép biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác – Lênin.
3.1. Gắn kết các khái niệm.
Ở đây, cái phổ biến ( cái chung của nhân loại) tồn tại và thể hiện qua cái đặc thù
( hình thái xã hội, giai cấp ) và cái đơn nhất (cá nhân từng con người). Do đó, khi
bàn đến bản chất chung của con người không thể gạt bỏ bản chất giai cấp của các
tầng lớp khác nhau, và ngược lại khi nói bản chất giai cấp của các tầng lớp khác
nhau không được quên bản chất chung của con người. Nhưng từ đó bản chất con
người chỉ còn là bản chất giai cấp và tất cả mọi họat động của con người đều được
giải thích trực tiếp từ đây lại là xuyên thực chất quan điểm macxit về bản chất con
người. Đây là một quan hệ không thể tách biệt của các thứ bậc về bản chất trong

con người.
Trang 14
- Các quan hệ xã hội không phải chỉ xét ở quan hệ ở từng hình thái xã hội
riêng biệt mà còn khái quát những quan hệ xã hội chung thể hiện qua từng chế độ ,
thời đại riêng biệt. Quan hệ xã hội vừa diển ra theo chiều ngang ( đương đại) vừa
theo chiều dọc lịch sử. Các quan hệ xã hội quy định bản chất con người bao gồm
cả quan hệ xã hội hiện tại và quan hệ xã hội truyền thống, bởi trong lịch sử của
mình con người bắt buộc phải kế thừa di sản của những thế hệ trước nó.
Trong lĩnh vực văn hóa tình thần có những truyền thống thúc đẩy con người
vươn lên, nhưng cũng có những truyền thống “đè nặng lên những con người đang
sống”. Do đó khi xem xét bản chất con người không được tách rời hiện tại và quá
khứ.
- Các bản chất không phải là cái duy nhất, mà là bộ phận chi phối trong
chính thể cụ thể phong phú đa dạng. Bản chất và thể hiện bản chất của con người
có khác biệt. Không hiểu bản chất chung của con người hay quy tất cả những gì
của con người để chỉ vào bản chất là sai lầm. Bản chất một con người cụ thể là
tổng hòa các quan hệ xã hội “ vốn có” của con người đó và quy định những đặc
điểm cơ bản chi phối mọi hành vi của người đó. Còn tất cả những hành vi của
người đó bộc lộ ra bên ngoài là những hiện tượng biểu hiện bản chất của họ. Sự thể
hiện bản chất của con người không phải theo con đường thẳng , trực tiếp, mà
thường là gián tiếp, quanh co qua hàng lọat mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội ,
giữa kinh nghiệm và nhận thức khoa học, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài, giữa
bản năng sinh vật và họat động có ý thức giữa di truyền tự nhiên và văn hóa xã
hội…Trong diễn biến đầy mâu thuẩn đó, bản chất thể hiện ra như một xu hướng
chung , xét đến cùng mới thấy sự chi phối của xu hướng đó.
Con người sống dựa vào tự nhiên như hầu hết mọi sinh vật khác. Nhưng con
người sở dĩ trở thành chủ thể của tự nhiên chính là ở chỗ nó không chỉ sống dựa
vào tự nhiên, Ph.Ăngghen là người chỉ ra được bước chuyển biến từ vượn thành
người là nhờ có lao động. Quá trình con người cải tạo tự nhiên cũng là quá trình
Trang 15

trở thành con người, Ph.Ăngghen nói “lao động sáng tạo ra con người là theo ý
nghĩa ấy”.
Khác với tự nhiên, xã hội không thể có trước mà đã ra đời cùng với con
người, xã hội cũng là con người, xã hội cũng không phải là cái gì trừu tượng, bất
biến mà mỗi hình thái kinh tế - xã hội chỉ thích hợp với mỗi phương thức sản xuất
nhất định. Nhân tố quyết định phương thức sản xuất phát triển lại là lực lượng sản
xuất bao gồm con người và công cụ lao động. Như thế, không phải cái gì khác mà
chính là con người, cùng với những công cụ do họ chế ra, đã quyết định sự thay
đổi bộ mặt của xã hội. Vậy xã hội đã sản xuất ra con người với các tính cách là con
người như thế nào thì con người cũng sản xuất ra xã hội như thế.
Khi nói bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội, cũng có nghĩa
là tất cả quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con người và có ý nghĩa
quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bời vì các quan hệ khác đều trực tiếp hoặc
gián tiếp chịu sự quy định của quan hệ này.
Con người tồn tại qua những cá nhân mỗi người, mỗi cá nhân mỗi người là
một chính thể đơn nhất gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể không lặp lại,
khác biệt với những cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ…
Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành. Những cá nhân này sống và hoạt
động trong những nhóm cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau do điều kiện lịch sử
quy định. Trong mối quan hệ giống loài, tức là trong mối quan hệ với xã hội, cá
nhân biểu hiện với tư cách như sau:
- Cá nhân là phương thức tồn tại của giống loài “người’. Không có con người
nói chung, loài người nói chung tồn tại cảm tính.
- Cá nhân là cá thể người riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã hội, là
một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách.
- Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội. Nhưng xã
hội thay đổi theo tiến trình lịch sử cá nhân là một hiện tượng có tính lịch sử.
Trang 16
Mỗi thời kỳ lịch sử có một “ kiểu xã hội của cá nhân” mang tính định hướng
về thế giới quan, phương pháp luận cho hoạt động của con người trong thời

kỳ lịch sử cụ thể đó.
Nếu như cá nhân là khái niệm phản biện sự khác nhau giữa cá thể với giống
loài, sự khác biệt biểu hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá nhân khác thì nhân
cách là khái niệm để chỉ sự khác biệt những yếu tố bên trong riêng biệt với những
hoạt động sống của nó, của cá nhân này với cá nhân khác. Nhân cách là nội dung,
trạng thái, tính chất, xu hướng bên trong riêng biệt của mỗi cá nhân. Đó là thế giới
của “cái tôi” do tác động tổng hợp của các yếu tố cơ thể và xã hội riêng biệt tạo
nên. Mỗi cá nhân “ dấn thân” vào cuộc sống, tiếp thu và chuyển những giá trị văn
hoá của xã hội vào bên trong mình, thực hiện quá trình so sánh lọc bỏ, tự đánh giá,
tự tạo nên thế giới riêng biệt của mình. Đây là quá trình kép, xã hội hoá cá nhân và
cá nhân hoá xã hội, cá nhân xã hội và cá nhân nhân cách là thống nhất. Với nhân
cách riêng, mỗi cá nhân có khả năng ý thức về mình, làm chủ cuộc sống của mình,
tụ lựa chọn chức năng, niềm vui và trách nhiệm hoạt động cụ thể trong xã hôi.
Vấn đề cá nhân, nhân cách phải giải quyết một cách khoa học, nếu có
phương hướng triết học rõ ràng giải quyết mối quan hệ cá nhân và xã hội. Mối
quan hệ này được giải quyết liên tiếp thông qua tập thể cơ sở. Nó tạo thành một bộ
phận hết sức quan trọng trong một cơ thể xã hội hoàn chỉnh. Cá nhân có nhân cách
gia nhập vào tập thể như là bộ phận của cái toàn thể, thể hiện bản sắc của mình
thông qua hoạt động tập thể, nhưng không “hoà tan” vào tập thể. Tuỳ theo tính chất
và khả năng giải quyết những mâu thuẫn đó mà mối quan hệ này có thể duy trì phát
triển hoặc tan rã.
Mối quan hệ cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, tác động nhau,
trong đó xã hội giữ vai trò quyết định. Nền tảng của mối quan hệ này là quan hệ lợi
ích. Thực chất của việc tổ chức trật tự xã hội là sắp xếp các quan hệ lợi ích sao cho
khai thác được cao nhất khả năng của mỗi thành viên vào các quá trình kinh tế, xã
Trang 17
hôi và thúc đẩy quá trình phát triển lên trình độ cao hơn. Xã hội là điều kiện, là
môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân được thực hiện. Cá nhân không chỉ
là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể của sự phát triển xã hội, của hoạt động
sản xuất và hoạt động xã hội khác. Với tư cách là chủ thể của lịch sử, cá nhân hành

động không phải riêng rẽ mà với tư cách là một bộ phận của tập thể xã hội. Nhân
dân là cộng đồng lớn nhất, trong đó cá nhân hành động như chủ thể lịch sử. Cá
nhân chỉ được hình thành phát triển trong xã hội, trong tập thể. Sự tác động cá
nhân và xã hội mang tính đặc thù tuỳ thuộc vào các chế độ xã hội và trình độ văn
hoá khác nhau.
3.2 Cá nhân và quần chúng nhân dân trong lịch sử
Lịch sử chẳng qua là hoạt động của con người theo đuổi mục đích của mình.
Nhưng lịch sử không diễn ra qua hoạt động của từng cá nhân cô lập, tách rời mà
phải thông qua hoạt động của quần chúng đông đảo theo mục đích nhất định. Khái
niệm quần chúng nhân dân có tính lịch sử, nghĩa là ở các chế độ xã hội khác nhau
thì kết cấu quần chúng nhân dân cũng khác nhau và luôn biến đổi theo sự phát triển
của phương thức sản xuất. Nói chung, quần chúng nhân dân bao gồm tất cả những
lực lượng, giai cấp, những tập đoàn, những cá nhân thúc đẩy sự phát triển của xã
hội, trong đó chủ yếu là quần chúng lao động.
Triết học duy tâm và duy vật đều hiểu không đúng đắn vai trò của quần chúng
nhân dân và mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử.
Tư tưởng tôn giáo cho rằng, mọi sự thay đổi trong xã hội là do ý chí của đấng tối
cao, là do mặt trời, ý chí đó được các cá nhân thực hiện. Triết học duy tâm cho
rằng lịch sử của nhân loại là lịch sử của các bậc vua chúa, anh hùng hào kiệt, thiên
tài lỗi lạc. Còn quần chúng nhân dân chỉ là lực lượng tiêu cực, là phương tiện mà
các vĩ nhân cần đến để đạt được mục đích của mình.
Trang 18
Các nhà duy vật trước Mác tuy không tin vào thượng đế, thần linh nhưng lại cho
rằng nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là đạo đức, tư tưởng, là các vĩ
nhân sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định quần chúng nhân dân là lực
lượng quyết định sự phát triển của lịch sử vì những lý do sau:
Tư tưởng tự nó không dẫn đến biến đổi xã hội. Tư tưởng chỉ có giá trị khi nó
dẫn đến hành động làm biến đổi lịch sử, sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động
làm phát triển xã hội chỉ có thể xảy ra qua hoạt động của quần chúng nhân dân.

Sức mạnh quần chúng nhân dân là sức mạnh vật chất và mọi sự vận động lịch sử
đều do quần chúng trực tiếp tạo ra. Nói quần chúng nhân dân quyết định lịch sử là
nói tới sức mạnh này.
Quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng. Cuộc đấu
tranh của quần chúng nhân dân lao động là lực lượng phát triển của xã hội.
Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển văn hoá, nghệ
thuật và khoa học. Trong lịch sử, do phân công lao động dẫn đến tạo ra một lớp
người chuyên về sang tạo tinh thần tư tưởng, những hoạt động này của họ cũng chỉ
diễn ra được trên cơ sở đời sống tinh thần và sang tạo của quần chúng. Quần chúng
nhân dân là người trực tiếp sang tạo ra văn học nghệ thuật. Hoạt động thực tiễn của
quần chúng nhân dân là cái gốc là nguồn vô tận cho văn học nghệ thuật sáng tạo,
đồng thời quần chúng nhân dân còn là người thưởng thức, phê phán, kiểm nghiệm
các giá trị đó. Trong lịch sử phát triển của xã hội, không có văn học dân gian thì
cũng không thể có văn học bác học, không có kinh nghiệm của đa số người lao
động thì cũng không có các nhà khoa học. Đây là hai mặt không thể tách rời của
đời sống tinh thần trong xã hội.
Hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân là cái nôi, là cơ sở cho sự hình
thành các nhân vật ưu tú trong xã hội. Sức mạnh và tài năng của lãnh tụ cũng chỉ
Trang 19
được phát huy trong phong trào quần chúng, gắn bó mật thiết với quần chúng. Một
nhân dân anh hùng, một đại chúng cách mạng năng động sẽ là cơ sở để sản sinh ra
những anh hung, những lãnh tụ tiêu biểu của mình.
Như vậy, xét tất cả các mặt trong đời sống xã hội từ kinh tế đến chính trị, từ
thực tiễn đến tinh thần tư tưởng, khi quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định
trong lịch sử. Song, theo quan niệm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân và cá
nhân lãnh tụ trong lịch sử không tách rời nhau. Cá nhân lãnh tụ là những người có
năng lực và phẩm chất tiêu biểu nhất trong phong trào quần chúng, được quần
chúng tin yêu.
Công lao to lớn của C.Mác, Ph.Ăngghen, VI. Lênin và lãnh tụ vô sản vĩ đại

khác là ở chỗ, các ông đã chỉ cho giai cấp vô sản và quần chúng bị áp bức hiểu
được nhiệm vụ lịch sử của họ, sức mạnh vĩ đại của họ và con đường đi đến giải
phóng khỏi mọi ách áp bức bóc lột. Ví dụ, ở Việt Nam, giai cấp công nhân và nhân
dân Việt Nam vô cùng tự hào có vị lãnh tụ là Hồ Chí Minh. Ở Người đã kết tinh
những phẩm chất tiêu biểu nhất của mọi lãnh tụ vô sản. Thắng lợi của cách mạng
Việt Nam, ngót nửa thế kỷ nay mãi gắn liền với tên tuổi của chủ tịch Hồ Chí Minh,
người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, người khai sinh nền cộng hòa dân chủ Việt
Nam. Người vun trồng khối đại đoàn kết dân tộc và xây dựng lực lượng vũ trang
cách mạng, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân ta, người anh
hùng dân tộc vĩ đại, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế.
3.3 Những biểu hiện cụ thể của mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong cuộc
sống hiện nay:
Trong nhiều tổ chức, nhiều tập thể vẫn có những cá nhân hết lòng cống hiến
sức khoẻ, năng lực, tâm huyết để dựng xây cơ quan, đơn vị mình công tác. Họ có
thể là những lãnh đạo của cơ quan, họ cũng có thể là các nhân viên, bảo vệ, là các
bạn cán bộ lớp, các thành viên trong lớp… Đơn vị đó vì vậy mà không ngừng lớn
mạnh góp thêm vào việc xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, phong trào của nhà
Trang 20
trường… Tiêu biểu cho những gương mặt thanh niên tiêu biểu năm 2011 có
Trương Văn Trị - SN 1980, có nhiều sáng kiến trong sản xuất nông nghiệp, đặt biệt
là sáng kiến trong việc nuôi cá vược tạo ra lợi nhuận hàng trăm triệu mỗi năm cho
bà con, đoạt Cúp tài năng trẻ sáng tạo 2009; Nguyễn Chí Ninh - SN 1982, y sỹ
Đồn biên phòng của khẩu Tây Trang - bộ đội Biên phòng Điện Biên, kết hợp thành
công sử dụng Tây và Đông y trong công tác; tuyên truyền, hướng dẫn đồng bào
dân tộc chống dịch bệnh, Hoàng Văn Ninh - người đã cứu 200 người trong lũ lụt
lịch sử tại Quảng Bình trong khi nhà mình cũng bị nước cuốn trôi. Đây chỉ là một
số trường hợp trong hàng nghìn hàng vạn tấm gương điển hình cho thanh niên hiện
nay đang sống và lao động học tập điển hình trong cả nước.
Nhưng trước những biến động và đổi thay không ngừng của nền kinh tế thị
trường, nhu cầu cuộc sống cá nhân ngày một khác đã trở thành khá phổ biến những

quan niệm cho rằng trước hết phải vì cuộc sống của chính mình, vì lợi ích của
riệng mình. Vì vậy trước tập thể nhiều cá nhân đã không đóng góp hết mình và dựa
dẫm ỉ lại vào số đông theo suy nghĩ “Nước nổi thì bèo nổi”. Họ tìm cách để thu
vào túi mình những nguồn lợi lớn nhất để ổn định cuộc sống gia đình và hưởng
thụ, họ thờ ơ trước những thay đổi của đơn vị mình, thờ ơ trước những khó khăn
của mọi người xung quanh. Họ không dám đấu tranh trước những cái sai, cái xấu,
bàng quan và vô ưu vì sợ liên luỵ đến mình, ảnh hưởng đến danh tiếng, địa vị, thu
nhập… Có thể nói mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong cuộc sống ngày nay
có phần xấu đi, dường như mọi người chỉ còn làm việc theo trách nhiệm và làm
vừa đủ, vừa đúng thậm chí chưa hoàn thành công việc của mình… Điển hình như
một số vụ việc gần đây bị cơ quan điều tra phanh phui như Huỳnh Ngọc Sĩ – giám
đốc dự án xây dựng đại lộ đông tây lợi dụng chức vụ ăn hối lộ làm thất thoát của
nhà nước nhiều tỉ đồng…
3.4. Trước hiện trạng đó mỗi cá nhân chúng ta cần phải làm gì?
Trang 21
Xác định lại quan điểm đúng đắn về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể,
nêu cao tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, tinh thần trách nhiệm của mỗi người
trong tổ chức, đơn vị mình công tác và sinh hoạt. Tập thể phải bảo vệ quyền lợi của
mỗi cá nhân, bênh vực cá nhân, động viên, khích lệ họ vượt lên mọi hoàn cảnh để
có nhiều đóng góp vì lợi ích chung…
Trong cơ chế hoà nhập ngày nay cá nhân nói riêng, đơn vị, cơ quan nói
chung cần kịp thời nắm bắt cơ hội hoà nhập nhưng trong sự hoà nhập đó không có
sự hoà tan, trong cái riêng có những cái chung và ngược lại. Tất cả vì tinh thần
đoàn kết, hoà bình cùng phát triển và tiến bộ…
Phần kết:
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát
triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ với điều
kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng không phải thay đổi cho phù
hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở,
tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã

Trang 22
hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể
sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp.
Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng
( mặc dù không trùng lặp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Mỗi chúng ta đều là những Giọt Nước giữa Đại Dương bao la. Đại Dương vận
động và tất cả những Giọt Nước như chúng ta đều vận động.Một Giọt Nước,hai
Giọt Nước không thể làm nên Đại Dương ….Nhưng triệu triệu Giọt Nước sẽ làm
thành một Đại Dương bao la.Bạn là một trong số triệu triệu Giọt Nước ấy.Bạn
không lớn lao.Bạn bé nhỏ nhưng bạn không phải là vô nghĩa.Và những gì bạn làm
sẽ là chắp nhặt từng Giọt Nước để tạo thành một Đại Dương.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn
bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát
triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo
dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động
trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ
ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy,
các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng
của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch
sử xã hội loài người.

×