Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

một số vấn đề về người không được hưởng quyền si sản theo quy định tại khoản 1điều 643 Bộ luật dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.15 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chế định về quyền thừa kế là một trong những chế định quan trọng của bộ luật
dân sự Việt Nam 2005 nói riêng và luật dân sự Việt Nam nói chung. Đặc biệt, trong
giai đoạn hiện nay, những vấn đề tranh chấp về thừa kế xảy ra ngày càng nhiều, đòi
hỏi sự phát triển sâu và rộng của chế định về quyền thừa kế. Việc nghiên cứu về
quyền thừa kế có ý nghĩa quan trọng đối với cả lý luận lẫn thực tiễn. Đặc biệt, là để
giải quyết các vấn đề tranh chấp về thừa kế, cần xác định được đâu là đối tượng có
quyền hưởng thừa kế, đâu là đối tượng không được quyền hưởng thừa kế. Để hiểu
rõ hơn về vấn đề thừa kế nói chung, và vấn đề đối tượng được hưởng hay không
được hưởng quyền thừa kế nói riêng, bài làm sau đây em xin trình bày một số vấn
đề về người không được hưởng quyền si sản theo quy định tại khoản 1điều 643 Bộ
luật dân sự
NỘI DUNG
I. Lý luận chung về thừa kế
1.

Khái niệm thừa kế, quyền thừa kế

Thừa kế có thể hiểu là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn
sống theo di chúc hoặc theo những quy định của pháp luật.
Dẫn đến, quyền thừa kế nếu hiểu theo nghĩa chủ quan là quyền của người để lại
di sản và quyền của người nhận di sản. Tuy nhiên, với nghĩa rộng thì quyền thừa kế
là một chế định pháp luật, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điểu chỉnh
mối quan hệ về việc dịch chuyển tài sản từ người chết cho những người còn sống
khác theo ý chí của họ, được thể hiện trong di chúc hoặc theo ý chí của nhà nước
được thể hiện trong di chúc hoặc theo ý chí của nhà nước được thể hiện thông qua
các quy định của pháp luật.
2.

Di sản


Theo quy định của điều 634 BLDS thì : “Di sản bao gồm tài sản riêng của người
chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác”.
Di sản thừa kế là tài sản thuộc quyền sở hữu của người để lại di sản khi còn
sống. Điều 163 BLDS quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
~1~


quyền tài sản”. Như vậy, thành phần di sản bao gồm các loại tài sản khác nhau và
không bị hạn chết về số lượng, giá trị.
3.

Thừa kế theo pháp luật.

Như đã biết, pháp luật thừa kế của nhiều nước trong đó có Việt Nam đều quy định
hai hình thức thừa kế đó là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
Thừa kế theo di chúc có thể được hiểu là sự dịch chuyển tài sản của người chết
cho những người còn sống theo ý chí của người chết. Tuy nhiên trên thực tế không
phải lúc nào người để lại di sản chết cũng để lại di chúc hoặc di chúc người này lập
ra là hợp pháp.
Còn thừa kế theo pháp luật, điều 674 BLDS đã quy định: “Thừa kế theo pháp
luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy
định”.
4.

Người thừa kế

Người thừa kế là người được thừa hưởng tài sản của người chết để lại theo chỉ
định của di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Suy ra có hai loại người thừa kế.
Một là, người thừa kế theo di chúc, có thể là bất cứ ai, cá nhân hoặc tổ chức. Hai là,
người thừa kế theo pháp luật thì chỉ là cá nhân có một trong ba mối quan hệ hôn

nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với người đã chết. Người thừa kế là cá nhân phải
còn sống vào thời điểm mở thừa kế; người đã thành thai vào thời điểm mở thừa kế
và sinh ra mà còn sống. Người thừa kế là pháp nhân, tổ chức thì phải còn tồn tại vào
thời điểm mở thừa kế.
II.

Người không được hưởng quyền si sản theo quy định tại khoản 1 Điều

643 Bộ luật dân sự 2005
Người không được quyền hưởng di sản là người không xứng đáng được thừa kế
vì đã có những hành vi phạm tội, hành vi trái đạo đức xã hội đối với người để lại di
sản, người thừa kế khác hoặc trong việc thừa kế.

~2~


a. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi
ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh
dự, nhân phẩm của người đó (điểm a khoản 1 điều 643)
Điều kiện chính được đặt ra trong trường hợp này đó là phải có một bản án có
hiệu lực của pháp luật. Vì vậy, người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc
không bị kết án thì sẽ không bị ràng buộc bởi điều này. Mặt khác, nếu một người đã
bị kết án, sau đó được xóa án tích thì vẫn không được quyền hưởng di sản theo quy
định tại điều này.
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người để
lại di sản: người có hành vi cố ý giết người để lại di sản và đã bị kết án về hành vi
đó thì không có quyền thừa kế di sản của người để lại di sản. Điều cần lưu ý ở đây
đó là hành vi này phải là cố ý hòng tước đoạt sinh mạng của người để lại di sản, và
hành vi này phải là hành vi trái pháp luật. Điều đó khẳng định rằng, nếu hành vi
tước đoạt tính mạng của người để lại di sản là hành vi không trái pháp luật (người

thực hiện hành vi không có lỗi hoặc đang thi hành án tử hình) thì họ vẫn được
quyền hưởng di sản. Trong trường hợp, người thừa kế bị kết án về hành vi vô ý làm
chết người để lại di sản (lỗi ở đây là lỗi vô ý) thì người thừa kế vẫn được hưởng di
sản theo pháp luật của người để lại di sản (mà người thừa kế vô ý làm chết).
- Người đã có hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di chúc và
đã bị kết án về tội danh này thì cũng sẽ không được quyền hưởng quyền thừa kế của
người đã bị ngược đãi, hành hạ sau khi người đó chết. Đây có thể xem là những
hành vi trái với pháp luật, đồng thời trái với đạo đức xã hội, bởi lẽ đó, những người
này không thể có quyền hưởng di sản của người mà họ đã thực hiện những hành vi
sai trái đó.
- Người có hành vi cố ý xâm phạm đến nhân phẩm danh dự của người để lại di
sản và bị kết án về hành vi đó cũng không có quyền hưởng di sản thừa kế do người
bị xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm để lại

~3~


Cần lưu ý ở đây, đó là, đây buộc phải là lỗi cố ý, khi hành vi được thực hiện
do lỗi vô ý và đã bị kết án với cùng tội danh nhưng là hành vi vô ý, thì người đó vẫn
không bị mất quyền hưởng di sản.
b. Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản (Điểm
b khoản 1 điều 643)
Quan hệ nuôi dưỡng trong điều khoản này đề cập tới đó là quan hệ nuôi dưỡng
giữa người thừa kế theo pháp luật và người để lại di sản khi người để lại di sản còn
sống. Nghĩa vụ nuôi dưỡng ở đây phải được pháp luật quy định một cách chính thức
(nghĩa vụ pháp lý) chứ không phải là nghĩa vụ đạo đức thuần túy. Nghĩa vụ nuôi
dưỡng ở đây có thể được hiểu rộng ra là: nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc người để
lại di sản khi còn sống và nghĩa vụ cấp dưỡng người để lại di sản khi còn sống.
Nghĩa vụ nuôi dưỡng phát sinh trong các quan hệ sau: cha mẹ - con, anh chị em ruột
với nhau, ông bà nội, ngoại – cháu, vợ - chồng,… trong trường hợp một bên cần

nuôi dưỡng.
Người thừa kế phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng và cấp dưỡng đối với người để lại
di sản trong những trường hợp sau:
- Người để lại di sản là cha mẹ hoặc con của người đó
Nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa cha mẹ con là một trong những đạo đức của người
Việt Nam, không chỉ vậy, nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa cha mẹ con còn được pháp luật
quy định và cụ thể hóa trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 (sau đây gọi là Luật
Hôn nhân và Gia đình) (điều 36) và có chế tài nghiêm khắc nếu vi phạm được quy
định tại điều 151 BLHS 1999
Điều 36: Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng
1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa
thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không
có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
2. Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ
ốm đau, già yếu, tàn tật; trong trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải
cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ
~4~


Theo quy định tại điều khoản này thì cha mẹ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng
con trong hai trường hợp:
+ Con chưa thành niên
+ Con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
Con có quyền lập di chúc để lại thừa kế trong ba trường hợp:
+ Con đã thành niên, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự
+ Con chưa thành niên trên mười lăm tuổi, có tài sản riêng
+ Con đã thành niên nhưng bị tàn tật, tuy nhiên không mất năng lực hành vi dân
sự
Có thể thấy, trong ba trường hợp này, cha mẹ chỉ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con

trong hai trường hợp sau. Mặt khác, cha mẹ là người đương nhiên được hưởng di
sản thừa kế của con bất kể có được con để lại di sản theo di chúc hay không (người
thừa kế không phụ thuộc vào nôi dung của di chúc – điều 669) nhưng nếu cha mẹ
không thực hiện quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng con trong khi con thuộc trường hợp
thứ hai và thứ ba thì cha mẹ cũng sẽ không được hưởng bất kỳ tài sản nào từ di sản
thừa kế của con.
Trong khi chỉ có một số trường hợp cha mẹ mới buộc phải nuôi dưỡng con,
thì nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ của con là trong mọi trường
hợp, bất luận tình trạng sức khỏe của cha mẹ ra sao, tình hình kinh tế của cha mẹ
như thế nào!
- Người để lại di sản là anh chị em của người đó
Nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa các anh chị em cũng được quy định trong điều 48
Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, theo đó thì anh, chị em có nghĩa vụ nuôi dưỡng
nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông
nom, chăm sóc giáo dục con.
Như vậy nghĩa vụ nuôi dưỡng của anh, chị, em (người thừa kế theo di chúc) đối
với người để lại thừa kế khi người này nằm trong tình trạng trên, đồng thời họ là

~5~


người chưa thành niên (tròn mười lăm nhưng chưa đủ mười tám tuổi) hoặc là người
bị tàn tật nhưng không bị mất năng lực hành vi.
- Người để lại di sản là ông bà của người đó hoặc là cháu của người đó
Theo khoản 1 điều 47 Luật Hôn nhân và Gia đình: Ông, bà nội, ngoại có nghĩa
vụ nuôi dưỡng cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc đã thành niên
nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi dưỡng mình, đồng thời cũng không có cha, mẹ, anh, chị,
em có thể nuôi dưỡng được.
Theo khoản 2 điều 47 Luật Hôn nhân và Gia đình cũng đã xác định rằng cháu

có nghĩa vụ phải phụng dưỡng ông bà.
Bởi vậy nếu người thừa kế và người để lại di chúc thuộc một trong hai trường
hợp này mà người thừa kế lại không thực hiện nghĩa vụ chăm sóc nuôi dưỡng người
để lại di sản thì người thừa kế cũng không được hưởng di sản thừa kế theo quy định
của điều luật này.
Trong điều khoản này có quy định rằng người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi
dưỡng với người để lại di sản thì không được quyền hưởng di sản. Vậy như thế nào là
nghiêm trọng và căn cứ vào đâu để xác định mức độ nghiêm trọng? Thực chất, tính
chất nghiêm trọng này hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của thẩm phán. Vi phạm
nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ở đây được hiểu là, có khả năng thực hiện nghĩa vụ
nuôi dưỡng mà không thực hiện làm cho người cần được nuôi dưỡng lâm vào tình
trạng khổ sở hoặc nguy hiểm tới tính mạng.
Tuy nhiên, điều khoản này được cho là mang nhiều tính chất đạo đức, bởi lẽ,
nếu một người đã không có khả năng tự nuôi bản thân, phụ thuộc hoàn toàn vào sự
nuôi dưỡng của người khác, và nếu thiếu sự nuôi dưỡng đó họ sẽ lâm vào tình trạng
khổ sở hoặc nguy hiểm tới tính mạng thì không thể có tài sản để để lại thừa kế.
c. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền
hưởng (điểm c khoản 1 điều 643)

~6~


Người thừa kế do mưu đồ muốn chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản thừa
kế mà người thừa kế khác có quyền được hưởng nên đã có hành vi cố ý xâm phạm
tính mạng người thừa kế khác (giết người thừa kế khác). Người thừa kế khác ở đây
có thể hiểu theo hai hướng:
- Thứ nhất, người thừa kế cùng hàng
- Thứ hai, người thừa kế không cùng hàng – trong trường hợp này buộc phải là
người thừa kế hàng phía trên. Vì không có lý do gì giết người ở hàng thừa kế phía

sau với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản thừa kế mà người thừa
kế đó được hưởng được.
Tuy nhiên cần phải phân biệt ba trường hợp xâm phạm đến tính mạng của người
thừa kế khác như sau:
- Cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác – giết người thừa kế khác
với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế đó được
hưởng: trong trường hợp này, người thừa kế thực hiện hành vi đó sẽ không được
quyền hưởng di sản thừa kế
- Cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác – giết người thừa kế khác
nhưng không phải với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản mà người
thừa kế đó được hưởng. Trong trường hợp này, người thừa kế thực hiện hành vi giết
người thừa kế khác không bị tước quyền hưởng di sản.
- Vô ý làm chết người thừa kế khác: dĩ nhiên trong trường hợp này là lỗi vô ý,
hoàn toàn không thuộc trường hợp bị tước quyền thừa kế, nên người thực hiện hành
vi này vẫn có quyền hưởng di sản.
Điều đáng lưu ý ở đây, cũng giống như ở trường hợp không được quyền hưởng
di sản đầu tiên, phải có một bản án có hiệu lực của pháp luật thì người thực hiện
hành vi giết người thừa kế khác đó mới bị tước quyền thừa kế.
Ngoài ra, việc áp dụng quy tắc này cũng còn tùy thuộc vào việc có minh chứng
được hay không động cơ phạm tội của người thừa kế: hành vi đó có nhằm mục đích
để chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế có tính mạng bị xâm
phạm được hưởng nếu còn sống hay không?
~7~


Có hai điều chú ý sau đây:
- Thứ nhất, hành vi phạm pháp phải xảy ra trước thời điểm mở thừa kế. Tại sao
lại phải xảy ra trước thời điểm mở thừa kế? Bởi lẽ, nếu sau thời điểm mở thừa kế,
mỗi người thừa kế đã trở thành chủ sở hữu thực sự phần thừa kế của mình. Nếu
người thừa kế đó chết thì phần được thừa kế được để lại cho những người thừa kế

của họ chứ không phải là kẻ giết người.
Ví dụ: A và B kết hôn hợp pháp có con chung là C, D, E. C có vợ là M. A chết
không để lại di chúc. Sau khi A chết, D giết C. Nhưng thực tế, thời điểm mở thừa kế
là thời điểm người có tài sản chết. Tại thời điểm đó, phần di sản của C được hưởng
đã được gộp vào phần tài sản riêng của C. Và người thừa kế của C sau khi C chết là
M và B chứ không phải D. Bởi vậy, trong trường hợp này không thể xem hành vi
giết người thừa kế cùng hàng của D là nhằm chiếm đoạt một phần di sản của A
được.
Trường hợp khác, giả sử, kẻ giết người cũng là một người có quyền hưởng thừa
kế của người bị giết, thì các quy tắc thiết lập tại điểm a khoản 1 điều 643 sẽ được áp
dụng.
Ví dụ: A và B kết hôn hợp pháp, có ba người con chung là C, D, E. Tháng
7/2010 A chết. Tháng 8/2010, C giết B. Trong trường hợp này có thể thấy, C là
người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của B. Nhưng C đã có hành vi giết B, nên theo
điểm a khoản 1 điều 643, C sẽ không được quyền hưởng di sản của B. Tuy nhiên, C
hoàn toàn không ở tình trạng không có quyền hưởng di sản của A.
Người thừa kế thực hiện hành vi xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác
với mong muốn làm tăng phần thừa kế mình được hưởng một cách trực tiếp trong di
sản của người mà họ và người có tính mạng bị xâm hại được hưởng chung. Sự
mong muốn ấy phải có cơ sở trên thực tế.
Nếu như trường hợp như ví dụ sau đây thì có thể xem là mục đích làm tăng
thêm phần của mình được hưởng là không có căn cứ:
Ví dụ: A và B kết hôn hợp pháp, có ba người con chung là anh C, anh D và chị
E. Anh C kết hôn hợp pháp với chị M và có con chung là cháu K và cháu H. Tháng
~8~


5/2009 ông A chết mà không để lại di chúc. Trong trường hợp này, di sản của ông
sẽ được chia đều cho bốn người thuộc hàng thừa kế thứ nhất đó là bà B (vợ ông A)
và ba người con: anh C, anh D và chị E. Trong trường hợp này, giả sử trước khi ông

A chết, anh D có hành vi giết anh C. Tuy nhiên, do anh C có người thế vị, nên dù D
có giết C cũng không thể tăng thêm phần di sản mình được hưởng được, mà phần di
sản (đáng lý được để lại cho C) thì hai cháu K và H sẽ được hưởng theo nguyên tắc
thế vị.
Trái lại, trong trường hợp nếu A có để lại di chúc thì phần tài sản để lại cho anh
C sẽ bị vô hiệu và sẽ được đem ra chia theo pháp luật và kẻ giết người – anh D sẽ
được hưởng một phần trong đó.
- Thứ hai, động cơ phạm tội phải được ghi nhận trong bản án. Do đó, bản án
không thể được tuyên trước khi mở thừa kế. Vì sẽ rất bất hợp lý nếu gán cho một
người có ý định chiếm đoạt phần tài sản (di sản) không tồn tại ở thời điểm phạm tội
và cũng không tồn tại ở thời điểm xét xử. Bản án chỉ có thể được tuyên sau khi mở
thừa kế. Trong trường hợp án đã xử xong trước thời điểm mở thừa kế thì có thể
được xét xử lại theo thủ tục tái thẩm.
Cũng giống như trong trường hợp nêu tại điểm a khoản 1 điều 643 thì dù người
thừa kế phạm tội quy định tại điều khoản này được xóa án tích thì vẫn không được
hưởng di sản.
Tuy nhiên, cũng không nên bỏ qua một thực tế rằng người cung cấp bằng chứng
về động cơ phạm tội thông thường là người có quyền và lợi ích liên quan đến di sản
và không loại trừ trường hợp là người đồng thừa kế. Giả sử người phạm tội và bị
tuyên không có quyền hưởng di sản thì chính người cung cấp chứng cứ đồng thời là
người thừa kế đó sẽ nhận lấy phần của người phạm tội và phần của người để lại di
sản (một phần hoặc toàn bộ).
Cùng xem xét vấn đề này qua ví dụ sau đây: A và B kết hôn hợp pháp và có hai
người con chung là anh C và anh D. Ngày 15/8/2008, C giết mẹ của mình là B. Do
mang bệnh đã lâu, đồng thời cú sốc về tinh thần quá lớn khi biết tin C giết B nên
đến ngày 16/8/2008, A qua đời mà không để lại di chúc. D đâm đơn tố giác C với
~9~


hành vi giết B nhằm làm tăng phần di sản của mình được hưởng sau khi A qua đời.

Tòa tuyên C không được quyền hưởng di sản. Nghiễm nhiên, sau sự kiện này, D
được hưởng toàn bộ di sản của ông A (do là người thừa kế duy nhất có quyền
hưởng di sản), hưởng toàn bộ di sản của bà B (do là người thừa kế duy nhất có
quyền hưởng di sản).
Qua tình huống nêu trên có thể thấy, không thể loại trừ khả năng người cung
cấp chứng cứ thúc đẩy vụ án chỉ vì lợi ích vật chất đó. Nếu có đủ bằng chứng về
động cơ hành động của người tố giác hoặc khởi kiện thì việc đó có nên hay không
áp dụng điều 643 đối với người bị tố giác và khởi kiện. Đây có thể xem là một vấn
đề vẫn còn vướng mắc và cần được chú ý thêm qua 20 năm áp dụng quy định về
người không được quyền hưởng di sản.
d. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong
việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một
phần hặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản (điểm d khoản 1 điều
643)
Di chúc thể hiện ý chí của người có tài sản lập ra, định đoạt phần tài sản đó của
mình cho những người thừa kế sau khi người lập di chúc chết đi. Di chúc là một
giao dịch đơn vụ, có nghĩa là giao dịch dân sự chỉ thể hiện ý chí của một bên – đó là
người lập di chúc. Ý chí của người lập di chúc là hoàn toàn tự do, tự nguyện, tự
định đoạt tài sản của mình cho người đã được chỉ định. Pháp luật cũng quy định về
điều kiện để lập di chúc (điều 647 BLDS 2005), theo đó, người lập di chúc phải đủ
điều kiện về độ tuổi lập di chúc và điều kiện để di chúc hợp pháp (điều 652 BLDS
2005), theo đó người lập di chúc phải trong tình trạng minh mẫn, sáng suốt, hoàn
toàn làm chủ được suy nghĩ và hành vi của bản thân, không bị ràng buộc bởi bất cứ
tác nhân nào. Người lập di chúc hiểu được mình muốn định đoạt tài sản như thế
nào.
Quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của cá nhân chính là quyền định đoạt tài
sản của chủ sở hữu khi còn sống. Hành vi cản trở đối với người lập di chúc là hành

~ 10 ~



vi trái pháp luật, do vậy, người có hành vi cản trở sẽ bị tước quyền hưởng di sản do
người có di sản để lại.
Điều luật nhắc tới các hành vi lừa dối, cưỡng ép, ngăn cản việc lập di chúc, giả
mạo, sửa chữa, hủy di chúc, tuy nhiên còn một số hành vi không được nhà làm luật
nêu ra như làm di chúc giả, giấu giếm di chúc,… có thể được xử lý theo nguyên tắc
áp dụng pháp luật tương tự.
Có thể thấy, khác với ba trường hợp không được quyền hưởng di sản đã kể trên,
trường hợp này được dự kiến trong điều kiện mối quan hệ được bảo vệ là quyền
thừa kế theo ý nghĩa vật chất chứ không phải theo ý nghĩa đạo đức. Trên thực tế,
nếu người lập thừa kế bị cưỡng ép hoặc ngăn cản trong việc lập di chúc thì người đó
vẫn có thể sử dụng quyền truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; còn nếu hành
vi cưỡng ép, ngăn cản có dấu hiệu bạo lực nghiêm trọng thì có thể áp dụng các quy
tắc trong trường hợp đầu tiên đã nêu. Điều đáng lưu ý là, trong trường hợp người
thừa kế có hành vi lừa dối người lập di chúc hoặc giả mạo di chúc,… mà không
nhằm mục đích hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người lập di
chúc thì chỉ áp dụng các biện pháp chế tài thông thường của luật dân sự như bồi
thường thiệt hại chứ không áp dụng theo khoản 1 điều 643.
Cũng có một số trường hợp, hành vi bị cấm được thực hiện vẫn với mong muốn
được hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người lập di chúc,
nhưng lại không trái với đạo đức hoặc trái đạo đức nhưng ít nghiêm trọng hơn so
với quyết định của người lập di chúc. Trong các trường hợp đó, việc lựa chọn biện
pháp xử lý nên là kết quả của một quá trình xem xét vừa có lý vừa có tình.
e. Những người thừa kế thuộc một trong các trường hợp đã kể trên vẫn có
quyền hưởng di sản
Theo khoản 2 điều 643 BLDS thì: “Những người quy định tại khoản 1 điều này
vẫn được hưởng di sản nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó
nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”
Theo quy định tại điều khoản này thì người để lại di chúc sau khi biết được các
hành vi của người thừa kế, vốn không được quyền hưởng di sản theo khoản 1 điều

~ 11 ~


643 BLDS nhưng vẫn thể hiện ý chí cho người này hưởng di sản thì người này cũng
vẫn được hưởng di sản thừa kế tuy nhiên chỉ được hưởng di sản theo di chúc. Nếu
một phần di sản không phát sinh hiệu lực hay người để lại di sản không định đoạt
hết phần tài sản của mình, người thừa kế đã nêu trên không có quyền hưởng di sản
thừa kế theo pháp luật.
Như vậy có thể thấy pháp luật luôn có những quy định tôn trọng quyền tự định
đoạt tài sản theo ý chí chủ quan của người để lại di sản, tuy biết được hành vi của
người mà nếu theo quy định của pháp luật là bất xứng nhưng vẫn thể hiện ý chí cho
họ hưởng di sản thì họ được hưởng di sản theo di chúc. Theo quy định này, pháp
luật thừa kế Việt Nam hiện hành đã thể hiện rõ bản chất nhân đạo và phù hợp với
quan niệm trong nhân dân ta là tha thứ cho những hành vi theo quy định của pháp
luật là phạm pháp nhưng trên phương diện của quan hệ xã hội thông thường, người
có hành vi vi phạm pháp luật này vẫn được những người thân thích tha thứ.
III. Một số nhận xét cùng những ý kiến đề xuất nhằm làm hoàn thiện quy
định về những người thừa kế không có quyền hưởng di sản theo pháp luật.


Thứ nhất, trong điều 643 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định người không

được quyền hưởng di sản, bao gồm cả người thừa kế theo luật và cả người thừa kế
theo di chúc. Đó là những người đáng lẽ được hưởng di sản vì theo quy định của
pháp luật thì họ là người thừa kế của người để lại di sản hoặc đã được lập di chúc
cho họ hưởng nhưng những người này lại có hành vi trái pháp luật, trái đạo đức nên
bị pháp luật tước đi quyền hưởng di sản theo luật cũng như theo di chúc. Tuy nhiên
tính trái pháp luật và đạo đức trong hành vi của người thừa kế phải được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xác định bằng một bản án hoặc bằng một quyết định. Mặt
khác, một bản án chỉ được thi hành khi đã có hiệu lực pháp luật bởi nó có thể bị sai

sót và có thể bị một cấp xét xử khác sửa đổi hoặc hủy bỏ. Điều 10 Bộ luật tố tụng
hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định : “ Không ai có
thể bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết tội dù đã có hiệu lực của tòa án”. Vì vậy,
hành vi của người thừa kế dù đã bị kết án bằng một bản án thì vẫn chưa thể kết luận
người đó phạm tội. Bản án đó chỉ được coi là căn cứ để tước quyền hưởng di sản
~ 12 ~


của người có tên trong di chúc khi đã có hiệu lực pháp luật. Do vậy, việc tranh chấp
thừa kế trong những trường hợp này chỉ được tiến hành giải quyết chừng nào bản án
nói trên đã có hiệu lực pháp luật.


Thứ hai, có cần hay không một bản án về tình trạng không được hưởng di

sản? Văn bản luật không nói gì tới các thủ tục thiết lập tình trạng không có quyền
hưởng di sản. Điều đó có nghĩa rằng, không có quyền hưởng di sản phát sinh một
cách đương nhiên do hiệu lực của pháp luật, một khi các điều kiện cần thiết đã hội
tụ đầy đủ. Tất nhiên, trong trường hợp có sự phản đối thì có thể sẽ có một vụ án.
Nhưng khi đó, tòa án chỉ làm một công việc duy nhất đó là xác nhận hay không tình
trạng không có quyền hưởng di sản dựa trên kết quả thẩm định của các yếu tố liên
quan. Sự tồn tại của một bản án kết án người thế vị về hành vi trái pháp luật quy
định tại khoản 1 điều 643 BLDS. Nói cách khác, không có bản án thiết lập tình
trạng không có quyền hưởng di sản mà chỉ có bản án tuyên bố tình trạng đó.
Trong khung cách của đạo đức và pháp lý của việt Nam, quyền kiện cáo liên
quan tới tình trạng không có quyền hưởng di sản của một người phải được coi là
một quyền gắn liền với nhân thân của người có quyền hưởng di sản, bởi vậy, chỉ có
họ mới được phép thực hiện quyền này trước tòa: vấn đề ở đây không phải là có lợi
hay không có lợi mà là làm như thế nào để răn đe ai cố tình chà đạp lên các giá trị
được pháp luật bảo vệ.



Thứ ba, những người không có quyền hưởng thừa kế theo pháp luật của

người để lại di sản, là những người bị kết án về một trong các hành vi theo quy định
tại Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 thì họ không có tên trong hàng thừa kế được
hưởng di sản. Như vậy, khi xác định suất thừa kế theo pháp luật để tính kỷ phần cho
những người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo quy định tại
điều 669 BLDS 2005 thì họ sẽ không là tham số trong số chia để nhân suất, vì họ
không có quyền hưởng di sản theo pháp luật.


Thứ tư, trong thực tiễn có nhiều trường hợp con, cháu vi phạm nghĩa vụ

đạo lý với cha, mẹ, ông, bà. Vì vậy cần phải hạn chế quyền lợi của những người có

~ 13 ~


hành vi vi phạm đó. Những người này cần phải bị pháp luật tước quyền thừa kế di
sản.


Thứ năm, tuy những quy định tại điều 643 BLDS là hoàn toàn phù hợp với

đạo lý, phong tục, tập quán của nhân dân ta nhưng trong điều luật trên còn có những
nội dung chưa rõ ràng có thể dẫn đến việc áp dụng giải quyết tranh chấp về thừa kế
không thống nhất giữa các toà án. Ví dụ như điểm b Khoản 1 điều 643 BLDS quy
định người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản thì không
có quyền hưởng di sản. Vậy những người thừa kế nào có nghĩa vụ nuôi dưỡng

nhau? Quy định này có thể dẫn đến hiểu nhầm là cháu có nghĩa vụ nuôi dưỡng cô,
dì, chú, bác vì hàng thừa kế thứ ba là cô, dì, chú, bác và cháu gọi người chết là cô,
dì, chú, bác.
Ngoài ra còn một điểm không rõ ràng nữa đó chính là như thế nào thì được coi
là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ? Vấn đề này vốn dĩ hoàn toàn phụ
thuộc vào ý chí của thẩm phán. Cần phải có một văn bản pháp luật hướng dẫn để có
sự thống nhất giữa các tòa án, cũng như minh bạch trong việc đánh giá tính nghiêm
trọng của hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng. Khi pháp lệnh thừa kế năm 1990 ra
đời thì theo đó là Nghị quyết 02/NQ/HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1990 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (hiện không còn hiệu lực) hướng dẫn về
việc áp dụng một số quy định của pháp lệnh thừa kế trong đó có nêu: Những người
có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau theo quy định tại các Điều 19, Điều 20 và Điều 27
của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, trong khoảng thời gian 3 năm trước khi
người để lại di sản chết nếu có khả năng thực hiện nuôi dưỡng mà không thực hiện
làm cho người cần được nuôi dưỡng lâm vào tình trạng khổ sở hoặc nguy hiểm đến
tính mạng thì không có quyền hưởng di sản của người đó. (02/1990/NQ – HĐTP –
2,b). Qua đó, có thể thấy Nghị quyết này là tương đối phù hợp với thực tế nên cần
tiếp thu tinh thần đó để ban hành một văn bản hiện hành để Tòa án có cơ sở pháp lý
áp dụng khi giải quyết thừa kế.
 Thứ sáu, ngoài các hành vi được quy định trong khoản 1 điều 643 BLDS cần
phải xem xét đến một hành vi nguy hiểm khác của người thừa kế như hành vi che
~ 14 ~


giấu tội giết người để lại. Khi người thừa kế biết rõ ràng người khác giết người để
lại di sản nhưng lại không tố giác hành vi đó mà còn thực hiện hành vi che giấu tội
phạm đặc biệt nguy hiểm. Hành vi của người thừa kế không những vi phạm pháp
luật nghiêm trọng mà còn vi phạm đạo đức xã hội. Người đã thực hiện hành vi che
giấu tội phạm xâm hại tính mạng của người để lại di sản thì không xứng đáng nhận
di sản. Vì vậy mà khoản 1 điều 643 nên quy định thêm điểm này.

 Thứ bảy, theo quy định của pháp luật thì trong trường hợp người không được
hưởng quyền thừa kế chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì sẽ
không phát sinh thừa kế thế vị với con của người này. Bởi lẽ, vốn dĩ, ngưới không
được hưởng quyền thừa kế sẽ không được nhận bất cứ phần di sản nào để có thế vị.
Tuy nhiên, xét trên cả lý luận và thực tiễn thì: không có quyền hưởng di sản là một
chế tài áp dụng đối với riêng người có lỗi. Nên chăng cần xem xét người được thế
vị có hay không được hưởng thừa kế thế vị trong trường hợp cha hoặc mẹ của họ là
những người không được quyền hưởng di sản?
KẾT THÚC
Có thể nói, vấn đề về thừa kế trong pháp luật Việt Nam hiện này đang ngày
càng được hoàn thiện với nhiều những điểm mới tiến bộ nhằm răn đe đồng thời
cũng để nâng cao đạo đức của người thừa kế với những điều kiện để được hưởng
quyền nhận di sản đồng thời làm triệu tiêu quyền của những người thừa kế đã vi
phạm pháp luật liên quan đến thừa kế di sản. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn
những điểm chưa hợp lý, những vấn đề pháp luật chưa đề cập tới, hoặc có đề cập
nhưng chưa cụ thể dẫn tới sự khó khăn trong việc áp dụng pháp luật cũng như áp
dụng pháp luật mang tính chủ quan của thẩm phán, thiết nghĩ, cần có sự sửa đổi bổ
sung nhằm hoàn thiện pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng.

~ 15 ~


MỤC LỤC
Mục
LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I.
Lý luận chung về thừa kế
1. Khái niệm thừa kế, quyền thừa kế
2. Di sản

3. Thừa kế theo pháp luật
4. Người thừa kế
II. Người không được hưởng quyền si sản theo quy định tại khoản 1
Điều 643 Bộ luật dân sự 2005
a. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc
về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm
phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó (điểm a khoản
1 điều 643)
b. Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di
sản (Điểm b khoản 1 điều 643)
c. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế
khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người
thừa kế đó có quyền hưởng (điểm c khoản 1 điều 643)
d. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di
sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy
di chúc nhằm hưởng một phần hặc toàn bộ di sản trái với ý chí của
người để lại di sản (điểm d khoản 1 điều 643)
e. Những người thừa kế thuộc một trong các trường hợp đã kể trên
vẫn có quyền hưởng di sản
III. Một số nhận xét cùng những ý kiến đề xuất nhằm làm hoàn thiện
quy định về những người thừa kế không có quyền hưởng di sản
theo pháp luật.
KẾT THÚC

~ 16 ~

Trang
1
1
1

1
1
2
2
2
3

4
6

10

11
12

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập 1,

Nxb. Công an nhân dân, 2006
2.

Ts. Lê Đình Nghị (Chủ biên), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập 1,

Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2009
2.


Bộ luật Dân sự 2005.

3.

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.

4.

Bộ luật Hình sự năm 1999

5.

Ts. Phùng Trung Tập, Luật thừa kế Việt Nam, Nxb. Hà Nội, 2008

~ 17 ~



×