Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Vai trò của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.1 KB, 17 trang )

MỞ BÀI
Trong giao dịch dân sự thường này, nhất là giao dịch kinh tế thương mại, việc
phát sinh tranh chấp là không thể tránh khỏi; và giải quyết nhanh chóng, hiệu quả,
công bằng các tranh chấp này sẽ góp phần thúc đẩy các hoạt động dân sự, kinh tế,
thương mại, đầu tư; tạo sự yên tâm cho các bên ngay từ khi mới hình thành quan hệ
dân sự và cả khi có phát sinh tranh chấp. Do vậy, mục tiêu quan trọng nhất của pháp
luật trọng tài là tạo một cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án thuận lợi cho các
bên, đặc biệt là các bên tham gia các hoạt động thương mại, đầu tư. “Việc ban hành
và thực hiện Luật trọng tài sẽ giảm tải khoảng 10% số lượng tranh chấp kinh tế cho
toà án, chuyển sang giải quyết thông qua hệ thống trọng tài vào năm 2015” 1 Ngoài
ra, luật còn nhằm góp phần làm phát triển cả về quy mô và chất lượng của hệ thống
trọng tài và các trọng tài viên ở Việt Nam. Do vậy việc nhà nước ban hành luật trọng
tài thương mại 2010 là một bước tiến lớn trong việc giải quyết tranh chấp thương
mại tạo hành lang pháp lý chặt chẽ hơn trong lĩnh vực này. Mặc dù vậy bất cứ luật
nào cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định vì vậy em xin chọn đề tài “Phân
tích những hạn chế của pháp luật trọng tài thương mại hiện hành và đề xuất hướng
hoàn thiện.”.

NỘI DUNG
1. Những vấn đề chung về pháp luật trọng tài thương mại hiện
hành
1.1 Khái niệm và đặc điểm của trọng tài thương mại
1.1.1 Khái niệm trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại có một quá trình phát triển lâu dài. Đặc biệt là ở những
nước có nền kinh tế thị trường pháp triển. Bởi thế, trên thế giớ trọng tài thương mại
đã trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp khá phổ biến.
1

Hàng năm sẽ có khoảng 800 vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài.



Trong thương mại quốc tế, trọng tài được hiểu là hình thức xét xử do các bên
lập ra trên cơ sở thỏa thuận và trong lĩnh vực mà pháp luật đã quy định để giải quyết
các tranh chấp chính các bên đương sự đó. Ngoài ra, trọng tài cũng thường được gọi
là phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án được các bên thỏa thận lựa chọn.
Trong khoa học pháp lý, khái niệm trọng tài thương mại được nghiên cứu ở
góc độ khác nhau. Vì vậy, cũng có nhiều quan niệm khác nhau về trọng tài. Tùy theo
từng hệ thống pháp luật cùng với hệ thống lập pháp khác nhau, khái niệm trọng tài
cũng được ghi nhận theo nhiều cách khác nhau. Nhìn một cách khái quát nhất nó
thường được hiểu theo hai nghĩa sau:
- Trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết tranh chấp.
Theo hướng này trọng tài thương mại được iểu là một cơ quan tài phán có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp pháp sinh trong hoạt động thương mại. trọng tài
được pháp luật thừa nhận là một cơ quan tài phán độc và tồn tại song song với tòa án.
- Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp.
Đây là một cách hiểu phổ biến được quy định trong luật pháp các nước về
trọng tài. Theo cách hiểu này thì trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết
tranh chấp thông qua giải quyết của trọng tài viên với tư cách là bên thứ 3 độc lập
nhằm chấm dứt xung đột bằng cách đưa ra một phán quyết trên cơ sở sự thỏa thuận
của các bên tranh chấp và phán quyết có giá trị chung thẩm. Bên thứ ba đó là trọng
tài viên hoặc trong tài viên duy nhất được lựa chọn theo trình tự luật định.
Như vậy, trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp hoặt
trọng tài thương mại là một cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
phát sinh trong đời sống xã hội.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010: “trọng tài thương mại là
một phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận được tiến hành theo
quy định của luật này”
Như vậy, pháp luật Việt Nam quy định về trọng tài thương mại đều ghi nhận
trọng tài thương mại với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp.
1.1.2 Đặc điểm của trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại có những đặc điểm sau:



Thứ nhất, tôn trọng quyền định đoạt của các bên tranh chấp:
Trọng tài là cơ quan tài phán tự giải quyết tranh châp tư bởi vậy nguyên tắc
đầu tiên giải quyết tranh chấp là tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên.
Thứ hai, trọng tài xét xử kín
Thêm một đặc trưng nữa của trọng tài là phiên họp giải quyết tranh chấp không
công khai. Sở dĩ có đặc điểm này vì tòa án là cơ quan tài phán của nhà nước nên phải
đảm bảo tính minh bạch, công khai đảm bảo cơ chế giám sát của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. tuy nhiên xét xử kín cảu trọng tài cũng được thực hiện trên cơ sở sự
nhất trí của đương sự.
Thứ ba, trọng tài giải quyết tranh chấp trong giới hạn yêu cầu của các bên.
Khi các bên có yêu cầu giải quyết một phần hoặc toàn bộ tranh chaaso thì trọng tài
cũng chỉ giải quyết một phần hoặc tòa bộ vụ tranh chấp theo yêu cầu đó.
Thứ tư, các bên có quyền tự thương lượng toàn bộ quá trình giải quyết tranh
chấp.
Các bên có quyền tự thỏa thuận giải quyết tranh chấp ở các giai đoạn của tố
tụng trọng tài: từ giai đoạn hòa giải cho đến khi hội đồng trọng tài mởi phiên họp giải
quyết tranh chấp, ngay cả tại phiên họp của hội đồng trọng tài nếu các bên thương
lượng với nhau nhằm giải quyết tranh chấp thì hội đồng trọng tài quyết định đình chỉ
giải quyết đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp.
Thứ năm, trọng tài chỉ giải quyết một lần
Đây là một nguyên tắc giải quyết tranh chấp của trọng tài. Tranh chấp có thể
được giải quyết tại một trung tâm trọng tài hoặc tại hồi đổng trọng tài do các bên
thành lập.
1.2 Vai trò của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp kết hợp được ưu điểm
của thương lượng và giải quyết của tòa án. Cụ thể: toos tụng trọng tài vủa đảm bảo
được sự tự do thỏa thuận, bí mật kinh doanh, uy tín cho các bên giữ được quan hệ
các bên khi giải quyết tranh chấp như hình thức thương lượng hòa giải, vừa đảm bảo

được sự chặt chẽ về thủ tục tố tụng và tài phán như tòa án. Do vậy, trọng tài là hình
thức giải quyết tranh chấp phổ biến ở các nước có nền kinh tế pháp triển, được các


nhà kinh doanh sử dụng như là một hình thức tối ưu trong việc giải quyết các tranh
chấp thương mại

2. Những hạn chế của pháp luật trọng tài thương mại hiện
hành và đề suất hướng hoàn thiện trong giai đoạn hiện nay
2.1 Thực trạng những bất cập, hạn chế trong pháp luật trọng tài
thương mại
2.1.1 Thực trạng
Vấn đề lớn nhất hiện nay là trọng tài tại Việt Nam rất ít được sử dụng để giải
quyết các tranh chấp đầu tư và thương mại; các hợp đồng với các bên nước ngoài
nhất là hợp đồng có trị giá lớn hầu như không lựa chọn trọng tài tại Việt Nam để
giải quyết tranh chấp. Các tranh chấp ở Việt Nam hiện vẫn chủ yếu được giải quyết
thông qua hệ thống toà án hoặc trọng tài nước ngoài.
Theo thống kê năm 2007 về giải quyết các vụ tranh chấp về dân sự, kinh
doanh thương mại và lao động, thì toà án các tỉnh đã thụ lý 108.060 vụ; đã xử lý
được 80.773 vụ. Ngoài ra, có 1.280 vụ được kháng cáo lên toà án tối cao.2 Theo
thống kê của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), trong khi VIAC (1
trong 7 tổ chức trọng tài lớn nhất Việt Nam và có số vụ kiện thụ lý nhiều nhất Việt
Nam) cũng chỉ tiếp nhận khoảng 30 vụ, tính trung bình, mỗi trọng tài viên của VIAC
chỉ xử 0,25 vụ một năm, thì mỗi thẩm phán ở tòa kinh tế Hà Nội phải xử trên 30 vụ
một năm và mỗi thẩm phán ở tòa kinh tế Thành phố HCM xử trên 50 vụ một năm.
Trên thế giới, nhiều tranh chấp kinh tế, thương mại vẫn tiếp tục được giải
quyết bằng trọng tài, ví dụ tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Singapore (119 vụ), Hiệp
hội Trọng tài Mỹ (621 vụ); Toà án Trọng tài Quốc tế bên cạnh Phòng Thương mại
Quốc tế ICC (599 vụ); Hội đồng Trọng tài Thương mại và Kinh tế Trung Quốc
(1.118 vụ); Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hồng Kông (448 vụ)3

2
3

Số liệu thống kê tình hình xét xử của toà án ở 64 tỉnh, thành phố giai đoạn 1-1-2007 đến 31-12-2007.
/>

Hệ thống khung pháp luật điều chỉnh hoạt động của trọng tài hiện nay mặc dù
có những đóng góp to lớn cho việc đặt nền móng hình thành và phát triển hệ thống
trọng tài, nhưng còn những bất cập, làm cho hệ thống trọng tài chưa trở thành phương
thức hấp dẫn và hiệu quả để các bên lựa chọn giải quyết các tranh chấp liên quan
(trình bày cụ thể trong phần dưới đây).4
Việc các tranh chấp chủ yếu được xét xử thông qua hệ thống toà án và Trung
tâm trọng tài quốc tế ở nước ngoài có thể gây ra những tác động tiêu cực cho doanh
nghiệp và phát triển kinh tế, thương mại ở nước ta. Hệ thống toà án đã trở nên quá
tải dẫn đến làm ảnh hưởng đến chất lượng vụ xét xử sơ thẩm, tăng việc vụ việc xét xử
phúc thẩm, kéo dài thời gian xử lý, tăng lượng vụ tồn đọng, không kịp giải quyết; do
đó làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc xử lý các tranh
chấp tại trung tâm trọng tài ở nước ngoài có thể gây ra bất lợi cho doanh nghiệp
Việt Nam về chi phí, thời gian đi lại, ngôn ngữ, tiện lợi, ….
2.1.2 Ưu điểm của trọng tài thương mại

Do đó, thúc đẩy việc giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài không những
giúp khắc phục những tác động tiêu cực nói trên mà so với Toà án, việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài có một số ưu điểm sau đây:


Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp trung lập cho các bên:




Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mang tính chuyên môn cao.



Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng, thuận lợi
cho các bên

• Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật


Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp dứt điểm
Trong bối cảnh hội nhập ngày nay, sự ra đời của trọng tài thương mại - một tổ

chức xã hội - nghề nghiệp do các trọng tài viên thành lập trên cơ sở giấy phép của Bộ
Tư pháp nhằm giải quyết các tranh chấp phát sing trong hoạt động sản xuất kinh
4

GS. Đào Trí Úc (2008): Tham luận góp ý cho dự thảo Luật trọng tài


doanh – là điều phù hợp và tất yếu. Theo PGS.TS Dương Đăng Huệ - vụ trưởng Vụ
Pháp luật Dân sự - Kinh tế Bộ Tư pháp, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
có nhiều ưu thế khi mà đất nước tham gia hội nhập với thế giới. Trước hết,cơ chế này
đảm bảo bí mật kinh doanh và uy tín nghề nghiệp cho các thương nhân có liên quan
tới vụ tranh chấp. Có được ưu điểm này là do nguyên tắc xét xử của trọng tài là xét
xử bí mật, tức là không ai có quyền tham dự phiên họp xét xử nếu không được sự
đồng ý của các bên. Trong khi đó, nguyên tắc xét xử của toà án là xét xử công khai.
Thứ hai, cơ chế giải quyết bằng trọng tài thương mại có thủ tục đơn giản, đảm bảo
giải quyết nhanh chóng các tranh chấp, tiết kiệm thời gian chờ.
Và theo ông Dương Đăng Huệ, “tố tụng trọng tài được đánh giá là linh hoạt,

bảo đảm tốt hơn quyền định đoạt của các bên” 5, cụ thể là: tự quyết định chọn hình
thức trọng tài là ad-hoc hay thể chế, tự chọn tổ chức trọng tài cũng như trọng tài viên
mà mình ưa thích, thời gian, địa điểm giải quyết… Ngoài ra, trọng tài thương mại
không đại diện cho quyền lực Nhà nước nên rất phù hợp để giải quyết các tranh chấp
mà các bên có quốc tịch khác nhau (Toà án nói là được độc lập nhưng cũng dễ bị chi
phối bởi quyền lợi dân tộc, do đó các bên tranh chấp có quốc tịch khác nhau thường
không thích chọn toà án của nhau). Vì vậy, họ thường thích chọn trọng tài, nhất là
trọng tài của nước thứ ba để đảm bảo tính khách quan trong việc giải quyết tranh
chấp.Cuối cùng, một ưu thế nữa là các phán quyết của trọng tài được công nhận và
cho thi hành ở nước ngoài. Công ước New York 1958 về công nhận và cho thi hành
các quyết định của trọng tài nước ngoài đã quy định rằng các nước thành viên của
công ước này có nghĩa vụ công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài của
nước bên kia cũng là thành viên.
2.1.3 Những hạn chế của trọng tài thương mại hiện hành

Tuy nhiên, việc GQTC bằng Trọng tài thương mại tại Việt Nam tính đến thời
điểm hiện tại vẫn còn rất nhiều điểm hạn chế, mà thể hiện là 7 TTTT tại Việt Nam
đang loay hoay tìm lối đi riêng hoặc trông chờ cào sự thay đổi trong cơ chế pháp lý.
PGS TS Dương Đăng Huệ - Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế (Bộ Tư pháp) nhận xét về tố
tụng trọng tài
5


 Trước hết, đó là hạn chế trong chính quy định về phạm vi áp dụng của

phương thức, như đã trình bày Phạm vi GQTC của Trọng tài chỉ trong lĩnh vực
tranh chấp thương mại. Cho dù khái niệm của lĩnh vực này theo quy định của pháp
luật Việt Nam là khá rộng nhưng phần nào đây cũng có thể xem là hạn chế trong xu
thế toàn cầu hóa hiện nay.
Được biết, Trọng tài ở các quốc gia khác có thẩm quyền giải quyết từ tranh

chấp thương mại lẫn dân sự; điều này hợp lý bởi xuất phát của quan hệ thương mại là
một phần trong quan hệ dân sự nên các các giao dịch thương mại nên để các bên tự
định đoạt và quyết định, trong đó có quyền lựa chọn phương thức GQTC.
Ngoài ra, trong hạn chế về phạm vi thẩm quyền của Trọng tài tại Việt Nam còn
thể hiện ở vấn đề hạn chế yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi thụ
lý hồ sơ, muốn thực hiện việc này phải thông qua Tòa án. Do vậy, cuối tháng
11/2009 vừa qua, các nhà làm luật Việt Nam đã đưa ra bàn thảo tại Quốc Hội về vấn
đề việc mở rộng thẩm quyền và phạm vi thụ lý hồ sơ của Trọng tài, trong đó có các
kiến nghị về việc bổ sung những nội dung cụ thể để bảo đảm việc áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện nhanh chóng, đảm bảo quyền lợi của bên đi
kiện. Đây có thể xem là một bước đi tất yếu và các doanh nghiệp nên theo dõi và có
những định hướng cho việc GQTC trong các giao thương của mình và đối tác.
 Thứ hai, các bên trong giao thương nên biết quy định về hủy quyết định

trọng tài (QĐTT), đó là khi một bên không đồng ý với quyết định của TTTT, các bên
có quyền yêu cầu Tòa án hủy QĐTT “trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được
QĐTT”. Tuy nhiên, Tòa án chỉ có thẩm quyền hủy QĐTT chỉ khi nào việc tiến hành
GQTC thương mại của TTTT/Trọng tài viên rơi vào một trong các trường hợp quy
định. Ở đây có đến 06 căn cứ để các bên dựa vào để yêu cầu Tòa án ra quyết định
hủy QĐTT như là: không có thỏa thuận Trọng tài hoặc thỏa thuận vô hiệu mà Hội
đồng Trọng tài vẫn ra quyết định, chứng minh được Trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ
theo quy định, sai phạm về thẩm quyền hoặc thành phần của Hội đồng Trọng tài,
nghĩa vụ của Trọng tài viên… Những căn cứ trên, theo quan điểm của tác giả, là
những hạn chế của phương thức GQTC bằng con đường Trọng tài.


Thực tế, bên không chấp nhận QĐTT có thể viện dẫn nhiều lý do để xin hủy
QĐTT bởi thực chất phạm vi của các căn cứ là rất rộng; khi đó Tòa án buộc phải
xem xét bằng việc kiểm tra thủ tục tố tụng Trọng tài chứ không xét lại nội dung vụ
tranh chấp để ra quyết định có hủy hay là không. Do vậy, tùy theo từng vụ việc cụ

thể, các đương sự trong tranh chấp phải xác định được con đường đi của phương
thức này, nếu nhận thấy sự sai phạm (hoặc cố vấn pháp lý của doanh nghiệp mình
cho rằng QĐTT có vấn đề) thì có thể yêu cầu tòa án hủy QĐTT để bảo vệ quyền lợi
cho mình.
Cũng xin được đề cập thêm rằng, khi QĐTT bị hủy thì có thể tiếp tục thỏa
thuận việc giải quyết bằng Trọng tài hoặc đưa vụ việc ra Tòa án và thực tế là Tòa án
luôn là nơi để các bên lựa chọn bởi trong trường hợp này, rất khó để các bên có thể
cùng nhau đạt được một thỏa thuận nào nữa. Các doanh nghiệp khi xảy ra tranh
chấp lúc này còn tính đến việc xem xét ngân sách cho việc kiện tụng và các hạn chế
của giải quyết tại Tòa án như đã trình bày ở mở đầu của bài viết.
 Thứ ba, đó là vấn đề về Trọng tài viên mà việc lường trước những hạn chế

có thể có sẽ là không thừa đối với các bên.
Theo quy định thì các bên trong quá trình soạn thảo điều khoản thỏa thuận
Trọng tài có thể thỏa thuận tên Trọng tài viên, cũng có cách khác là khi xảy ra tranh
chấp các bên thống nhất làm một Phụ lục để chọn Trọng tài viên của TTTT, nhưng
vấn đề này hơi khó vì khi đó các bên đã có tranh chấp, các bên có quyền nghi ngại
đề nghị một của một bên trong việc chọn Trọng tài viên cụ thể.
Thực tiễn khi các xem xét vụ việc, nếu các bên không thỏa thuận cụ thể thì Hội
đồng Trọng tài do Chủ tịch TTTT chỉ định, khi đó việc GQTC sẽ phụ thuộc vào năng
lực và quan điểm của Trọng tài viên. Tất nhiên việc chỉ định Trọng tài viên nào thì
Chủ tịch TTTT cũng có cơ sở của mình, có thể đó là chuyên môn và/hoặc kinh
nghiệm trong lĩnh vực tranh chấp. Tuy nhiên một khi việc giải quyết tranh chấp phụ
thuộc vào ý thức chủ quan của một cá nhân thì các bên có quyền nghi ngại từ năng
lực và/hoặc quan điểm cho đến kết quả giải quyết vụ việc của Trọng tài viên. Do vậy,
nên chăng các bên khi giao kết hoặc khi chọn giải quyết bằng Trọng tài hãy thỏa


thuận chọn một Trọng tài viên có chuyên môn về lĩnh vực đang tranh chấp, và tin
tưởng vào quan điểm cũng như tính vô tư khách quan của Trọng tài viên đó.

 Thứ tư, đó là hạn chế về luật áp dụng trong giải quyết Trọng tài và cũng là

cơ sở để cho rằng: việc giải quyết bằng Trọng tài hiện nay tại Việt Nam không thực
sự tiến bộ hơn so với Tòa án.
Điều này xuất phát từ ảnh hưởng của việc áp dụng luật Việt Nam của Tòa án
để giải quyết, những Trọng tài viên am hiểu luật pháp Việt Nam, bằng những cách
khác nhau đã hướng các bên tới áp dụng pháp luật Việt Nam trong GQTC thương
mại. Hạn chế thể hiện rõ nhất là việc GQTC có yếu tố nước ngoài, phần lớn các tranh
chấp được giải quyết bằng Trọng tài tính đến thời điểm hiện tại chủ yếu các tranh
chấp có yếu tố nước ngoài; khi đó bên nước ngoài phải thuê Luật sư hoặc chuyên gia
am hiểu lĩnh vực tranh chấp và pháp luật Việt Nam.
Ngoài các chi phí các bên bỏ ra luôn bị các doanh nghiệp xem là hạn chế thì
kết quả GQTC căn cứ vào luật nội dung của Pháp luật Việt Nam cũng khó để các
bên tâm phục, khẩu phục. Hệ quả là sự phản ứng, như kiện lên các cơ quan tài phán
quốc tế, kiện hủy QĐTT... Điều đó hoàn toàn không có lợi nếu không nói rằng sẽ ảnh
hưởng đến sự phát triển nền kinh tế Việt Nam nói chung và quan hệ giao thương
giữa các doanh nhân tại Việt Nam nói riêng.
2.2 Đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại hiện
hành.
Thứ nhất, mở rộng, xác định rõ và cụ thể phạm vi thẩm quyền của trọng tài.
Cụ thể, phạm vi thẩm quyền của trọng tài có thể bao gồm:
- Tất cả các tranh chấp dân sự, kinh tế và lao động đều có thể được giải quyết bằng
trọng tài, trừ một số ít các trường hợp được quy định cụ thể.
- Các tranh chấp giữa cơ quan quản lý nhà nước và nhà đầu tư trong việc chuẩn bị
đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư, khuyến khích và ưu đãi đầu tư trên lãnh
thổ Việt Nam cũng có thể được giải quyết bằng trọng tài.


Tác động tích cực của phương án này:
- Làm tăng số lượng tranh chấp được giải quyết ở TTTT, nhờ đó giảm tải được hoạt

động giải quyết tranh chấp ở hệ thống toà án; qua đó làm nâng cao chất lượng hoạt
động giải quyết tranh chấp. Do chất lượng xét xử ở toà án tăng lên, dẫn đến: giảm số
lượng vụ việc tồn đọng (thụ lý nhưng chưa giải quyết kịp); đẩy nhanh tiến độ giải
quyết ở toà án; giảm số lượng vụ việc phúc thẩm
- Có thể giảm được chi phí liên quan do phải mở rộng đội ngũ thẩm phám
Việc tăng số lượng giải quyết tranh chấp thông qua TTTT có thể mang lại
những tác động tích cực cho doanh nghiệp:
- Giảm chi phí cho doanh nghiệp liên quan đến giải quyết tranh chấp ở toà án, do
chất lượng xét xử ở toà án tăng lên, dẫn đến: giảm số lượng vụ việc tồn đọng (thụ lý
nhưng không giải quyết kịp); đẩy nhanh tiến độ giải quyết ở toà án; giảm số lượng
vụ việc phúc thẩm
- Giảm các chi phí cho doanh nghiệp do giải quyết tranh chấp ở TTTT bởi vì chi phí
trung bình giải quyết ở TTTT rẻ hơn so với hệ thống toà án.
- Giảm thiệt hại chi phí cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp do rút ngắn thời hạn
giải quyết; giữ được bí mật tranh chấp; giữ được bạn hàng sau khi giải quyết tranh
chấp,…
- Thúc đẩy phát triển hệ thông trọng tài, đội ngũ trọng tài viên ở nước ta
Thứ hai, mở rộng tiêu chí xác định thoả thuận trọng tài, theo hướng chú trọng
đến đến ý chí của các bên về việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp; tính đến
sự phát triển của công nghệ thông tin điện tử, giảm can thiệp tùy tiện của tòa án.
Giải pháp này phần làm giảm các vụ việc đáng ra được giải quyết ở trọng tài
những lại không thực hiện được do thoả thuận trọng tài không đủ điều kiện. Nói cách
khác, việc mở rộng tiêu chí xác định hiệu lực thoả thuận trọng tài sẽ góp phần mở


rộng phạm vụ vụ tranh chấp sẽ được giải quyết bằng trọng tài. Do đó, lợi ích phương
án này về cơ bản giống như phương án 1.
Thứ ba, trao thẩm quyền cho Hội đồng trọng tài là cơ quan duy nhất quyết
định hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, không cần phải đưa ra tòa án.
Lợi ích của phương án này:

- Giảm bớt công việc cho tòa án do giảm số vụ tòa án hủy quyết định TT do cho rằng
thỏa thuận TT vô hiệu. Điều này sẽ giúp giảm bớt gánh nặng của tòa án trong việc
xem xét lại quyết đinh của trọng tài có bị coi là vô hiệu hay không? Đảm bảo quyền
lợi của các bên trong tranh chấp.
- Tăng việc cho TT trọng tài. Đương nhiên với phương án này thì việc lựa chọn trọng
tài sẽ tốt hơn nên việc các bên tranh chấp lựa chọn TT trọng tài sẽ nhiều hơn.
- Tránh được thiệt hại cho các bên do giảm việc hủy quyết định của TTTT. Khi hủy
quyết định của trọng tài dẫn đến hậu quả pháp lý cũng kéo theo vì vậy trong trường
hợp này sẽ giảm được những thiệt hại không đáng có.
- Rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp. Việc rút ngắn thời gian giải quyết tranh
chấp rất quan trọng nó sẽ giúp các bên nhanh chóng bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, đồng thời nhanh chóng ổn định việc kinh doanh.
Thứ tư, xác định chặt chẽ, rõ ràng, hợp lý tiêu chí xác định Toà án có thẩm
quyền đối với Trọng tài, theo hướng linh hoạt; đồng thời cần xác định rõ trong
trường hợp nếu nhiều toà án có thẩm quyền thì các bên hoặc trung tâm trọng tài có
quyền lựa chọn một trong toà án đó và quy định rõ trách nhiệm hợp tác, phối hợp
công việc của toà án và không được quyền từ chối.
Lợi ích của phương án này:
- Quyết định hỗ trợ TTTT của toà án nhanh hơn, chính xác hơn và kịp thời hơn.


- Giúp cho các TTTT nhanh chóng hơn, chính xác hơn trong việc xác định toà án có
thể hỗ trợ trong hoạt động giải quyết tranh chấp. Qua đó:
+ Việc phối hợp của toà án và trọng tài tốt hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn (tác động
tích cực cho TTTT).
+ Việc giải quyết tranh chấp có hiệu quả hơn => tác động tích cực cho các bên
tranh chấp, bảo vệ tốt hơn lợi ích hợp pháp các bên
Thứ năm, Xác định rõ ràng hơn, cụ thể hơn trách nhiệm của toà án trong việc
hỗ trợ hoạt động trọng tài; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho trọng tài trong việc thu
thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng và áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Lợi ích phương án này tương tự như phương án 4.
Thứ sáu, xác định rõ các căn cứ toà án có thể huỷ quyết định trọng tài theo
hướng hạn chế hơn phạm vi huỷ quyết định của trọng tài.
- Giảm tải cho toà án trong việc thụ lý giải quyết các tranh chấp do huỷ quyết định
của trọng tài. Do đó, giảm được các chi phí có liên quan cho toà án trong việc huỷ
quyết định của TTTT và xét xử lại.
- Giảm thiệt hại là chi phí doanh nghiệp phải chịu khi giải quyết tranh chấp tại TTTT
mà bị huỷ
- Giảm được các thiệt hại cho doanh nghiệp là chi phí phải trả do quyết định của
TTTT bị huỷ và phải xử lý lại ở toà án.
- Giảm thiệt hại là chi phí mà TTTT phải chịu khi xử lý các tranh chấp nhưng sau đó
bị toà án huỷ.
Thứ bảy, cho phép hội đồng trọng tài được áp dụng biện pháp khẩn cấp, tạm
thời, và trực tiếp yêu cầu cơ quan thi hành án hỗ trợ thực hiện biện pháp này.
Lợi ích của phương án này:


- Giảm bớt được công việc cho toà án trong thực hiện yêu cầu TTTT về áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời
- TTTT chủ động hơn và kịp thời hơn trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời sẽ bảo vệ tốt hơn lợi ích hợp pháp các bên, giải quyết tranh chấp hiệu quả hơn,
bảo đảm cho việc thi hành pháp quyết sau này.
Thứ tám, Cho phép các bên có thể lựa chọn trọng tài viên nước ngoài; xét xử
bằng tiếng nước ngoài; áp dụng luật nước ngoài.
Mặc dù, trong phương án này thì lợi ích cho khu vực nhà nước là không rõ
ràng, nhưng lợi ích đối với khu vực doanh nghiệp là lớn, cụ thể:
- Tăng tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài hoặc giữa nhà đầu tư nước ngoài với
trong nước được giải quyết ở TTTT Việt Nam; kéo các tranh chấp trước kia thường
được giải quyết ở TTTT nước ngoài về giải quyết tại TTTT Việt Nam, sẽ góp phần
giảm chi phí cho doanh nghiệp Việt Nam khi vụ việc được giải quyết tại Việt Nam

- Tăng lựa chọn cho doanh nghiệp trong việc chọn trọng tài, cách thức giải quyết
tranh chấp. Lợi ích này chủ yếu tác động tích cực đến doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Thứ chín, cho phép các bên được thỏa thuận một cơ quan trung lập (ngoài tòa
án) chỉ định trọng tài viên (đối với trọng tài vụ việc) trong trường hợp một bên không
tiến hành chỉ định trọng tài viên hoặc các bên không thỏa thuận được việc chỉ định
trọng tài viên.
Lợi ích của phương án này:
- Giảm khối lượng công việc cho toà án trong việc chỉ định trọng tài theo yêu cầu
các bên
- Tăng lựa chọn cho doanh nghiệp


- Đẩy nhanh quá trình thành lập Hội đồng trọng tài
Thứ mười, cho phép các trunng tâm trọng tài khác nhau tự quy định điều kiện
trọng tài viên; ghi trong điều lệ thành lập.
Theo hướng này, nhà nước không nên quy định quá cao điều kiện để thể trở
thành trọng tài viên nhất là tiêu chí bằng cấp mà cần nhấn mạnh tiêu chí độc lập, vô
tư, khách quan của trọng tài viên, bên cạnh đó nên để các Trung tâm trọng tài tự quy
định về tiêu chuẩn của trọng tài viên. Do đó, lợi ích của phương án này là:
- Mở rộng cơ hội cho đối tượng có chuyên môn cao, nhưng còn thiếu bằng cấp, có thể
trở thành trọng tài viên sẽ làm mở rộng cơ hội phát triển nguồn nhân lực trọng tài
- Mở rộng cơ hội cho các bên tranh chấp lựa chọn trọng tài
- Mở rộng cơ hội cho chuyên gia nước ngoài làm trọng tài viên ở Việt Nam => tăng
vụ tranh chấp có “yếu tố nước ngoài” được giải quyết tại TTTT Việt Nam.
- Tăng cơ hội cho trọng tài Việt Nam học hỏi kinh nghiệm; => tăng động cơ, động
lực phấn đấu cho chuyên gia Việt Nam, dẫn đến nâng cao chuyên môn của đội ngũ
trọng tài Việt Nam nói chung (ví dụ = lợi ích hiện có của việc mở cửa thị trường dịch
vụ pháp lý).
Thứ mười một, Đơn giản hoá thủ tục, điều kiện thành lập Trung tâm trọng tài

Lợi ích của phương án này là:
- Tăng số lượng TTTT được thành lập
- Tăng lựa chọn cho bên liên quan trong việc giải quyết tranh chấp
- Tạo sự cạnh tranh và do đó, tăng chất lượng dịch vụ của các TTTT ở Việt Nam và
có thể giảm chi phí cho doanh nghiệp.


Thứ mười hai, đưa việc giảng dạy kỹ năng trọng tài vào một số trường đại
học.
Luật sư khi ra trường có hiểu biết nhiều về trọng tài sẽ khuyến khích các bên dùng
trọng tài nhiều hơn.
- Mở rộng nguồn nhân lực trọng tài do các sinh viên ra trường đã được trang bị kiến
thức nhất định về trọng tài.
Thứ mười ba, Nhà nước khuyến khích các TTTT tự nâng cao chất lượng dịch
vụ, quảng bá hoạt động của mình bằng cách miễn thuế cho TTTT.
- Thu hút nhiều hơn khách hàng cho chính TTTT đó.
- Lợi ích từ biện pháp khuyến khích của nhà nước.

KẾT LUẬN
Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy được những bất cập của pháp
luật trọng tài thương mại hiện hành. Mặc dù pháp luật trọng tài còn nhiều hạn chế,
bất cập nhưng không thể phủ nhận những ưu điểm của nó. Vì vậy, trong giai đoạn
hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang cố gắng khắc phục những hạn chế còn tồn tài khi
áp dụng pháp luật trọng tài trong thực tế bằng những biện pháp cụ thể, ban hành
những văn bản hướng dẫn thi hành chi tiết cụ thể... Chúng ta tin tưởng rằng pháp luật
trọng tài thương mại hiện hành (Luật trọng tài thương mại 2010) là một công cụ pháp
lý quan trọng trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay để giải quyết tranh chấp
thương mại một cách có hiệu quả và được áp dụng hiệu quả trên thực tế.



MỤC LỤC
MỞ BÀI.......................................................................................................................1
NỘI DUNG..................................................................................................................1
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
HIỆN HÀNH................................................................................................................1
1.1 KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.....................................1
1.2 VAI TRÒ CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI....3
2. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI HIỆN
HÀNH VÀ ĐỀ SUẤT HƯỚNG HOÀN THIỆN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY..............................................................................................................................4
2.1 THỰC TRẠNG NHỮNG BẤT CẬP, HẠN CHẾ TRONG PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI..............................................................................................................4
2.2 ĐỀ XUẤT HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI HIỆN
HÀNH..........................................................................................................................9
KẾT LUẬN...............................................................................................................15


DANH MC TI LIU THAM KHO
Trờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thơng mại (tập 2), Nxb. CAND, Hà Nội, 2006.
Bùi Ngọc Cờng (chủ biên), Giáo trình luật thơng mại (tập 2), Nxb. Giáo dục, H Nội, 2008.
Nguyễn Thị Dung (chủ biên), Hỏi và đáp luật thơng mại, Nxb. Chính trị-hành chính, Hà Nội, 2011.
Nguyễn Thị Khế (chủ biên), Luật thơng mại và giải quyết tranh chấp thơng mại, Nxb. Tài chính, Hà
Nội, 2007.
Trung tâm thơng mại quốc tế và Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, Trọng tài và các phơng
thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, Hà Nội, 2003.
Nguyễn Đình Thơ, Hoàn thiện pháp luật về trọng tài thơng mại của Việt Nam trong điều kiện
hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ luật học, Trờng Đại học Luật Hà Nội, 2007.
Luật thơng mại năm 2005.
Mt s trang web:
www.vnexpress.net

www.dantri.com
www.chinhphu.vn
www.dddn.com.vn



×