Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Giảm trừ gia cảnh theo quy định của pháp luật hiện hành - thực tế tuân thủ pháp luật về thuế về giảm trừ gia cảnh và hướng khắc phục của người nghiên cứu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.44 KB, 15 trang )

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

Đề bài: Giảm trừ gia cảnh theo quy định của pháp luật hiện hành thực tế tuân thủ pháp luật về thuế về giảm trừ gia cảnh và hướng khắc phục
của người nghiên cứu.
MỞ ĐẦU
Thuế xuất hiện và phát triển cùng với nhà nước, là một công cụ hữu
hiệu của nhà nước để thực hiện các chính sách điều tiết nền kinh tế, thực hiện
công bằng xã hội. Trong xã hội nguyên thủy, không có tư hữu cá nhân, mọi
người đều như nhau, không ai giàu, không ai nghèo; nhưng khi xã hội nguyên
thủy tan rã, tư hữu xuất hiện, thì sự phân biệt giàu nghèo ngày càng trở lên rõ
rệt hơn, nhưng không phải ở nhà nước nào người ta cũng coi trọng sự công
bằng trong xã hội; điển hình là đối với nhà nước chủ nô và phong kiến, thì sự
phân biệt giàu nghèo là rõ rệt nhất, trong khi những người lao động là đối
tượng chính tạo nên của cải vật chất thì họ luôn luôn đói khổ, thu nhập không
tương xứng với sức lao động. Phải đến nhà nước tư sản xuất hiện thì sự công
bằng trong phân phối thu nhập mới được quan tâm. Người ta đặt ra thuế thu
nhập nói chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng để đảm bảo phân phối một
cách công bằng thu nhập. Song việc thu thuế cũng phải đảm bảo công bằng
cho mọi người, với mục đích đó các nhà khoa học nghiên cứu về thuế đã suy
nghĩ về một khoản chi phí để tạo ra thu nhập mà các nhà lập pháp quy định là
giảm trừ gia cảnh.

I. Quy định của pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh.
1.1.Cơ sở của quy định giảm trừ gia cảnh trong luật thuế thu nhập cá
nhân
Cơ sở lý luận
Theo ngành khoa học thuế thì thu nhập chịu thuế được xác định là:

1




BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

Thu nhập chịu thuế = thu nhập ròng - chi phí hợp lý liên quan đến việc
tạo ra thu nhập
Theo công thức trên thì những chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu
nhập sẽ được giảm trừ trong quá trình tính thuế. Các khoản tiền giảm trừ cho
đối tượng nộp thuế và người phụ thuộc được coi là chi phí để tạo ra thu nhập,
đó là chi phí để duy trì cuộc sống, chi phí để phung dưỡng cha mẹ, chi phí để
nuôi dạy con cái.
Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi
tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền công, tiền lương của
đối tượng nộp thuế của cá nhân cư trú. Việc giảm trừ gia cảnh cho cá nhân
người nộp thuế và cho người phụ thuộc là để thể hiện nguyên tắc công bằng
của Luật thuế Thu nhập cá nhân. Theo nguyên tắc này thì: người có thu nhập
cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn, người có cùng mức thu nhập nhưng có hoàn
cảnh khác nhau thì số thuế phải nộp khác nhau.
Việc giảm trừ gia cảnh khi tính thuế là để xét đến hoàn cảnh cụ thể của
từng người nộp thuế và đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng, tuy có khác
nhau về mức giảm trừ nhưng cơ bản về tiêu thức để được giảm trừ không khác
nhau nhiều.
Giảm trừ gia cảnh được quy định cụ thể tại điều 19 Luật thuế thu nhập
cá nhân, tạo cơ sở pháp lý cho giảm trừ gia cảnh trong thu và nộp thuế thu
nhập cá nhân. Trước đây, pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân sau nhiều lần sửa
đổi thì quy định này vẫn không được đưa vào, làm cho thuế thu nhập cá nhân
thiếu tính khoa học, không có sự khách quan nhưng từ khi luật thuế thu nhập
cá nhân ra đời thì giảm trừ gia cảnh không chỉ là khoa học về thuế thu nhập cá

nhân mà đã chính thức được quy định và thực hiện.
Cơ sở thực tiễn
Việc tạo ra thu nhập cũng tạo ra chi phí

2


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

Để có thể tạo ra thu nhập, người lao động nói chung phải tiêu hao sức
lực của mình để làm việc. Việc tiêu hao sức lao động này đòi hỏi cần phải bù
đắp một lượng sức lực tương ứng để có thể tiếp tục lao động và tạo ra thu
nhập. Nếu việc đánh thuế không xem xét đến vấn đề này sẽ trở thành phiến
diện và duy tâm. Bởi con người không thể cứ làm việc mà không ăn uống, nếu
thế sẽ bị cạn kiệt sức lao động và không thể tạo ra thu nhập được, khi đó nhà
nước không thể tiếp tục thu thuế. Do đó, khi đánh thuế thu nhập, pháp luật
Việt Nam đã quy định giảm trừ gia cảnh đối với mỗi đối tượng nộp thuế là 4
triệu đồng/tháng. Số tiền này được coi là trang trải cuộc sống, duy trì sự tạo
thu nhập cho mỗi người lao động, cũng như là duy trì cái cây để nhà nước hái
quả.
Song con người sống trong xã hội không phải là một thực thể độc lập
mà luôn có mối quan hệ đối với xã hội, nhất là mối quan hệ gia đình. Luật hôn
nhân và gia đình quy định con cái có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ;
cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc con cái 1, song không phải vì luật
quy định mà đây là một thực tế, là truyền thống đạo đức của người Việt Nam,
họ kiếm tiến không chỉ phục vụ cho sự tồn tại của chính bản thân họ mà còn
phục vụ cho sự tồn tại của những người phụ thuộc (là cha mẹ, con cái). Những
quan hệ này cũng gắn liền máu thịt không khác với bản thân họ là mấy. Một

người công nhân có thể nhịn để đi làm với dạ dày lép kẹp nhưng sẽ không để
cho mẹ già hoặc con thơ bị bỏ đói. Điều này thiết nghĩ không phải bàn cãi. Vì
vậy, với con người, để đảm bảo bù đắp lại sức lao động cho quá trình sản xuất
tiếp theo cần phải đảm bảo nhu cầu thiết yếu không chỉ cho họ mà còn cho cả
những người phụ thuộc vào họ.
Đảm bảo công bằng giữa những người có hoàn cảnh khác nhau

1

Điều 34, điều 35 Luật hôn nhân và gia đình

3


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

Hiện nay mức giảm trừ cho bản thân đối tượng nộp thuế là 4 triệu
đồng/tháng, cho mỗi người phụ thuộc mà đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ nuôi
dưỡng là 1.6 triệu đồng/tháng.
Có ý kiến cho rằng, mức giảm trừ gia cảnh như trên là thấp. Tuy nhiên,
mức giảm trừ gia cảnh như trên là phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của
Việt Nam trong những năm tới và phù hợp với quản điểm cải cách hệ thống
thuế của Việt Nam. Theo đó, với mức thu nhập bình quân đầu người dự kiến
cho năm 2009 là khoản 1.5 triệu đồng/tháng thì mức giảm trừ cho bản thâm
đối tượng nộp thuế ở mức 4 triệu đồng/tháng có ý nghĩa rằng, chỉ những
người có thu nhập từ trung bình khá trở lên mới phải nộp thuế (và chỉ phải
nộp đối với phần thu nhập vượt trên mức giảm trừ này). Những năm sau đó,
khi thu nhập tăng lên, mức giảm trừ này sẽ tiến gần đến với mức thu nhập

trung bình trong xã hội và khi đó những người có thu nhập ở mức trung bình
trở lên sẽ phải nộp thuế TNCN. Điều này có nghĩa là Luật sẽ tự động mở rộng
diện tích đánh thuế để thực hiện nguyên tắc mọi công dân có thu nhập (trừ
trường hợp thu nhập quá thấp) đều có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, từ đó
đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của tầng lớp dân cư. Tất nhiên,
đến một thời điểm nào đó, khi thu nhập và mức sống của dân cư đã tăng rất
cao, Quốc hội sẽ xem xét điều chỉnh mức giảm trừ này cho phù hợp với định
hướng vừa phân tích trên.
Việc giảm trừ cho người phụ thuộc được thực hiện dựa trên cơ sở mỗi
người phụ thuộc được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế.
Những người phụ thuộc được giảm trừ khá rộng, bao gồm: con chưa thành
niên, con đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, con tàn tật
không có khả năng lao động; các cá nhân khác không có thu nhập hoặc có thu
nhập nhưng thấp hơn mức quy định của Chính phủ hoặc không có nơi nương
tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng (gồm cha, mẹ, vợ chồng, cô,
dì, chú, bác, cháu…).

4


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

Việc mở rộng diện giảm trừ như trên cho những người phụ thuộc đảm
bảo thực hiện công bằng trong điều tiết thu nhập và phù hợp với đạo lý xã hội
của người Việt Nam. Song lý luận là thế nhưng trong thực tế, các đối tượng
phụ thuộc còn rất nhiều vướng mắc trong xác định đối tượng phụ thuộc để
giảm trừ. Ví dụ đối với người không có nơi nương tựa mà người nộp thuế trực
tiếp nuôi dưỡng có thể là cha mẹ già yếu, nhưng cha mẹ có thể có nhiều con,

nếu những người con này đều xác định cha mẹ mình là người phụ thuộc mà cơ
quan thu thuế không kiểm tra cụ thể thì đối tượng nộp thuế rất dễ trốn tránh
nghĩa vụ.
Ngoài ra, hiện nay có một thực tế là giá cả các mặt hàng trên thị trường
đang tăng chóng mặt, do đó sinh hoạt của người dân cũng tăng lên, mặc dù
mức lương tối thiểu đã tăng nhưng đời sống của người dân vẫn không được
cải thiện. Nếu cứ giữ mức giảm trừ gia cảnh như cũ thì sẽ không đảm bảo
được mục tiêu của nhà nước khi tăng lương cho người dân. Do đó, để vừa có
thể đảm bảo được việc mở rộng đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân; vừa giữ
cho đời sống người dân được ổn định và phát triển, không rơi vào tình trạng
túng bẫn do nộp thuế thì cần phải xem xét một mức giảm trừ hợp lý hơn, phù
hợp với cơ sở thực tiễn hơn.
1.2. Quy định của pháp luật.
Mặc dù thuế thu nhập cá nhân đã xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1991
song cho đến tận năm 2007 khi luật thuế thu nhập cá nhân được ban hành thì
mới đề cập đến vấn đề giảm trừ gia cảnh.
Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi
tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng
nộp thuế là cá nhân cư trú. Các loại thu nhập khác ngoài hai loại này và các
đối tượng là cá nhân không cư trú đều không được tính giảm trừ gia cảnh.
Giảm trừ gia cảnh gồm hai phần:

5


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

- Phần giảm trừ cho đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng (48 triệu

đồng/năm)
- Phần giảm trừ cho người phụ thuộc mà người nộp thuế phải có trách
nhiệm nuôi dưỡng là 1.6 triệu đồng/tháng/người. Người phụ thuộc phải là
người mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng (người phụ thuộc
không hạn chế về số lượng), bao gồm: con tàn tật không có khả năng lao
động; các cá nhân khác không có thu nhập hoặc thu nhập thấp hơn mức quy
định hoặc không có nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi
dưỡng, bao gồm: con chưa thành niên hoặc đang học đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp hoặc học nghề; vợ hoặc chồng không có khả năng lao
động; những người khác không có nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực
tiếp nuôi dưỡng.
Hồ sơ, thủ tục kê khai người phụ thuộc:
Đối với con chưa thành niên (dưới 18 tuổi), thủ tục, hồ sơ chứng minh
người phụ thuộc là: Bản photocopy Giấy khai sinh. Nếu là con nuôi thì ngoài
Giấy khai sinh phải có bản photocopy Giấy chứng nhận là con nuôi của cơ
quan có thẩm quyền theo qui định của pháp luật, trong đó ghi rõ quan hệ giữa
đối tượng nộp thuế với người phụ thuộc là quan hệ giữa bố (hoặc mẹ) với con
nuôi; Con đã thành niên bị tàn tật không có khả năng lao động cần có: Bản
photocopy Giấy khai sinh, bản photocopy xác nhận của Trung tâm giám định
Y khoa tỉnh, thành phố được thành lập theo qui định của Bộ y tế về mức độ
tàn tật không có khả năng lao động.
Với đối tượng chịu thuế có con đang theo học đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp hoặc học nghề (kể cả con đang học ở nước ngoài) phải có
các loại giấy tờ sau: Bản photocopy giấy khai sinh, bản photocopy Thẻ sinh
viên, hoặc xác nhận của trường; Biên lai thu học phí (hoặc chứng từ nộp
khoản chi phí tiền học, tiền sinh hoạt phí) của niên độ phù hợp với năm tính
thuế (bản photocopy); Trường hợp sinh viên thuộc đối tượng miễn nộp học
6



BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

phí (con thương binh, liệt sỹ...) thì phải có xác nhận của nhà trường thuộc diện
được miễn học phí.
Đối với vợ hoặc chồng, thủ tục, hồ sơ phải có: Nếu đã hết tuổi lao động
thì phải có bản photocopy Hộ khẩu xác định rõ mối quan hệ với người nộp
thuế hoặc bản photocopy Giấy đăng ký kết hôn; Nếu trong độ tuổi lao động
thì ngoài một trong các giấy tờ nêu trên phải có thêm bản photocopy xác nhận
của Trung tâm giám định Y khoa tỉnh, thành phố được thành lập theo qui định
của Bộ y tế về mức độ tàn tật không có khả năng lao động.
Đối với bố, mẹ, anh chị em ruột thủ tục, hồ sơ như sau: Nếu đã hết tuổi
lao động cần có bản photocopy giấy khai sinh của người phụ thuộc để xác
nhận đã hết tuổi lao động, bản photocopy hộ khẩu hoặc giấy tờ liên quan khác
để xác định rõ mối quan hệ của người phụ thuộc với đối tượng nộp thuế (là
bố, mẹ, anh, chị, em ruột); Nếu trong độ tuổi lao động thì ngoài các hồ sơ nêu
trên, phải có bản photocopy xác nhận của Trung tâm giám định Y khoa tỉnh,
thành phố được thành lập theo qui định của Bộ y tế về mức độ tàn tật không
có khả năng lao động
Đối với ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; cô ,dì, chú, bác, cậu ruột;
hồ sơ phải có: Các giấy tờ hợp pháp chứng minh quan hệ giữa người phụ
thuộc với ông, bà, cô, dì, chú, bác là quan hệ ruột thịt.
Cách tính thuế và việc khấu trừ
Việc khấu trừ đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công được thực hiện
hàng tháng. Cơ quan chi trả thu nhập căn cứ vào tiền lương tiền công, tạm
giảm trừ gia cảnh cho đối tượng nộp thuế, người phụ thuộc theo đăng ký của
đối tượng nộp thuế. Trên cơ sở thu nhập còn lại và biểu thuế luỹ tiến từng
phần, cơ quan chi trả tính thuế và giữ lại số thuế đã tính để nộp Ngân sách.


II. Thực tiễn tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh
7


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi
tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công của
đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú. Mức trừ này có tính đến hoàn cảnh cụ
thể của người nộp thuế, không phải là mức đủ sống cho người nộp thuế và gia
đình. Thu nhập tính thuế (sau khi đã giảm trừ gia cảnh) được áp dụng theo
biểu thuế luỹ tiến từng phần từ 5% đến 35 %, thu nhập còn lại sau khi nộp
thuế là thu nhập của người nộp thuế để chi tiêu.
Thực tiễn tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh còn bất cập trên
thực tế do một số nguyên nhân:
Thứ nhất về việc chứng minh người phụ thuộc và thủ tục giảm trừ gia
cảnh:
Nhiều người khai thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đang băn khoăn vì
trường hợp của mình rõ ràng có người thân phụ thuộc và là trường hợp được
giảm trừ gia cảnh, nhưng khi đối chiếu với thông tư 84 của Bộ Tài chính về
thuế TNCN thì không chứng minh được những người phụ thuộc. Để giảm trừ
cho mỗi người con đang học đại học phải có ít nhất ba loại giấy tờ. Thêm nữa,
pháp luật quy định đòi quá nhiều loại giấy tờ. Có giấy tờ không đơn giản như
giấy chứng nhận y khoa đối với người phụ thuộc trong độ tuổi lao động nhưng
không có khả năng lao động. Bên cạnh đó, đã phát sinh mâu thuẫn khi kê khai
giảm trừ gia cảnh vì thành viên nào cũng muốn giảm trừ gia cảnh cho mình.
Khó khăn cho cơ quan xác nhận cho thủ tục giảm trừ gia cảnh. Đa số UBND
phường, xã đều không thể biết gia cảnh thực tế của người nộp đơn; vì thế

cũng không thể xác nhận được điều này. Thậm chí, hầu hết UBND phường xã
luôn từ chối nhận thông tin liên quan. Và hầu hết việc xác nhận mức độ tàn
tật, không có khả năng lao động đều đẩy cho cơ quan y tế. Trong đó không ít
cơ sở y tế, bệnh viện cũng cho rằng, hiện nay chưa có sự thống nhất phối hợp
giữa cơ quan y tế và cơ quan thuế. Không ít nơi cho rằng, việc lập nên một hội
đồng giám định tỉ lệ thương tật là rất phức tạp và tốn kém. Thế nhưng, nếu
8


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

không có hội đồng này thì các cơ sở y tề chỉ có thể dừng lại ở việc khám sức
khỏe.
Thứ hai về mức giảm trừ gia cảnh:
Mức giảm trừ cá nhân và giảm trừ cho người phụ thuộc theo Luật hiện
hành là chưa hợp lý, chưa tính đến sự mất giá của đồng tiền. Theo thời giá
hiện nay, việc quy định mức giảm trừ gia cảnh là 4 triệu đồng/người/tháng đối
với cá nhân người nộp thuế và 1,6 triệu đồng/người/tháng đối với người phụ
thuộc là chưa đảm bảo cho đời sống tối thiểu của người lao động, nhất là ở đô
thị. Một điểm chưa hợp lý nữa là mức giảm trừ gia cảnh hiện nay không tính
đến khu vực, có nghĩa là ở nông thôn, thành thị, đồng bằng hay miền núi đều
áp dụng như nhau, nhưng thực tế cho thấy mức chi tiêu cho sinh hoạt hàng
ngày của một cá nhân ở thành thị là lớn hơn rất nhiều so với ở nông thôn và
miền núi.

III. Hướng khắc phục để việc thực thi pháp luật thuế về giảm trừ gia
cảnh
Tại cuộc hội thảo góp ý của doanh nghiệp và cá nhân về sửa đổi Luật

Thuế thu nhập cá nhân và Thuế Thu nhập doanh nghiệp do Bộ Tài chính tổ
chức ngày 8/11 tại Hà Nội nhiều ý kiến cho rằng mức tính giảm trừ gia cảnh
theo số tuyệt đối hiện nay là không phù hợp.
Đối với Luật Thuế thu nhập cá nhân, các đại biểu cho rằng, mức giảm
trừ cho bản thân người nộp thuế là 4 triệu đồng/người/tháng và 1,6 triệu
đồng/người phụ thuộc/tháng là không phù hợp với thực tế đời sống kinh tế, xã
hội.
Theo một số chuyên gia, việc quy định mức giảm trừ gia cảnh bằng số
tuyệt đối có ưu điểm là đơn giản, dễ tính toán song không công bằng, đặc biệt
trong bối cảnh nền kinh tế chưa ổn định, không đảm bảo được cuộc sống tối

9


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

thiểu cho người nộp thuế. Khi chính sách thuế thu nhập cá nhân còn chưa
nhận được sự đồng thuận nhất trí cao của đông đảo các tầng lớp dân chúng sẽ
gây khó khăn trong quá trình thực hiện, gây thất thu Ngân sách Nhà nước và
ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề xã hội. Góp ý về Luật Thuế thu nhập cá
nhân, đại diện của Hội tư vấn thuế Việt Nam đánh giá trong quá trình thực
hiện, việc thực thi Luật Thuế thu nhập cá nhân còn gặp nhiều khó khăn do
các nguyên nhân khách quan như tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu và lạm phát tăng cao; cùng các nguyên nhân chủ
quan khác về mặt quy định thực thi Luật cũng như các hướng dẫn đưa ra còn
thiếu tính thực tiễn hoặc nhiều qui định và chưa nhất quán khiến việc thực thi
luật gặp khó khăn.
Tuy nhiên, cơ quan thuế hiện nay mới chỉ kiểm soát được thu nhập của

những người làm công ăn lương, còn các đối tượng khác phần lớn chưa kiểm
soát được thu nhập, và chưa đưa ra được các biện pháp hữu hiệu nhằm kiểm
soát việc tuân thủ của các đối tượng đó. Việc này vô hình chung tạo ra sự
không công bằng trong quá trình thực thi luật. Trước thực tế khi triển khai
Luật Thuế thu nhập cá nhân thời gian qua, nhiều ý kiến cho rằng, cần xem xét
vấn đề hài hoà hoá thuế suất giữa chính sách thuế thu nhập cá nhân với các
chính sách thuế khác, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp, để đảm bảo
tránh những tác động tiêu cực đến việc lựa chọn hình thức kinh doanh và nộp
thuế trên cơ sở xác định một tỷ lệ động viên ngân sách hợp lý. Ngoài ra, cần
có quy định chi tiết về hướng dẫn quyết toán thuế thu nhập cá nhân đối với
người nước ngoài để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng, phù hợp với thông lệ
quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế tự kê khai, tự chịu trách nhiệm của
người nộp thuế.
Bên cạnh đó, việc miễn thuế thu nhập cá nhân đối với trường hợp
chuyển nhượng một nhà, đất duy nhất, trên thực tế hiện nay rất khó kiểm tra
tính chính xác và trung thực, mà chỉ hoàn toàn dựa vào sự tự giác của người

10


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

khai thuế, do đó tính rủi ro thất thu thuế rất cao. Vì vậy nên chuyển đối tượng
này từ được miễn thuế sang được giảm 50% số thuế phải nộp là phù hợp,
nhằm hạn chế thất thu thuế, đồng thời vẫn kiểm kê kiểm soát được hoạt động
chuyển nhượng kinh doanh bất động sản.
Theo các chuyên gia về lĩnh vực tài chính còn có một số quan điểm về
vấn đề này như sau:

Đề nghị nâng mức giảm trừ thuế TNCN lên 5 triệu đồng/tháng
Theo TS. Đỗ Thị Thìn, Phó Chủ tịch Hội Tư vấn thuế Việt Nam, thuế
TNCN đóng góp nguồn thu cho ngân sách ngày càng tăng. Luật Thuế TNCN
đã mở rộng phạm vi áp dụng đối với các loại thu nhập ngoài tiền công, tiền
lương như thu nhập từ đầu tư và kinh doanh... Tuy nhiên, cơ quan Thuế hiện
nay mới chỉ kiểm soát được thu nhập của những người làm công ăn lương,
còn các đối tượng khác phần lớn chưa kiểm soát được thu nhập, và chưa đưa
ra được các biện pháp hữu hiệu nhằm kiểm soát việc tuân thủ của các đối
tượng đó. Việc này vô hình chung tạo ra sự không công bằng trong quá trình
thực thi.
Mức giảm trừ gia cảnh cũng nhận được nhiều đóng góp. Điều 19 Luật
thuế TNCN quy định: Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 4 triệu
đồng/tháng (48 triệu đồng/năm); Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là
1,6 triệu đồng/tháng.
TS. Đỗ Thị Thìn cho rằng, để luật này thực sự là luật thuế phổ biến đối
với các cá nhân có thu nhập thực hiện nghĩa vụ công dân và qua 3 năm thực
hiện mức lương tối thiểu cũng đã có thay đổi thì mức 4 triệu là thấp và đề nghị
nâng khoảng 5 triệu đồng/tháng.
Về mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc, có ý kiến đề nghị không
nên quy định tất cả các khoản thu nhập của người phụ thuộc mà chỉ nên quy
định khoản thu nhập có tính chất ổn định đều đặn hàng tháng như thu nhập từ

11


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

tiền lương, thu nhập kinh doanh, thu nhập từ đầu tư vốn... Ngoài ra, mức xác

định thu nhập để tính là người phụ thuộc 500.000 đồng/tháng tức 6.000.000
đồng/năm so với tình hình hiện nay là thấp đề nghị điều chỉnh tăng lên.
TS. Lý Phương Duyên, Học viện Tài chính đề nghị, Quốc hội có thể
ban hành khung quy định về mức giảm trừ gia cảnh- có thể tính tối đa là 5 lần
mức lương tối thiểu nhưng mức giảm trừ gia cảnh cụ thể nên để Bộ Tài chính
quyết định dựa trên tình hình thực tế, được xác định bằng một con số nhất
định và việc áp dụng nên được quy định theo năm tính thuế - bắt đầu từ ngày
1 tháng 1 để thuận tiện cho công tác quản lý.
Đề xuất giảm thuế TNDN xuống 21% vào năm 2015
Thuế TNDN là thuế trực thu, điều tiết trực tiếp vào thu nhập chịu thuế
của DN và là loại thuế đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN. Thực tế
cho thấy, việc sửa đổi bổ sung chính sách thuế thuế TNDN là yêu cầu bức
thiếu và là tất yếu khách quan trong quá trình hoàn thiện hệ thống chính sách
pháp luật tại Việt Nam.
Thuế TNDN sẽ thay đổi theo hướng: Điều chỉnh giảm mức thuế suất
chung theo lộ trình phù hợp để thu hút đầu tư, tạo điều kiện cho DN có thêm
nguồn lực tài chính, tăng tích lũy để đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao
năng lực cạnh tranh; đơn giản hóa chính sách ưu đãi thuế theo hướng hẹp về
lĩnh vực, tiếp tục khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm
có giá trị gia tăng lớn...
Theo Chủ tịch Hội Tư vấn thuế Việt Nam Nguyễn Thị Cúc, thuế suất
thuế TNDN ở nước ta có xu hướng ngày càng giảm và thực hiện thống nhất
giữa các thành phần kinh tế: (từ việc áp dụng 2 thuế suất : 32% và 25% tiến
đến áp dụng thống nhất một thuế suất 28%, bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước
ngoài và giảm thuế suất từ 28% xuống 25 % từ 1-1-2009). Cũng theo bà Cúc,
thuế suất 25% là mức trung bình so với trong khu vực (bằng Trung Quốc)

12



BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

nhưng còn cao hơn một số quốc gia, vùng lãnh thổ như Singapore,
Hongkong...
Xác định mức thuế suất chính là xác định mức độ điều tiết về thuế của
Nhà nước đối với thu nhập của DN. Mức thuế suất cao sẽ tăng điều tiết tập
trung cho NSNN, nhưng việc giảm thuế suất thuế TNDN sẽ có tác động tăng
động viên cho NSNN; do giảm thuế suất thuế TNDN chính là tạo điều kiện để
DN có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy tái đầu tư, đẩy mạnh phát triển
sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Dự kiến, mức thuế suất thuế TNDN sẽ điều chỉnh giảm theo 2 phương
án: Thứ nhất, thuế suất 23% từ năm 2012- 2015; thuế suất 20% từ năm 20162020. Và phương án thứ hai: thuế suất 20% từ năm 2012. Chủ tịch Hội Tư vấn
thuế đề nghị, để đảm đảm bảo hài hòa lợi ích giữa NSNN và DN nên lựa chọn
phương án thứ nhất.
Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị nên giảm mức thuế suất tiêu chuẩn từ
25% hiện hành xuống còn mức 21% từ năm 2015 để khuyến khích thu hút đầu
tư trong và ngoài nước và sẽ giảm tiếp mức thuế suất thuế TNDN trong tương
lai xa hơn, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng giảm thuế suất
thuế TNDN ở các nước, đặc biệt ở các nước đang phát triển.

Như vậy, có thể thấy rằng vấn đề giảm từ gia cảnh được pháp luật quy
định là tương đối rõ ràng và cụ thể, về cơ bản, bảo vệ được quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, đảm bảo được sự bình đẳng trong gia đình và sự công
bằng xã hội. Tuy nhiên từ thực tế áp dụng cho thấy quy định của pháp luật về
giảm trừ gia cảnh còn một số điểm chưa hợp lý cần nhanh chóng khắc phục để
đạt hiệu quả tốt hơn trên thực tế áp dụng.

13



BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, Nxb
Công anh nhân dân, Hà Nội 2010
2. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội 2010
3. Phạm Thị Giang Thu, “Những yêu cầu và mục tiêu cơ bản của việc hòan
thiện hệ thống pháp luật thuế ở Việt Nam”, Tạp chí nhà nước và pháp luật,
số 3, tháng 3/2008.
4. Luật thuế thu nhập cá nhân 2007
5. Tờ trình UBTVQH số 249/CP-PC ngày 7 tháng 3 năm 2003 về việc ban
hành luật thuế TNDN sửa đổi của bộ trưởng bộ tài chính
6. Website: www.chinhphu.vn

14


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MỤC

LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

LỤC


15



×