Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Kiện đòi lại tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.42 KB, 21 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU.
Pháp luật được coi là coi là công cụ sắc bén và hữu hiệu nhất trong việc bảo vệ
quyền sở hữu, đảm bảo cho chủ sở hữu thực hiện có hiệu quả và hợp lí các quyền
năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt một các bình thường nhất. Bảo vệ quyền sở hữu
chính là biện pháp tác động bằng pháp luật đối với hành vi xử sự của con người, ngăn
ngừa những hành vi xâm hại đến chủ sở hữu khi người này hành xử quyền của mình.
Bằng các quy định của pháp luật, Nhà nước ta xác nhận và quy định phạm vi những
quyền năng của một chủ sở hữu với tài sản của họ. Mặt khác, Nhà nước dùng pháp
luật như một công cụ pháp lí để bảo vệ các quyền năng đã được pháp luật công nhận
và ngăng ngừa những hành vi vi phạm pháp luật. Kiện đòi lại tài sản là một trong
những phương thức để chủ sở hữu có thể bảo vệ quyền sở hữu với tài sản. Để làm rõ
hơn nữa, em xin chọn đề tài “Kiện đòi lại tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự”
trong bài tập học kì này.

B. NỘI DUNG.
I.
MỘT SÔ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN.
1. Khái quát về kiện đòi lại tài sản.
1


1.1.

Định nghĩa

Kiện đòi lại tài sản là biện pháp kiện dân sự, theo đó, chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc người chiếm hữu,
người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật phải trả lại
tài sản cho mình.
1.2.


Đặc điểm của kiện đòi lại tài sản.

Kiện đòi lại tài sản mang đặc điểm chung của phương thức kiện:
Thứ nhất, phương thức kiện đòi lại tài sản mang tính thực tế và được áp dụng
rộng rãi. Bởi lẽ các các hành vi xâm phạm quyền sở hữu diễn ra khá phổ biến, đa dạng
và không phải hành vi nào cũng thỏa mãn cấu thành tội phạm để áp dụng các quy định
trong Bộ luật hình sự hay áp dụng một chế tài của Luật hành chính.
Thứ hai, phương thức kiện đòi lại tài sản cũng như các phương thức kiện đòi
dân sự khác đều tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng cho chủ sở hữu, người chiếm hữu
hợp pháp có thể chủ động thực hiện quyền của mình theo thủ tục khá nhanh chóng và
thuận tiện.
Thứ ba, phương thức kiện đòi lại tài sản là phương thức mang lại hiệu quả cao
cho người thiệt hại, nó tạo điều kiện khắc phục thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu,
người chiếm hữu hợp pháp.
Ngoài ra, phương thức kiện đòi lại tài sản có đặc điểm đặc thù sau:
Một là, kiện đòi lại tài sản là biện pháp bảo vệ quyền chiếm hữu. Nó được áp
dụng trong trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp bị mất quyền chiếm
hữu đối với tài sản của mình. Kiện đòi lại tài sản giúp chủ sở hữu, người chiếm hữu
hợp pháp lấy lại được tài sản của mình.
Hai là, người bị kiện phải là người đang thực tế chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật đối với tài sản tranh chấp.
Ba là, đối tượng của kiện đòi lại tài sản phải là vật có thực, đang tồn tại thực tế
và vật đặc định.
Bốn là, giữa nguyên đơn và bị đơn trong quan hệ tài sản không có quan hệ hợp
đồng, nghĩa là vật rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ,
hoặc theo ý chí của họ nhưng người thứ ba nhận được tài sản thông qua hợp đồng với
những người không có quyền định đoạt tài sản.
1.3.

Vai trò của kiện đòi lại tài sản.


Thứ nhất, việc luật hóa các quy định về sở hữu nói chung, kiện đòi lại tài sản
nói riêng thành một chế định tương đối đầy đủ và hoàn thiện như hiện nay không chỉ
thể hiện trình độ lập pháp ngày càng tiến bộ của Nhà nước ta mà còn thể hiện đường
2


lối chính sách của Đảng ta trong việc bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của các chủ thể
trong xã hội.
Thứ hai, các quy định này là căn cứ pháp lý để Tòa án áp dụng trong quá trình
giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thực tế, đảm tính thống nhất, công bằng và
nghiêm minh của pháp luật.
Thứ ba, kiện đòi lại tài sản cũng nằm trong mục đích chung của pháp luật là
giáo dục mọi thành viên trong xã hội. Các quy định về kiện đòi lại tài sản giúp người
dân nâng cao hiểu biết của người dân trong việc bảo vệ quyền sở hữu của mình, tránh
các hành vi vi phạm…
Thứ tư, các quy định về kiện đòi lại tài sản thể hiện sự điều chỉnh kịp thời của
pháp luật đối với những quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội, là căn cứ để chủ sở
hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu Tòa án xét xử khi có hành vi vi phạm.
2. Khái lược về kiện đòi lại tài sản theo pháp luật Việt Nam.
2.1. Các quy định của pháp luật về kiện đòi lại tài sản trước năm
1995.
a. Kiện đòi lại tài sản trong pháp luật VN thời kì phong kiến.
Các triều đại phong kiến đã có những quy định nhất định về chế độ sở hữu và
cách thức bảo vệ quyền sở hữu. Bộ luật Hồng Đức ( nhà Lê) và Bộ Hoàng Việt luật lệ
( nhà Nguyễn) là hai bộ luật tiêu biểu cho thời kì phong kiến. Trong Luật Hồng Đức,
để đảm bảo quyền sở hữu đất đai, pháp luật quy định cụ thể các hành vi xâm chiếm
hoặc bán trộm đất đai đều bị trừng phạt và phải hoàn trả lại cho chủ sở hữu ( Điều
382, Điều 386). Bộ luật cũng quy định về thời hiệu đòi lại tài sản trong một số trường
hợp: với ruộng đất cầm mà chủ ruộng đất xin chuộc lại thì phải trong niên hạn ( 30

năm), nếu quá niên hạn mà xin chuộc không được. Trái lẽ…thì sẽ phải “ phạt 50 roi,
biếm một tư”( Điều 384)…
b. Kiện đòi lại tài sản trong thời kỳ Pháp thuộc.
Trong thời kì thực dân Pháp đô hộ, dưới sự ảnh hưởng của Bộ luật Napoleon
1804, thực dân Pháp đã ban hành và thi hành ở Việt Nam ba bộ luật tương ứng với ba
xứ : bộ dân luật Giản yếu Nam Kì (1883), Bộ Hoàng Việt Trung Kì ( 1936), Bộ dân
luật Bắc kì ( 1931). Pháp luật về sở hữu trong thời kì này vẫn chủ yếu là nhằm bảo vệ
cho chế độ chính quyền của thực dân Pháp, các quyền lợi của người dân chưa được
chú trọng.
c. Kiện đòi lại tài sản sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945
thành công đến năm 1959.
Nhân dân ta giành được chính quyền từ tay đế quốc, phong kiến, Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà cần phải xây dựng chính quyền nhân dân và chuẩn bị đối
phó với ngoại xâm, vì thế những năm 1945 đến 1959 Nhà nước ta chưa tập trung vào
xây dựng hệ thống pháp luật mới. Cho nên, trong lĩnh vực dân sự áp dụng các qui
định trong các Bộ luật dân sự của chế độ cũ để giải quyết các tranh chấp trong xã hội
3


mới nhưng phải tuân theo nguyên tắc của Sắc lệnh số 97/SL về sửa đổi một số qui lệ
và chế định trong dân luật. Điều 1 qui định: ” Những quyền dân sự đều được luật bảo
vệ khi người hành xử nó đúng với quyền lợi của nhân dân “.
d. Kiện đòi lại tài sản trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Nền kinh tế của Việt Nam lạc hậu và gồm nhiều thành phần kinh tế, muốn xóa
bỏ các hình thức sở hữu phi XHCN thì cần phải có thời gian để cải tạo quan hệ sản
xuất phong kiến, xây dựng quan hệ sản xuất XHCN, vì vậy Nhà nước ta thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế ba năm và chuẩn bị điều kiện cho việc thực hiện kế hoạch
năm năm lần thứ nhất, nhằm đẩy mạnh công cuộc cải tạo XHCN đối với các thành
phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, những người lao động riêng lẻ khác.
Đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh, dần dần đưa họ vào làm ăn tập thể, phát

triển kinh tế theo con đường của CNXH. Để tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể trong
các thành phần kinh tế khác nhau an tâm lao động sản xuất, Nhà nước công nhận và
bảo hộ quyền sở hữu của người lao động riêng lẻ và quyền sở hữu của các nhà tư bản
đối với các tư liệu sản xuất họ đang được phép sản xuất kinh doanh.
Như vậy pháp luật của nhà nước ta ghi nhận và bảo vệ quyển sở hữu tài sản của
các chủ thể. Nếu quyền sở hữu bị xâm phạm, thì cho phép chủ sở hữu khởi kiện yêu
cầu toà án bảo vệ quyền lợi cho mình. Toà án sẽ căn cứ vào đường lối chính sách của
Đảng để giải quyết tranh chấp về sở hữu.
e. Kiện đòi lại tài sản từ những năm 1960 đến ngày miền Nam hoàn
toàn giải phóng.
Nhiệm vụ chính của nhân dân miền Bắc là tập trung sức người, sức của để chi
viện cho đồng bào miền Nam, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Vì vậy, trong thời gian này, các giao lưu dân sự để phục vụ nhu cầu sinh hoạt của
nhân dân như mua bán lương thực, thực phẩm và nhu yếu phẩm cần thiết khác, Nhà
nước phân phối theo chỉ tiêu. Thời kỳ này các quan hệ dân sự chủ yếu mang tính hành
chính, cho nên tranh chấp dân sự hầu như không xảy ra. Tuy nhiên, trong giao lưu dân
sự có các giao dịch như mua bán nhà ở, đất đai, cho vay thóc gạo…Nếu có tranh chấp
về những hợp đồng này thì việc giải quyết bằng biện pháp hoà giải ở hợp tác xã. Đối
với những tranh chấp dân sự không hoà giải được thì giải quyết tại Toà án. Để thống
nhất đường lối giải quyết các tranh chấp về dân sự, TANDTC tổng kết kinh nghiệm
xét xử và ban hành văn bản hướng dẫn TAND các cấp về đường lối xét xử.
f. Năm 1986:
Đại hội VI của Đảng đề ra đường lối phát triển kinh tế của nước ta theo hướng
xoá bỏ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế
của nước ta phát triển dựa trên các quan hệ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu
tư nhân. Nhà nước coi hình thức sở hữu tư nhân là cần thiết trong suốt thời kỳ quá độ
lên CNXH. Sau năm năm thực hiện nghị quyết Đại hội VI (1986), công cuộc đổi mới
do Đảng đề xướng đã đạt được những thành tựu quan trọng. Để tiếp tục thực hiện
đường lối đổi mới đó, Đại hội VII (1991) của Đảng đề ra định hướng phát triển kinh
tế-xã hội của đất nước trong giai đoạn mới và tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo

hướng Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật. Để thực hiện mục tiêu trên, Đại hội đã đề ra hướng sửa đổi Hiến pháp 1980
4


và tăng cường sửa đổi và xây dựng hệ thống pháp luật về kinh tế, văn hoá, hình sự,
dân sự, hành chính…
Trong lĩnh vực dân sự, nhà nước ban hành hệ thống các pháp lệnh: Pháp lệnh
về Quyền sở hữu công nghiệp 1989, Pháp lệnh về Thừa kế 1990, Pháp lệnh về Nhà ở
1991, Phấp lệnh về Hợp đồng dân sự 1991, Pháp lệnh về Quyền tác giả 1994. Mục
đích của việc xây dựng hệ thống pháp lệnh về dân sự nhằm chuẩn bị cho việc xây
dựng Bộ luật dân sự 1995. Vì thế khi xây dựng BLDS, các pháp lệnh trên đã đã được
xây dựng thành các phần cơ bản của Bộ luật dân sự 1995.
Như vậy trước Bộ luật dân sự 1995, hệ thống pháp luật dân sự không có văn
bản pháp quy qui định về quyền sở hữu tài sản. Quyền sở hữu của công dân, các tổ
chức được quy định trong Hiến pháp và rải rác trong các văn bản pháp luật khác. Vì
các quy định về quyền sở hữu chưa được xây dựng thành một chế định pháp luật trong
hệ thống pháp luật dân sự, cho nên việc giải quyết các tranh chấp về tài sản được áp
dụng các nguyên tắc chung của pháp luật luật dân sự đó là Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu của công dân theo Điều 27 Hiến pháp 1980 và Điều 58 Hiến pháp 1992 ( sửa đổi,
bổ sung năm 2001).
2.2. Kiện đòi lại tài sản trong BLDS năm 1995.
Lần đầu tiên chế định sở hữu được qui định trong Bộ luật dân sự 1995 tại Phần
thứ hai: Tài sản và quyền sở hữu và Chương VI quy định về bảo vệ quyền sở hữu.
Điều 284 BLDS qui định:
“ Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người
sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản
thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó,
trừ trường hợp qui định tại khoản 1, Điều 255 của Bộ luật này”.
Theo tinh thần của điều 284, thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có

quyền đòi lại tài sản trong trường hợp sau đây:
Thứ nhất, chủ sở hữu không chuyển tài sản của mình cho bất cứ người thứ hai
nào, mà người đó đang chiếm giữ tài sản của chủ sở hữu mà không trả lại tài sản cho
chủ sở hữu. Trường hợp này người đang chiếm hữu tài sản có thể thực hiện hành vi
bất hợp pháp như trộm cắp, cướp giật…Hoặc hành vi chiếm hữu ban đầu là có căn cứ
như thông qua hợp đồng, hoặc nhặt được tài sản đánh rơi, bỏ quên…nhưng không
chịu trả lại tài sản cho chủ sở hữu, do đó hành vi thực tế chiếm hữu tài sản là không có
căn cứ (bất hợp pháp).
Thứ hai, chủ sở hữu chuyển tài sản cho người khác thông qua giao dịch như
cho mượn, gửi giữ…người chiếm hữu hợp pháp không chuyển cho người thứ ba
nhưng người thứ ba thực tế đang chiếm hữu vật. Trường hợp này người chiếm hữu
hợp pháp có quyền kiện đòi lại tài sản từ người chiếm hữu không căn cứ để bảo vệ
quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản của mình.
Thứ ba, chủ sở hưũ chuyền tài sản cho người chiếm hữu hợp pháp, người
chiếm hữu hợp pháp chuyển tài sản cho người thứ ba không được sự đồng ý của chủ
sở hữu. Trường hợp này, người thứ ba có thể ngay tình hoặc không ngay tình đều phải
trả lại tài sản cho chủ sở hữu.

5


Như vậy, căn cứ pháp lý để chủ sở hữu đòi lại tài sản trong các trường hợp hợp
trên là chủ sở hữu không chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác, thì
trong mọi trường hợp người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật đều phải trả lại tài
sản cho chủ sở hữu. Căn cứ thực tế để chủ sở hữu đòi lại tài sản là người đang chiếm
hữu tài sản làm cho chủ sở hữu không khai thác, sử dụng được tài sản của mình. Vì
vậy, cần cho phép chủ sở hữu tự bảo vệ tài sản của mình hoặc yêu cầu toà án giải
quyết.
Bộ luật dân sự 1995, được xây dựng vào thời kỳ đất nước ta đang bắt đầu đổi
mới, chúng ta đang chuẩn bị xây dựng hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền

XHCN, vì vậy trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân chưa cao, cho nên pháp luật
cần phải bảo vệ quyền của chủ sở hữu tài sản để tránh những trường hợp lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản như như người mượn, thuê tài sản bán cho người thứ ba…sẽ
gây thiệt hại cho chủ sở hữu. Vì thế trong tất cả các trường hợp chủ sở hữu đều có
quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu không có căn cứ ngay tình hoặc không ngay
tình.
II.
KIỆN ĐÒI LẠI TÀI SẢN TRONG BLDS NĂM 2005.
1. Chủ thể tham gia quan hệ kiện đòi lại tài sản.
1.1. Nguời khởi kiện:
Theo Điều 256 BLDS quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có
quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu
hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
247 của Bộ luật này. Trong trường hợp tài sản đang thuộc sự chiếm hữu của người
chiếm hữu ngay tình thì áp dụng Điều 257 và Điều 258 của Bộ luật này”.
Như vậy, theo quy định này, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp là người
có quyền khởi kiện đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, sử dụng, người được lợi từ tài
sản không có căn cứ pháp luật.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc nắm giữ, quản lý tài sản có thể được thực hiện bởi
bất kì chủ thể nào trong khi pháp luật chỉ bảo vệ quyền cho các chủ thể chiếm hữu nếu
việc chiếm hữu đó trên cơ sở pháp luật quy định. Xuất phát từ lý do này, Điều 183
BLDS 2005 quy định về các trường hợp chiếm hữu có căn cứ pháp luật như sau:
“Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong các trường hợp sau
đây:
1. Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
2. Người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản;
3. Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với
quy định của pháp luật;


6


4. Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở
hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các điều
kiện do pháp luật quy định;
5. Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với
các điều kiện do pháp luật quy định;
6. Các trường hợp khác do pháp luật quy định”
Như vậy, quyền chiếm hữu của người chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp
được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Do đó, khi quyền sở hữu, quyền chiếm hữu bị
xâm phạm họ có quyền yêu cầu Tòa án xét xử để đòi lại tài sản thuộc quyền sở hữu,
quyền chiếm hữu hợp pháp của mình từ người đang chiếm hữu không có căn cứ pháp
luật.
Khi tham gia tố tụng, người kiện đòi tài sản phải là chủ sở hữu của vật và phải
chứng minh quyền sở hữu của mình với vật đang bị bị đơn chiếm giữ bất hợp pháp.
( Điều 79 BLTTDS 2004). Nếu nguyên đơn là người chiếm hữu hợp pháp thông qua
hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng phù hợp với ý chí của chủ sở hữu thì người đó
phải chứng minh được mình là người có quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản đang bị bị
đơn chiếm giữ bất hợp pháp.
Theo đó, về nguyên tắc, người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không
ngay tình phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp. Khi lấy
lại tài sản, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không phải bồi thường một khoản
tiền nào, trừ trường hợp người chiếm giữ hợp pháp ngay tình bỏ ra chi phí hợp lí để
sửa chữa tài sản, làm tăng giá trị của tài sản.
1.2.

Người bị kiện.

Người bị kiện trong vụ kiện đòi lại tài sản phải là người đang chiếm hữu khoog

có căn cứ pháp luật đối với tài sản. Việc xác định ai là người chiếm hữu không có căn
cứ pháp luật đối với tài sản là điều kiện tiên quyết để xác định ai là người bị kiện
trong vụ án kiện đòi lại tài sản. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phải đưa ra
các căn cứ chứng minh người bị kiện là người đang chiếm hữu không có căn cứ pháp
luật với tài sản của mình. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không thể kiện đòi
tài sản với người có hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng hiên không có tài sản đó nữa.
Trong trường hợp chủ sở hữu không xác định được ai là người đang thực tế chiếm hữu
tài sản hoặc tài sản đã bị tiêu hủy thì chủ sở hữu có thể áp dụng phương thức kiện yêu
cầu bồi thường thiệt hại.
Người bị kiện là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật đối với tài sản có
thể là người đã có hành vi trái pháp luật như: trộm cắp tài sản hoặc nhặt được tài sản
đánh rơi, bỏ quên mà không thông báo công khai…Người bị kiện là người chiếm hữu
không có căn cứ pháp luật đối với tài sản có thể là người thứ ba đã nhận chuyển giao
tài sản qua người không có quyền định đoạt tài sản.
7


Tóm lại, khi tài sản rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý
chí của họ thì những người đang chiếm hữu thực tế đều phải trả lại tài sản. Theo quy
định tại khoản 1 Điều 60 BLDS ngoài việc trả lại tài sản những người này còn : …”
phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm chiếm hữu, sử dụng tài sản, được
lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật”.
2. Đối tượng của kiện đòi lại tài sản.
Trong BLDS năm 2005, tài sản được quy định tại Điều 163 BLDS “Tài sản
bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.
Tuy nhiên, do đặc thù của phương thức kiện đòi lại tài sản, không phải tất cả
những tài sản được liệt kê là đối tượng của kiện đòi lại tài sản. Đối tượng của kiện đòi
lại tài sản phải là vật có thực, đang tồn tại trên thực tế.
Vật là một bộ phận của thế giới vật chất, bao gồm cả động, thực vật, vật với ý
nghĩa là vật lý ở mọi trạng thái ( rắn, lỏng, khí). Vật được coi là tài sản phải là vật hữu

hình, cảm nhận được bởi năm giác quan của con người. Tuy nhiên không phải bộ
phận nào của thế giới vật chất cũng được coi là vật. Có những bộ phận của thế giới
khách quan ở dạng này được coi là vật, ở dạng khác thì không phải là vật.
Theo các quy định của BLDS năm 2005 thì vật được xác định là tài sản không
chỉ là những vật đang tồn tại thực mà còn bao gồm cả những vật chắc chắn sẽ hình
thành trong tương lai. Theo đó, trong các giao dịch dân sự thì các chủ thể không chỉ
có quyền dùng tài sản là vật có thực mà có thể dùng các vật hình thành trong tương lai
làm đối tượng giao dịch. Tuy nhiên, trong kiện đòi lại tài sản, đối tượng chỉ bao gồm
các vật có thực và đang tồn tại trên thực tế. Trong trường hợp vật không còn tồn tại do
đã mất hoặc bị tiêu hủy thì không thể áp dụng phương thức kiện đòi tài sản được mà
cần phải áp dụng phương thức kiện yêu cầu đền bù thiệt hại.
Pháp luật Việt Nam quy định tiền là một loại tài sản riêng biệt. Loại tài sản này
có những đặc điểm pháp lý riêng biệt khác với vật. Tiền có tính năng khác là khi
chuyển giao tiền thì bao giờ cũng kèm theo chuyển giao quyền sở hữu, trừ trường hợp
khi chuyển giao ta đặc định hóa gói tiền thông qua việc niêm phong gói tiền lại. Tuy
nhiên, cần chú ý, tiền chỉ được coi là tài sản riêng biệt nếu đó là loại tiền đang được
lưu thông tại một quốc gia trong thời điểm hiện hành. Do đó, khi tiền bị chiếm hữu
không có căn cứ pháp luật về mặt bản chất chủ sở hữu không thể kiện đòi lại tài sản
thông thường được mà thực chất là yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Theo pháp luật hiện hành, những loại giấy tờ có giá ghi danh và cấm chuyển
nhượng không được coi là giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản trong giao dịch
dân sự. Bởi lẽ, mất chúng không phải là mất tiền, chúng chỉ đơn giản là những giấy tờ
có giá trị minh chứng cho quyền sử dụng, quyền yêu cầu, quyền định đoạt hay quyền
sở hữu chung mà thôi. Chỉ chấp nhận giấy tờ có giá không ghi danh và có thể chuyển
giao, cầm cố, thế chấp…và mất nó coi như mất tiền. Giấy tờ có giá với tư cách là một
8


loại tài sản trong giao dịch dân sự, là loại tài sản hữu hình, được xếp vào tài sản đông
sản và nó thể được coi là đối tượng của kiện đòi lại tài sản.

Quyền tài sản được quy định tại Điều 181 BLDS năm 2005 là những quyền giá
trị đươc bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự. Đó có thể là quyền
đối với tài sản hoặc quyền mà khi thực hiện nó, chủ sở hữu có được tài sản. Quyền tài
sản là tài sản vô hình, do đó không thể thực hiện được quyền chiếm hữu đối với tài
sản này như đối với các loại tài sản khác. Căn cứ vào đặc điểm của phương thức kiện
đòi lại tài sản thì quyền tài sản không phải là đối tượng của kiện đòi lại tài sản. Khi
quyền tài sản bi xâm hại thì tùy thuộc vào tính chất, mức độ của vi phạm mà chủ sở
hữu, người chiếm hữu hợp pháp có thể áp dụng phương thức kiện yêu cầu chấm dứt
hành vi xâm phạm hoặc yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Khi xác định đối tượng của kiện đòi lại tài sản, trong thực tế giải quyết các vụ
án có nhiều tranh cãi về các loại giấy tờ: Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, giấy
chứng nhận quyền sở dụng đất, giấy đăng kí xe moto, bằng tốt nghiệp…có phải là đối
tượng của kiện đòi lại tài sản? Nhiều vụ án đã không được thụ lý vì Tòa án cho rằng
đây không phải là đối tượng của kiện đòi lại tài sản. Vấn đề này hiện vẫn còn tồn tại
nhiều cách hiểu khác nhau. Các loại giấy tờ trên bản thân chúng là bất động sản nên
nếu có tranh chấp thì thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án.
Như vậy, trong trường hợp quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp đối với
tài sản bị xâm phạm thì tùy thuộc vào đối tượng tài sản mà chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp có thể sử dụng phương pháp kiện đòi lại tài sản hoặc phương thức kiện
dân sự khác để bảo vệ quyền chiếm hữu, sử dụng hợp pháp của mình.
3. Các trường hợp kiện đòi lại tài sản.
3.1. Kiện đòi tài sản là động sản không phải đăng kí quyền
sở hữu.
Điều 174 BLDS năm 2005 chia tài sản thành bất động sản và động sản theo
cách liệt kê và loại trừ, dựa trên đặc tính có thể di rời được hay không có thể đưa ra
khái niệm động sản và bất động sản. Động sản là tài sản có thể chuyển dịch hoặc di
rời từ nơi này sang nơi khác trong không gian nhất định. Tùy thuộc vào tính chất, giá
trị của tài sản cũng như cơ chế pháp lý điều chỉnh mà động sản phải đăng kí quyền sở
hữu hoặc không phải đăng kí quyền sở hữu.
Trên thực tế, đối với tài sản là động sản không phải đăng kí quyền sở hữu rất

khó xác định tài sản đó thuộc về ai nếu chúng không có dấu hiệu đặc biệt mà chỉ riêng
vật đó mới có. Khi tham gia giao dịch có người thứ ba có thể nhận được tài sản là
động sản không phải đăng kí quyền sở hữu từ những người không có quyền định đoạt
tài sản hoặc từ những người không có quyền định đoạt tài sản mà không biết. Do vậy,
chiếm hữu của người thứ ba trong những trường hợp này là chiếm hữu ngay tình hoặc
không ngay tình.

9


Điều 257 BLDS 2005 quy định:”Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không
phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người
chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với
người không có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng
có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất
hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu”.
Có thể nói, quy định này đã điều chỉnh một cách hài hòa quyền lợi của chủ sở
hữu và người chiếm hữu ngay tình. Trong trường hợp do người lấy cắp, lừa đảo…
chiếm giữ hoặc do người chiếm hữu, sử dụng tài sản theo ý chí chủ sở hữu thì việc
chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản là đương nhiên. Tuy nhiên, đối với trường hợp
không có căn cứ pháp luật nhưng ngya tình, ở mức độ nhất định họ vẫn được pháp
luật bảo vệ. Theo đó, chủ sở hữu tài chỉ có thể kiện đòi lại tài sản là động sản không
phải đăng kí quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong các trường hợp sau:
Một là, tài sản là động sản không phải đăng kí quyền sở hữu rời hỏi chủ sở hữu
theo ý chí, người thứ ban ngay tình có được tài sản này thông qua hợp đồng không có
đền bù với người không có quyền định đoạt với tài sản.
Hợp đồng đền bù là loại hợp đồng mà trong đó mỗi bên chủ thể sau khi đã thực
hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận từ bên kia một lợi ích tương ứng. Ví dụ như hợp
đồng mua bán tài sản, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng dịch vụ…Hợp đồng không đền
bù là chỉ một bên nhận được lợi ích từ bên kia và không phải thanh toán một lợi ích

vật chất tương ứng. Ví dụ: hợp đồng tặng cho di sản, hợp đồng mượn tài sản…
Trường hợp này có nghĩa là khi chủ sở hữu chuyển giao tài sản cho người
chiếm hữu hợp pháp ( tài sản rời khỏi chủ sở hữu theo ý chí của người sở hữu) thông
qua hợp đồng cho thuê, cho mượn, cầm cố…sau đó người chiếm hữu hợp pháp định
đoạt tài sản đó cho người thứ ba ngay tình thông qua hợp đồng không có đền bù mà
không được sự cho phép của chủ sở hữu thì chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản.
Quy định này cho phép chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản trong trường hợp này đã
góp phần ngăn chặn các hành vi lạm dụng lòng tin để chiếm đoạt tài sản của chủ sở
hữu. Vì trên thực tế, có rất nhiều trường hợp do mối quan hệ quen biết, tin tưởng nhau
mà chủ sở hữu đã chuyển giao tài sản là động sản không phải đăng kí quyền sở hữu
của mình cho người khác mà không áp dụng các biện pháp đảm bảo cần thiết. Do vậy,
khi người chiếm hữu hợp pháp này định đoạt tài sản cho người thứ ba ngay tình,
người chủ sở hữu sẽ gặp nhiều rủi ro.
Quy định cho phép chủ sở hữu kiện đòi tài sản từ người thứ ba chiếm hữu ngay
tình có được tài sản thông qua hợp đồng không đền bù xuất phát từ tính chất của loại
hợp đồng này và được coi là hợp lý. Về mặt lí luận, người thứ ba ngay tình có được tài
sản thông qua hợp đồng không đền bù nên khi trả lại tài sản cho chủ sở hữu họ không
bị thiệt hại gì.

10


Hai là, tài sản là động sản không phải đăng kí quyền sở hữu rời hỏi chủ sở hữu
ngoài ý chí chủ sở hữu: tài sản bị chiếm đoạt trái pháp luật như bị trộm cắp, cướp giật,
lừa đảo…; người thứ ba ngay tình có được tài sản từ người không có quyền định đoạt
tài sản thông qua hợp đồng có đền bù hoặc hợp đồng không đền bù thì người thứ ba
ngay tình vẫn phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu khi chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản.
Quy định này nhằm ngăn chặn các hành vi chiếm đoạt tài sản trái pháp luật tài
sản của chủ sở hữu. Tuy việc chiếm hữu của người thứ ba ngay tình nhưng cách thức
tài sản rời khỏi chủ sở hữu là ngoài ý chí của chủ thể nên người thứ ba chiếm hữu

ngay tình thông qua hợp đồng có đền bù vẫn phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu.
Quy định của Điều 257 BLDS năm 2005 nhằm bảo vệ quyền của chủ sở hữu
trong trường hợp cụ thể, đó là người thứ ba chiếm hữu ngay tình tài sản là động sản
không phải đăng kí quyền sở hữu . Nếu người thứ ba chiếm hữu mà không ngay tình
thì dù họ nhận được tài sản thông qua hợp đồng không đền bù hay có đền bù thì
đương nhiên họ vẫn có quyền kiện đòi lại tài sản. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm
tích cực trên, có thể thấy điều luật này vẫn tồn tại nhiều khiếm khuyết, không phù hợp
với thực tiễn khi chỉ cho phép chủ sở hữu có quyền này mà không quy định người
chiếm hữu hợp pháp có quyền này. Bên cạnh đó, điều luật cũng chỉ quy định quyền
đòi lại tài sản từ người thứ ba chiếm hữu ngay tình có được tài sản thông qua hợp
đồng là chưa hoàn thiện, bởi hợp đồng dân sự chỉ là một giao dịch dân sự. Do đó, cần
có sự sửa đổi, bổ sung.
3.2.

Kiện đòi tài sản là động sản phải đăng kí quyền sở hữu
và bất động sản.

Động sản phải đăng kí quyền sở hữu là các tài sản là động sản Nhà nước quy
định phải đăng kí quyền sở hữu. Các tài sản này thường là các tài sản có ảnh hưởng
đến trật tự an toàn xã hội; hoặc những tài sản hạn chế chủ thể có quyền sở hữu; hoặc
những tài sản mà việc đảm bảo quyền sở hữu sẽ gặp nhiều khó khăn nếu không thực
hiện việc đăng kí quyền sở hữu.
Bất động sản được hiểu là các tài sản không thể di rời được trong không gian
hoặc khi tách ra không còn công dụng tổng thể của tài sản nữa.
Như vậy, khác với tài sản là động sản không phải đăng kí quyền sở hữu, đối
với tài sản là động sản phải đăng kí quyền sở hữu, bất động sản, việc xác định ai là
chủ sở hữu tương đối dễ. Chính vì vậy, khi tham gia vào giao dịch dân sự có tính chất
là chuyển dịch tài sản mà tài sản là động sản phải đăng kí quyền sở hữu hoặc bất động
sản thì người nhận chuyển dịch phải kiểm tra người chuyển dịch cho mình có phải là
người chủ sở hữu với tài sản đó không. Ngoài ra, khi giao dịch hoàn tất, người nhận

chuyển dịch còn phải tiến hành các thủ tục sang tên theo quy định. Theo đó, Điều 258
BLDS 2005 quy định, đối với tài sản là động sản phải đăng kí quyền sở hữu hoặc bất
động sản thì theo nguyên tắc người thứ ba ngay tình phải trả lại cho chủ sở hữu khi bị
kiện đòi.
11


Cũng theo quy định tại Điều 258 BLDS 2005, chủ sở hữu được đòi lại tài sản là
động sản phải đăng kí quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người thứ ba chiếm hữu
ngay tình chỉ trừ hai trường hợp ngoại lệ:” người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận
được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch dân sự với người mà bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó
người này không phải là chủ sở hữu theo bản án, quyết định bị sửa, hủy”.
4.

Các trường hợp không được kiện đòi lại tài sản.

4.1.Tài sản là động sản không phải đăng kí quyền sở hữu rời khỏi chủ theo ý chí
của chủ sở hữu; người thứ ba chiếm hữu ngay tình thông qua hợp đồng có đền bù
với người không có quyền định đoạt tài sản.
Điều 257 BLDS 2005 quy định: Tài sản là động sản không phải đăng kí quyền
sở hữu rời khỏi chủ theo ý chí của chủ sở hữu; người thứ ba chiếm hữu ngay tình
thông qua hợp đồng có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản thì chủ sở
hữu không có quyền kiện đòi lại tài sản.
Những người chiếm hữu được coi là ngay tình khi không biết và không thể biết
việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật. Nếu người thứ ba chiếm hữu
mà không ngay tình thì chủ sở hữu vẫn có quyền kiện đòi lại tài sản. Khi người thứ
ba chứng minh được sự ngay tình của mình trong chiếm hữu tài sản thì chủ sở hữu
không có quyền đòi lại tài sản đó nữa.
Quy định này là một cách thức mà pháp luật điều chỉnh các chủ thể khi tham

gia giao dịch, buộc họ phải thận trọng hơn khi xác lập giao dịch dân sự. Khi chủ sở
hữu dịch chuyển tài sản cho người khác thì giữa chủ sở hữu và người thứ hai có một
gia dịch nên chủ sở hữu cần phải đề phòng trường hợp người chuyển giao tài sản
không trả lại tài sản, do đó, phải áp dụng các biện pháp đảm bảo mà pháp luật cho
phép nhằm hạn chế hành vi của người được chuyển giao tài sản.
Mặt khác, người thứ ba chiếm hữu ngay tình được xác lập quyền sở hữu đối
với tài sản, đồng nghĩa với việc chủ sở hữu không được kiện đòi lại tài sản nữa.
4.2.Tài sản là động sản phải đăng kí quyền sở hữu hoặc bất động sản mà người
chiếm hữu ngay tình thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản
án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng
sau đó người này không phải là chủ sở hữu theo bản án, quyết định bị sửa, hủy.
Thứ nhất, người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản thông qua bán
đấu giá.
Bán đấu giá là hình thức bán tài sản công khai theo phương thức trả giá lên, có
từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục được quy định
tại Nghị định 71/2010/ NĐ-CP của chính phủ ngày 4/3/2010 về bán đấu giá tài sản và
Thông tư 23/2010/TT-BTP ngày 6/12/2010 quy định chi tiết về hướng dẫn thi hành
Nghị định 71/2010/ NĐ-CP. Người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản
12


thông qua đấu giá là người đã mua được tài sản từ một cuộc bán đấu giá do các tổ
chức bán đấu giá tiến hành mà không biết hoặc không thể biết được về nguồn gốc,
tình trạng pháp lý của tài sản bán đấu giá. Chủ sở hữu không được kiện đòi lại tài sản.
Do đó, pháp luật cũng quy định người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được
tài sản thông qua bán đấu giá “được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bán đấu giá”. ( điểm c Khoản 2 Điều 6, NĐ
71/2010/ NĐ-CP). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng tạo điều kiện cho người thứ ba tiến
hành thủ tục đăng kí.
Thứ hai, người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản thông giao dịch

với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở
hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu theo bản án, quyết định
bị sửa, hủy.
Hủy bản án, quyết định dân sự là việc Tòa án không công nhận giá trị pháp lý
của bản án, quyết định dân sự. Việc hủy bản án, quyết định dân sự được tiến hành khi
Tòa án xét xử lại vụ án dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Sửa bản án,
quyết định dân sự là việc Tòa án thay đổi nội dung của bản án, quyết định dân sự
nhằm đảm bảo tính hợp pháp và tính căn cứ của bản á, án, quyết định dân sự.
Theo quy định tại Điều 258 BLDS 2005 quy định: “Chủ sở hữu được đòi lại
động sản phải đăng kí quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba
chiếm hữu ngay tình nhận được thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà
theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản
nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị
hủy, sửa”.
Thông thường, bản án, quyết định dân sự của Tòa án bị hủy, sửa do vi phạm
của cơ quan tiến hành tố tụng, trừ những trường hợp bản án, quyết định dân sự đã có
hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến người thứ ba ngay tình được bảo vệ khi bản án, quyết định dân sự của
Tòa án bị hủy, sửa. Tuy nhiên, bản án, quyết định Tòa án có thể bị hủy, sửa ở nhiều
cấp xét xử khác nhau cho nên để giải quyết tranh chấp của Tòa án được chính xác,
tránh những khó khăn vướng mắc thì Tòa án nhân dân tối cao cần phải cụ thể hơn quy
định tại Điều 258 BLDS 2005.
4.3.Tài sản là đối tượng của vụ kiện đã được xác lập quyền sở hữu cho người
chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình theo thời hiệu.
Điều 154 và Điều 247 BLDS năm 2005 đã quy định cụ thể về thời hiệu và việc
chiếm hữu ngau tình với tài sản là đối tượng của vụ kiện đã được xác lập quyền sở
hữu cho người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình theo thời
hiệu.Tuy nhiên, người chiếm hữu, người được lợi về tài sản chỉ được xác lập quyền sở
hữu theo thời hiệu khi thỏa mãn các điều kiện:
13



-

-

Việc xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu chỉ áp dụng với trường hợp chiếm
hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, tức là chiếm hữu tài sản
không phù hợp với quy định tại Điều 183 BKDS năm 2005.
Việc chiếm hữu phải ngay tình, tức là người chiếm hữu không biết hoặc không
thể biết việc chiếm hữu đó là không có căn cứ pháp luật.
Việc chiến hữu tài sản phải liên tục. Nó được tính trong cả trường hợp người
chiếm hữu chuyển giao cho người khác sử dụng như cho mượn, thuê…
Về thời gian, việc chiếm hữu với các đặc điểm nêu trên phải được thực hiện
trong khoảng thời gian là mười năm kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu đối với
tài sản là động sản và ba mươi năm đối với tài sản là bất động sản.

Đây là biện pháp bảo vệ người thứ ba ngay tình mạnh nhất, hiệu quả nhất. Quy
định này góp phần ổn định các quan hệ xã hội, buộc các chủ thể tự bảo vệ tài sản của
mình.
5. Thời hiệu kiện đòi lại tài sản.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 155 BLDS năm 2005:[…] “Thời hiệu khởi
kiện à thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án
dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp xâm hại,; nếu thời gian đó kết thúc thì mất
quyền khởi kiện”[…]
Tuy nhiên, BLDS không có quy định riêng về thời hiệu khởi kiện kiện đòi lại
tài sản mà nó được áp dụng theo quy định tại BLTTDS. Theo đó, Điềm 3 Khoản 22
Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS 2011 quy định:
Theo quy định trên thì kiện đòi lại tài sản là trường hợp không áp dụng kiện đòi
lại tài sản.

6. Kiện đòi lại tài sản ở một số nước khác.
Trong cuộc sống, cơ sở để con người tồn tại và xã hội phát triển là tài sản, vì
thế pháp luật cần phải bảo hộ quyền sở hữu tài sản cho cá nhân và tổ chức.Tuy nhiên
mỗi chế độ xã hội khác nhau thì phuơng thức và nội dung bảo hộ khác nhau.
6.1.

Bộ luật dân sự của Liên bang Nga 1994.

Bảo vệ quyền sở hữu và các quyền tài sản khác được quy định tại Chương XX.
Tiêu biểu có các Điều luật sau:
Điều 301 quy định về yêu cầu đòi tài sản từ người chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật ngay tình. Theo nội dung điều luật này, chủ sở hữu có quyền đòi tài sản từ
người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Đây là quy định mang tính nguyên tắc
bảo hộ quyền của chủ sở hữu khi người khác chiếm giữ tài sản của mình một cách bất
hợp pháp không ngay tình.

14


Điều 302 quy định về yêu cầu đòi tài sản từ người chiếm hữu không căn cứ
nhưng ngay tình. Khoản 1 Điều 302 qui định là chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản
trong trường hợp tài sản bị chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu chuyển cho đã
đánh rơi hoặc bị mất trộm hoặc người khác chiếm hữu bằng các phương thức khác trái
với ý chí của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp.
Quy này tương tự như điều 257 BLDS Việt Nam 2005 trong các trường hợp
vật rời khỏi chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí thì chủ sở hữu
hoặc người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu đòi lại tài sản.
Khoản 2 Điều 302 quy định người chiếm hữu ngay tình thông qua giao dịch
không đền bù có tài sản thì phải trả lại cho chủ sở hữu tài sản. Như vậy, có thể hiểu
ngược lại là người ngay tình thông qua hợp đồng có đền bù thì không phải trả lại tài

sản cho chủ sở hữu.
Khoản 3 Điều 302 quy định, đối với tiền và giấy tờ có giá người cầm giữ
không được yêu cầu nguời chiêm hữu ngay tình trả lại.
Qua nội dung của hai điều luật trên cho thấy những điểm tương đồng và khác
biêt giữa hai bộ luật dân sư của Việt Nam và Liên bang Nga như sau: Về nguyên tắc
luật bảo vệ quyền của người chủ sở hữu khi vật bị người khác chiếm hữu không có
căn cứ pháp luật không ngay tình và bảo vệ lợi ích của người ngay tình có tài sản
thông qua giao dịch có đền bù thì được quyền sở hữu đối với tài sản.
Điểm khác nhau giữa hai bộ luật này là: Bộ luật dân sự Liên Bang Nga không
phân biệt việc đòi lại tài sản phải đăng ký quyền sở hữu và tài sản không phải đăng ký
quyền sở hữu. Vì vậy theo tinh thần của Điều 302 BLDS Liên bang Nga, thì người
ngay tình thông qua giao dịch có đền bù, không phải trả lại tài sản trong tất cả các
trường hợp. Qui định như vậy là phù hợp với thực tế, vì người ngay tình không có lỗi
trong việc chiếm hữu tài sản, cho nên cần phải bảo vệ lợi ích hợp pháp của họ. Nếu tài
sản phải đăng ký quyền sở hữu mà việc chuyển giao có giấy tờ do cơ quan nhà nước
cấp đúng thẩm quyền thì người ngay tình cũng cần được bảo hộ.
Ngoài ra, khoản 3 Điều 302 BLDS Liên bang Nga quy định về chiếm hữu ngay
tình đối với tiền hoặc giấy tờ có giá thì người ngay tình không phải lại cho người có
các giấy tờ đó và không phân biệt về nguyên nhân, nguồn gốc chiếm hữu ngay tình.
Đây là một quy định riêng đối với tài sản là tiền và giấy tờ có giá, trên thực tế người
chiếm hữu ngay tình không thể biết được nguồn gốc hợp pháp của tiền và giấy tờ có
giá, cho nên để đảm bảo cho các giao lưu dân sự phát triển ổn định, pháp luật công
nhận quyền sở hữu của người ngay tình.
6.2.

Trong Bộ luật dân sự của Cộng hoà Pháp.

Phương thức bảo vệ quyền sở hữu được qui định tại Thiên thứ hai mươi - Thời
hiệu và chiếm hữu. Cụ thể trong các điều luật sau:
15



Điều 2229 quy định để hưởng thời hiệu chiếm hữu phải liên tục không bị gián
đoạn, phải yên ổn, công khai, minh bạch và được thực hiện bởi danh nghĩa là chủ sở
hữu. Điều 2229 không qui định về chiếm hữu ngay tình, tuy nhiên người chiếm hữu
phải chiếm hữu bởi danh nghĩa chủ sở hữu, trên thực tế được coi như chủ sở hữu. Quy
định này giống như việc chiếm hữu ngay tình trong luật dân sự Việt Nam.
Điều 2265 quy định người ngay tình xác lập quyền sở hữu đối với bất động sản
đã mua là 10 năm nếu người chủ sở cư trú trong địa phân quản hạt có bất động sản, 25
năm nếu chủ sở hữu cư trú ngoài quản hạt. Như vậy, nếu một người mua bán bất động
sản ngay tình thì được xác lập quyền sở hữu đối với vật mua, cho nên chủ sở hữu
không đòi lại vật được. Ngược lại, người mua chưa đủ thời hạn xác lập quyền sở hữu
phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Điều luật cũng không quy định việc mua bán theo
phương thức nào (đấu giá..), bởi vì đây là trường hợp xác lập quyền sở hữu đặc biệt.
Thông thường thời hiệu khởi kiện đối với tài sản hoặc quyền nhân thân đều 30 năm,
tuy nhiên trường hợp mua bán ngay tình bất động sản là 10 năm, thì xác lập quyền sở
hữu. Qui định này hợp lý hơn so với Điều 258 BLDS Việt Nam.
Điều 2279 quy định người đánh mất hoặc đã bị lấy trộm vật thì có thể đòi lại từ
người đang giữ trong thời hạn 3 năm kể từ ngày mất vật, người giữ vật có thể kiện đòi
người đã chuyển nhượng vật cho mình. Trường hợp này người đang thực tế giữ vật là
ngay tình, cho nên theo thời hiều xác lập quyền sở hữu trong trường hợp đặc biệt này
là 3 năm. Do vậy trong thời hạn 3 năm kể từ ngày mất vật chủ sở hữu có quyền đòi lại
vật từ người chiếm hữu ngay tình và người ngay tình có quyền đòi tiền mua từ người
bán cho mình.
Điều 2280 quy định, người đang giữ vật của người khác bị mất mà đã mua vật
đó ở chợ, hội chợ, bán đấu giá, thì chủ sở hữu chỉ có quyền lấy lại vật bằng cách trả
cho người giữ vật số tiền đã mua. Ngoài ra, điều luật này còn quy định, người cho
thuê muốn đòi lại động sản cho thuê đã bị chuyển dịch, muốn đòi lại vật thì phải trả
cho người có vật số tiền mua vật đó. Theo quy định của Điều 2280 nếu người ngay
tình mua thông qua bán đấu giá, tại hội chợ chưa được xác lập quyền sở hữu theo thời

hiệu thì chủ sở hữu chỉ có thể lấy lại tài sản bằng phương thức mua lại tài sản đó. Quy
định này phù hợp với thực tế, bởi lẽ người mua qua đấu giá, hoặc trong hội chợ thì
không buộc phải biết nguồn gốc tài sản có hợp pháp hay không, vì đó là cuộc mua bán
công khai nơi công cộng mà ai cũng có thể mua và bán, vì thế để đảm bảo cho các
giao lưu dân sự thông thoáng, ổn định, thì cần phải bảo vệ người mua ngay tình.
Bảo vệ quyền sở hữu là trách nhiệm của các nhà nước đối với công dân và các
tổ chức, tuy nhiên mỗi quốc gia có phương thức bảo vệ riêng. Mỗi phương thức đó
đều tồn tại điểm manh và yếu và nếu kết hợp được các phương thức trên thì quyền sở
hữu sẽ được bảo vệ tốt nhất.
III.

THỰC TRẠNG ÁP DỤN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN
THIỆN KIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÒI LẠI TÀI SẢN.
1. Thực trạng áp dụng pháp luật và một số hạn chế còn tồn tại.
16


Tranh chấp về quyền sở hữu luôn là vấn đề phức tạp trong quá trình giải quyết
của Tòa án. Theo báo cáo tổng kết của ngành Tòa án thì trong những năm gần đây
ngành Tòa án đã thụ lý và xét xử một số lượng khá lớn các tranh chấp về quyền sở
hữu, trong đó các vụ án về kiện đòi lại tài sản chiếm một số lượng không nhỏ và phức
tạp về tính chất. Cụ thể là:
Thứ nhất, theo Điều 258 BLDS quy định, đối với trường hợp tài sản là động
sản phải đăng kí quyến sở hữu thì chỉ có chủ sở hữu mới có quyền kiện đòi lại tài sản,
người chiếm hữu hợp pháp không có quyền này. Đây là một trong những khiếm
khuyết cần được sửa đổi, bổ sung.
Thứ hai, trong trường hợp cho mượn, thuê tài sản, nhiều người đã lợi dụng kẽ
hở của pháp luật về thừa kế, đã dùng tài sản thuê, mượn đó để làm di sản thừa kế cho
người khác. Trong trường này, pháp luật không bảo vệ được quyền lợi chính đáng của
chủ sở hữu. Cũng chính điều này khiến nhiều người lợi dụng lòng tin của người khác

để chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu.
Thứ ba, việc cung cấp chứng cứ chứng minh quyền sở hữu đối với vật rất quan
trọng . Vì nhiều lí do khác nhau mà đương sự không thể cung cấp đầy đủ chứng cứ
cần thiết, điều đó có thể dẫn tới việc giải quyết sai vụ án, gây ảnh hưởng đến quyền
của các bên đương sự
Thứ tư, có nhiều vụ án với nhiều tình tiết phức tạp trong khi các quy định của
pháp luật chưa thực sự đầy đủ khiến cho việc giải quyết các vụ việc chưa thật sự chính
xác, rủi ro của người sở hữu, chiếm hữu hợp pháp cao.
Thứ năm, nhiều vụ án có liên quan đất đai trong khi chính sách quản lý của
Nhà nước về đất đai còn lỏng lẻo, chưa đồng bộ, dẫn đến nhiều tình trạng lợi dụng khe
hở đó để tự ý lấn chiếm đất của người khác, UBND thu hồi đất vô căn cứ, trên một
diện tích có đến 2, 3 người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất….
2. Nguyên nhân của những vướng mắc, hạn chế còn tồn tại trong
thực tiễn áp dụng kiện đòi lại tài sản.
Thứ nhất, nhiều nơi, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa biên chế trong ngành Tòa án
không đủ, trình độ một bộ phận thẩm phán còn hạn chế trong khi hàng năm có một số
lượng lớn các vụ án dân sự liên quan đến tranh chấp về sở hữu nói chung, về kiện đòi
tài sản nói riêng.
Thứ hai, một số văn bản quy phạm pháp luật chưa rõ ràng, thiếu đồng bộ, thậm
chí không phù hợp với thực tiễn. Những cơ quan chức năng chưa có văn bản hướng
dẫn, sửa đổi kịp thời làm cho việc giải quyết các vụ án gặp nhiều khó khăn, gây ảnh
hưởng đến quyền lợi của người dân.
Thứ ba, việc thu thập chứng cứ có ý nghĩa quan trọng và là cơ sở để Tòa án
giải quyết các vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế, vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà Tòa
án giải quyết vụ án khi chưa thu thập đủ chứng cứ dẫn đến giải quyết sai vụ án.
17


Thứ tư, tinh thần trách nhiệm và ý thức của một bộ phận cán bộ, công chức
trong ngành Tòa án chưa cao, thậm chí có nhiều biểu hiện suy thoái về đạo đức như

nhận hối lộ để làm sai lệch hồ sơ vụ án.
Thứ năm, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn kém, chưa đồng đều,
một bộ phận người dân chịu ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường đã có
những hành vi trái pháp luật, chiếm đoạt tài sản, lấn chiếm đất đai…của người khác.
3. Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về kiện
đòi lại tài sản.
Thứ nhất, về Điều 257, Điều 258 BLDS năm 2005:
-

-

Đảm bảo tính thống nhất giữa Điều 257, 258 về quyền đòi lại tài sản bởi Điều
256 dành quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản,
người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật cho cả người chủ sở hữu
hoặc người chiếm hữu hợp pháp.
Cho phép người chiếm hữu hợp pháp có thể khởi kiện đòi lại tài sản nhằm đảm
bảo quyền lợi cho người chiếm hữu hợp pháp.
Thừa nhận người chiếm hữu hợp pháp có quyền khởi kiện đòi lại tài sản nhằm
bảo vệ lợi ích cho chủ sở hữu.

Hai là, về quyền đòi lại tài sản là động sản không phải đăng kí quyền sở hữu từ
người chiếm hữu ngay tình theo Điều 257 BLDS 2005: Để bao quát hết các trường
hợp nên dùng cụm “ thông qua giao dịch” thay cho cụm “thông qua hợp đồng”
Ba là, về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu: cần giải thích rõ cụm từ “ người
được lợi về tài sản”
Bốn là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục các quy định pháp
luật về quyền sở hữu đến người dân để bảo vệ quyền sở hữu của chính mình và tôn
trọng quyền sở hữu của người khác.
Năm là, nâng cao chất lượng xét xử , giải quyết của tòa án. Theo đó phải tăng
cường công tác đào tạo chuyên môn hóa cho đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Tòa án…

Sáu là, đảm bảo cơ sở vật chất và quan tâm hơn nữa về chế độ, chính sách cho cán
bộ công tác Tòa án đặc biệt là cán bộ, Thẩm phán cấp huyện ở vùng sâu, vùng xa.

C. KẾT LUẬN
BLDS đã ghi nhận và phân biệt nhiều phương thức kiện dân sự khác nhau để
bảo vệ quyền sở hữu. Sự đa dạng của cuộc sống cho chúng ta thấy rằng, sự xâm phạm
18


đến quyền sở hữu khác nhau cùng với những tình tiết khác nhau. Vì vậy, vấn đề là
phải lựa chọn phương thức nào cho phù hợp với mức độ và những tình tiết cụ thể của
vụ việc. Kiện đòi lại tài sản là một trong những phương thức quan trọng, phát huy
hiệu quả trong thực tế để bảo vệ quyền sở hữu của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp
pháp trong thực tế, ngăn chặn các hành vi vi phạm. Trong thực tế xét xử, có nhiều
thành tựu đạt được nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Do vậy, hoàn thiện pháp luật,
nâng cao hiểu biết của người dân, trình độ của hệ thống Thẩm phán…là những biện
pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả của phương thức này.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
19


1. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 1, NXB Công an nhân dân, ĐH Luật Hà
Nội, Hà Nội- 2012.
2. Bộ luật dân sự năm 2005.
3. Bài viết “Quy định kiện đòi lại tài sản theo pháp luật Việt Nam và của một số
nước trên thế giới” - TS. Nguyễn Minh Tuấn - Khoa Luật dân sự - Đại học
Luật Hà Nội.
4. Luận văn thạc sĩ luật học: “Kiện đòi lại tài sản- Một số vấn đề lí luận và thực
tiễn” - Đinh Thị Tâm, Hà Nội-2012.

5. Internet:
• />• />• />
20


MỤC LỤC

21



×