Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tạm giữ trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.38 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc trong số
các biện pháp ngăn chặn khác được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Tạm
giữ nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc hành vi cản trở việc điều tra khám
phá tội phạm của người bị nghi là thực hiện hành vi phạm tội, tạo điều kiện cho
cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình. Do đó, việc hiểu
và sử dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong quá trình tố tụng hình sự như thế
nào cho hợp lý và đúng thủ tục pháp luật quy định là điều rất cần thiết. Để làm rõ
hơn vấn đề này, trong bài làm này em tìm hiểu đề tài “Tạm giữ trong tố tụng
hình sự”.

NỘI DUNG
I. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN TẠM GIỮ
1. Khái niệm chung về biện pháp ngăn chặn tạm giữ
Tội phạm là hành vi nguy hiểm không chỉ cho riêng một cá nhân nào mà
hành vi nguy hiểm cho xã hội, nguy hiểm cho lợi ích chung của cộng đồng, do
vậy khi nhà nước tham gia giải quyết, xử lí tội phạm các cơ quan có thẩm quyền
có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế để tác động tới đối tượng thực hiện
hành vi phạm tội. Các biện pháp cưỡng chế là sự tác động một chiều không phụ
thuộc vào ý trí của bên bị tác động mà xuất phát từ những căn cứ điều kiện do
pháp luật quy định. Và tùy thuộc vào mục đích áp dụng, đối tượng áp dụng hoặc
những tiêu chuẩn khác mà các nhà làm luật phân chia các biện pháp cưỡng chế
trong tố tụng hình sự thành những nhóm và trong mỗi nhóm lại có những biện
pháp, những trình tự thủ tục khác nhau, bao gồm hai nhóm chính là nhóm các
biện pháp ngăn chặn và nhóm các biện pháp điều tra. Theo Điều 79 BLTTHS
2003 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì nhóm các biện pháp
ngăn chặn bao gồm các biện pháp sau: Bắt (bao gồm bắt người trong trường hợp
khẩn cấp, bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang, bắt người bị truy nã và
1



bắt bị can bị cáo để tạm giam), tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
lĩnh đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm.
Theo quy định tại Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì: “Tạm
giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan và những người có
thẩm quyền áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội
quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy
nã”.
2. Mục đích của tạm giữ
Mục đích của biện pháp ngăn chặn tạm giữ là nhằm ngăn chặn hành vi
phạm tội hoặc hành vi cản trở việc điều tra khám phá tội phạm của người bị nghi
là thực hiện hành vi phạm tội; tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền có đủ
thời gian để xác định tính chất, mức độ của hành vi; nhân thân của người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội để từ đó các cơ quan tiến hành tố tụng có thể
đưa ra được những quyết định hợp lý hơn trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự.
Trong những trường hợp khác nhau, biện pháp tạm giữ có những mục đích
có thể khác nhau. Đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả
tang, người phạm tội tự thú, đầu thú là để ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi
trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra của người phạm tội, tạo điều kiện
cho Cơ quan điều tra thu thập chứng cứ tài liệu, bước đầu xác định tính chất hành
vi của người bị tạm giữ. Còn tạm giữ đối với người bị bắt theo lệnh truy nã để có
thời gian cho cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt.
3. Đối tượng tạm giữ
Theo quy định tại Điều 86, Khoản 1 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
“Tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp
khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người
bị bắt theo quyết định truy nã”.

2



Thứ nhất, người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang: Bắt
người trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang trong các trường hợp sau
đây: (1), Khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất
nghiêm trong hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Việc bắt người trong trường hợp này
phải bảo đảm hai điều kiện: có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện
tội phạm, tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng
hoặc đặc biệt nghiêm trọng. (2), Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy
ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội
phạm và xét thấy cần ngăn chặn người đó bỏ trốn. (3), Khi thấy có dấu vết của tội
phạm ở người hoặc chỗ của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần
ngăn chặn việc người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Thứ hai, người phạm tội tự thú, đầu thú: Người phạm tội “tự thú” là
trường hợp người phạm tội tự mình nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của
mình, trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội. Người nào bị bắt, bị phát
hiện về một hành vi phạm tội cụ thể, nhưng trong quá trình điều tra tự mình nhận
tội và khai ra những hành vi phạm tội khác của mình mà chưa bị phát hiện, thì
cũng được coi là tự thú đối với việc tự mình nhận tội và khai ra những hành vi
phạm tội của mình mà chưa bị phát hiện. “Đầu thú” là có người đã biết hành vi
phạm tội của người phạm tội, nhưng biết không thể trốn tránh được nên người
phạm tội đến cơ quan có thẩm quyền trình diện.
Thứ ba, người bị bắt theo quyết định truy nã là trường hợp người bị bắt đã
có quyết định truy nã của cơ quan có thẩm quyền.
Tuy nhiên, sau khi bị bắt trong các trường hợp nêu trên, người bị bắt có
thể không bị tạm giữ ví dụ như trong trường hợp người bị bắt phạm tội quả tang
nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị bắt có nơi cư trú
rõ ràng và không có hành động, biểu hiện sẽ cản trở việc điều tra thì không cần
phải tạm giữ. Còn đối với bắt người trong trường hợp khẩn cấp thường phải tạm
giữ vì trong hầu hết các trường hợp khi quyết định bắt khẩn cấp, Cơ quan điều tra

3


đã xác định cần phải ngăn chặn việc người đó trốn hoặc cản trở điều tra. Hoặc đối
với người bị bắt theo lệnh truy nã việc tạm giữ chỉ đặt ra khi xét thấy cơ quan đã
ra lệnh truy nã không thể đến ngay để nhận người bị bắt. Như vậy, có thể thấy
tạm giữ là một biện pháp ngăn chặn độc lập, việc quy áp dụng biện pháp này phải
có những căn cứ nhất định chứ không phụ thuộc vào biện pháp bắt; hay nói cách
khác, biện pháp tạm giữ không phải là biện pháp ngăn chặn bắt buộc phải áp
dụng sau khi bắt người.
4. Thẩm quyền tạm giữ
Khoản 2 Điều 86 BLTTHS quy định “ Những người có quyền ra lệnh
bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng
cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ”. Theo khoản 2 Điều 86 quy định
về thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì có bốn nhóm
người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp, gồm những nhóm người sau đây:
- Thứ nhất, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp (gồm: cơ
quan điều tra trong công an nhân dân, cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân,
cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao)
- Thứ hai, Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương
đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới.
- Thứ ba, Người chỉ huy tàu bay, sân bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã
rời sân bay, bến cảng.
- Thứ tư, Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển.
Theo quy định BLTTHS 2003 thì cơ quan điều tra cấp huyện trở lên mới
có quyền ra lệnh tạm giữ. Chính quyền và công an cấp xã, phường, thị trấn không
có quyền tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự. Thực hiện quy định này, khi nhận
người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì UBND
xã, phường hoặc thị trấn phải tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, biên bản
bắt người đang bị truy nã và giải ngay người bị bắt đến cơ quan có thẩm quyền.


4


Như vậy, những người có quyền ra quyết định tạm giữ không hoàn toàn là
những người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả những
người của các cơ quan Nhà nước khác hoặc trong lực lượng vũ trang.
5. Thủ tục tạm giữ
Tạm giữ người theo thủ tục tố tụng hình sự là biện pháp ngăn chặn được
quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự, do người có thẩm quyền áp dụng đối với
người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự
thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã nhằm ngăn chặn tội
phạm, ngăn chặn người bị bắt trốn tránh việc điều tra; để xác minh tội phạm và
để quyết định việc truy cứu trách nhiệm hình sự (khởi tố bị can) đối với họ. Thẩm
quyền ra lệnh tạm giữ quy định tại khoản 2 Điều 86 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm
2003.
Thủ tục tạm giữ bao gồm: Quyết định tạm giữ; các công việc mà người thi
hành quyết định tạm giữ phải thực hiện trước hoặc sau khi tạm giữ người. Quyết
định tạm giữ không đòi hỏi phải có sự phê chuẩn của Viện Kiểm Sát trước khi thi
hành.
Quyết định của người có thẩm quyền phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người
bị tạm giữ, lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải được giao cho người bị
tạm giữ một bản. Người thi hành quyết định tạm giữ phải giải thích cho người bị
tạm giữ các quyền và nghĩa vụ của họ. Quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ
được quy định tại Điều 48 Bộ luật Tố tụng Hình sự gồm các quyền: Được biết lý
do mình bị tạm giữ; được giải thích về quyền và nghĩa vụ; trình bày lời khai; tự
bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; khiếu
nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Người bị tạm giữ có nghĩa vụ thực hiện các quy định về
tạm giữ theo quy định của pháp luật. Quy định về tạm giữ được quy định tại Quy

chế về tạm giữ, tạm giam ban hành kèm theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày

5


7 năm 11 năm 1998, bao gồm: Quy định về việc quản lý nhà tạm giữ, người bị
tạm giữ; Quy định về chế độ đối với người bị tạm giữ.
Để bảo đảm cho công tác kiểm sát giam giữ, tránh vi phạm quyền tự do,
bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, tại khoản 3 Điều 86 của Bộ luật Tố
tụng Hình sự năm 2003 đã quy định: “Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết
định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu
xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra
quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự
do ngay cho người bị tạm giữ. Quyết định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, thời
hạn tạm giữ ngày hết hạn tạm giữ và giao cho người bị tạm giữ một bản”. Khi ra
quyết định tạm giữ, nếu người bị tạm giữ có con chưa thành niên dưới 14 tuổi và
thân nhân là người tàn tật, già yếu không có người chăm sóc, thì cơ quan ra lệnh
tạm giữ phải giao những người đó cho người thân thích hoặc cho chính quyền địa
phương chăm sóc. Trong trường hợp người bị tạm giữ có nhà hoặc tài sản khác
mà không có người trông nom, thì cơ quan ra lệnh tạm giữ phải áp dụng những
biện pháp bảo quản thích đáng. Cơ quan ra lệnh tạm giữ phải thông báo cho
người bị tạm giữ những biện pháp đã được áp dụng để chăm sóc con nhỏ, người
thân già yếu, tàn tật và bảo quản nhà cửa, tài sản của người bị tạm giữ.
6. Thời hạn tạm giữ
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 87 BLTTHS năm 2003 thì “Thời hạn
tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt”.
Để đạt được mục đích của việc tạm giữ, thời điểm tính thời hạn tạm giữ không
phải là thời điểm bắt người. Mặt khác, để hạn chế việc giữ người trái pháp luật
thời điểm tính thời hạn tạm giữ cũng không được tính từ lúc ra lệnh tạm giữ mà
được tính từ khi Cơ quan điều tra nhận được người bị bắt. Thời điểm Cơ quan

điều tra nhận được người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp tính từ khi người bị
bắt bị giải tới trụ sở Cơ quan điều tra. Trong trường hợp người bị bắt phạm tội

6


quả tang hoặc người bị truy nã thời điểm tính từ khi công dân nhận hoặc tổ chức
giao người bị bắt cho Cơ quan điều tra.
Tuy nhiên, Khoản 2 Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự quy định thêm những
trường hợp sau đây: Thứ nhất, “Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định
tạm giữ có thể ra hạn tạm giữ nhưng không được quá ba ngày”. Những trường
hợp cần thiết là những trường hợp sự việc xảy ra có nhiều tình tiết phức tạp, việc
xác minh phải thực hiện ở nhiều địa phương khác nhau hoặc cần phải có thêm
thời gian để làm rõ về hành vi, làm rõ căn cước, lý lịch của người bị tạm giữ. Thứ
hai, “Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm
giữ lần thứ hai nhưng cũng không được quá ba ngày” Đây thông thường là
trường hợp đối với vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và một số vụ án hình sự
khác có nhiều người tham gia, sự việc cần xác minh rất phức tạp mặc dù đã gia
hạn tạm giữ lần thứ nhất vẫn chưa làm rõ được sự việc. “Mọi trường hợp gia hạn
tạm giữ phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn” (Khoản 2, Điều 87 Bộ
luật tố tụng hình sự). Việc gia hạn tạm giữ chỉ có giá trị khi được Viện kiểm sát
cùng cấp phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì cơ quan đã ra lệnh
tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ sau khi hết hạn tạm giữ trước
đó. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên
quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc
không phê chuẩn. Việc BLTTHS quy định hai lần có thể gia hạn tạm giữ nhằm
bảo đảm tính có căn cứ và cần thiết của việc tạm giữ, hạn chế hiện tượng tạm giữ
tràn làn, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, do
vậy đòi hỏi người áp dụng pháp luật phải nhận thức rõ vấn đề này để bảo đảm áp
dụng pháp luật được tốt

“Khi hết thời hạn tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả
tự do ngay cho người bị tạm giữ” (Khoản 3, Điều 87, Bộ luật tố tụng hình sự).
Đây là trường hợp không cần gia hạn tạm giữ hoặc đã gia hạn tạm giữ lần thứ
nhất hoặc lần thứ hai nhưng vẫn không đủ căn cứ để xác định người bị tạm giữ đã
7


thực hiện tội phạm thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. “Thời hạn tạm
giữ được được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một
ngày tạm giam”. (Khoản 4, Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự). Trường hợp người
bị tạm giữ sau đó không bị tạm giam thì khi Tòa án quyết định hình phạt tù đối
với bị cáo, thời hạn đã tạm giữ được trừ vào thời hạn phải chấp hành hình phạt tù
theo nguyên tắc một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tù.
Việc tạm giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không có quy định
khác về thời hạn tạm giữ.
Cách tính thời hạn trong tố tụng hình sự: khi tính thời hạn theo ngày thì
thời hạn sẽ hết vào lúc 24 giờ, do vậy trong cách tính thời han tạm giữ, thời điểm
ra lệnh tạm giữ chỉ có ý nghĩa để tính ngày bị tạm giữ chứ không có ý nghĩa tính
giờ bị tạm giữ, nói cách khác mặc dù các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
tạm giữ vào lúc mấy giờ nhưng thời hạn tạm giữ chỉ hết vào lúc 24 giờ của ngày
hết hạn.
II. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ TẠM GIỮ
1. Thực trạng áp dụng các quy định về tạm giữ vào thực tiễn trong
thời gian qua
Để đánh giá thực trạng việc áp dụng các quy định của pháp luật về tạm giữ
trong tố tụng hình sự, dựa vào các số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao cho thấy việc giải quyết những trường hợp bị tạm giữ nhanh, đúng thời
hạn luật định. Việc chấp hành thủ tục tố tụng trong việc tạm giữ được chú trọng
hơn trước. Việc chuyển lệnh tạm giữ của cơ quan điều tra cho Viện kiểm sát

nhân dân các cấp đã được thực hiện tốt hơn trước. Hầu hết các Viện kiểm sát cấp
tỉnh đã thực hiện nghiêm túc việc phê chuẩn việc bắt khẩn cấp, chất lượng phê
chuẩn được nâng lên hầu hết việc phê chuẩn đều đúng pháp luật. Về chất lượng
việc bắt, tạm giữ được khởi tố hình sự đạt tỷ lệ cao hơn so với những năm trước
đây. Những tiến bộ nói trên là do từ sau khi có Chỉ thị 53 của Thường vụ Bộ
8


Chính trị về đường lối bắt, giữ và trách nhiệm của của các cơ quan tiến hành tố
tụng nên ý thức trách nhiệm của người tiến hành tố tụng được nâng cao hơn. Các
cơ quan Công an, Viện kiểm sát có sự chỉ đạo phooid hợp với nhau nên kịp thời
khắc phục ngay những vi phạm pháp luật trong hoạt động bắt và tạm giữ.
Tuy nhiên, quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về tạm giữ vẫn
còn có những vi mặt hạn chế nhất định. Việc tạm giữ không đúng quy định của
pháp luật vẫn xảy ra; việc tạm giữ hình sự nhưng sau đó phải trả tự do vì không
có căn cứ chứng minh tội phạm hoặc phải chuyển xử lý hành chính còn chiếm tỷ
lệ cao ở một số nơi. Có nơi vì muốn có tỷ lệ khởi tố trong tạm giữ hình sự cao
hơn nên đã lạm dụng việc bắt và tạm giữ hành chính. Các đối tượng phạm tội lẽ
ra phải bắt và tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự nhưng cơ quan điều tra đã ra
lệnh tạm giữ hành chính 24 giờ rồi sau đó phân loại xử lý hành chính để lọt tội
phạm, hoặc tiếp tục ra lệnh tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự. Cách xử lý như
vậy là trái với quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Ngoài ra, còn nhiều trường
hợp cơ quan điều tra bắt khẩn cấp nhưng sau đó không kịp gửi văn bản thông báo
cho Viện kiểm sát để Viện kiểm sát phê chuẩn mà vẫn ra lệnh tạm giữ, hoặc sau
khi ra lệnh tạm giữ nhưng không gửi hoặc gửi lệnh tạm giữ cho Viện kiểm sát
chậm so với quy định của pháp luật. Có trường hợp cơ quan điều tra bắt khẩn cấp
và ra lệnh tạm giữ, sau đó cần ra hạn tạm giữ mới chuyển lệnh bắt khẩn cấp và
lệnh tạm giữ cho VKS để đồng thời xin phê chuẩn lệnh gia hạn tạm giữ. Một số
nơi tạm giữ đối tượng có địa chỉ ở địa phương khác đã không quyết định khởi tố
hình sự lại chuyển cho địa phương nơi cư trú của người bị tạm giữ để khởi tố là

trái quy định của Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
2. Những vướng mắc trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ
* Thứ nhất, vướng mắc về thẩm quyền ra quyết định tạm giữ: để đảm bảo
cho yêu cầu kịp thời đấu tranh chống tội phạm trên các vùng biển của đất nước,
lực lượng Cảnh sát biển đã được thành lập và lực lượng này cũng cần phải có
thẩm quyền bắt người trong trường hợp khẩn cấp và thẩm quyền tạm giữ. Tuy
9


nhiên, Điều 81 BLTTHS năm 2003 lại không quy định thẩm quyền ra lệnh bắt
khẩn cấp cho lực lượng này, thế nhưng Khoản 2, Điều 86 BLTTHS lại quy định
cho lực lượng này có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ.
Mặt khác, theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành thì các cơ
quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm được tham gia vào một số hoạt động TTHS
như khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu như: “…ra quyết
định khởi tố vụ án, lấy lời khai…Xét cần ngăn chặn ngay người có hành vi phạm
tội chạy trốn thì tạm giữ ngay người đó và xin lệnh tạm giữ của cơ quan có thẩm
quyền…”…Tuy nhiên, cũng chưa có quy định chính thức nào trong BLTTHS
cho phép cơ quan Hải quan, Kiểm lâm có quyền bắt khẩn cấp hoặc tạm giữ và
như vậy thì người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội vẫn được tự do, tẩu
tán tang tài vật, trốn tránh pháp luật…
*Thứ hai, vướng mắc trong việc phân loại để tạm giữ sau khi bắt khẩn cấp
hoặc quả tang: sau khi nhận người bị bắt, với thời hạn quy định ở Khoản 1 Điều
83 thì Cơ quan điều tra chưa có đủ thời gian xác minh các căn cứ để tạm giữ hay
trả tự do hay xử lý hành chính. Ví dụ như: trong quá trình giải quyết các vụ án về
ma túy, theo Điều 199 Bộ luật Hình sự năm 1999, thì chỉ người nào sử dụng trái
phép chất ma túy mà đã được giáo dục nhiều lần và đã bị xử lý hành chính bằng
biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc mà còn tiếp tục sử dụng trái phép thì
mới đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm “sử dụng trái phép chất ma túy”, nhưng sau
khi nhận người bị bắt, Cơ quan điều tra cũng chưa đủ căn cứ để phân loại những

người bị bắt để xem ai là người sẽ bị xử lý hình sự, ai là người chỉ bị xử lý hành
chính. Như vậy, vấn đề đặt ra là: cần nhận thức đúng về các trường hợp đã tạm
giữ nhưng không xử lý về hình sự, nhất là trong trường hợp tạm giữ người bị bắt
quả tang.
* Thứ ba, những vướng mắc về thời hạn tạm giữ: Một là theo quy định tại
Khoản 1 Điều 87 BLTTHS năm 2003 thì thời điểm bắt đầu của thời hạn tạm giữ
là thời điểm Cơ quan điều tra nhận người bị bắt là chưa dự tính hết các trường
10


hợp có thể xảy ra trong thực tiễn. Ví dụ như những người bị bắt trên tàu bay, tàu
biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng Việt Nam hoặc những
người bị bắt ở biên giới, hải đảo. Những người bị bắt trong trường hợp này có thể
một thời gian khá lâu sau khi bị bắt mới giải đến cho Cơ quan điều tra, vậy
khoảng thời gian đó họ sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nào? Bắt hay tạm giữ?
Bắt thì không phải vì biện pháp bắt kết thúc ngay sau khi họ thực hiện hành vi
phạm tội bị bắt, mà tạm giữ cũng không đúng vì sau khi bị bắt Cơ quan điều tra
chưa nhận được người này.
Một vấn đề nữa là thời gian từ khi gửi thông báo cho Viện kiểm sát đã yêu
cầu truy nã đến khi nhận được lệnh tạm giam hoặc bàn giao người bị bắt cho cơ
quan ra lệnh truy nã phải kéo dài nhiều ngày, nếu quá cả thời hạn tạm giữ thì phải
giải quyết như thế nào? Hai là ta thấy trong thực tế khi áp dụng các quy định về
thời hạn tố tụng nói chung và tạm giữ nói riêng thì đã nảy sinh một vấn đề cách
tính thời hạn tạm giữ như thế nào khi mà ngày kết thúc thời hạn lại là ngày nghỉ
lao động hoặc ngày lễ? Theo quy định tại Điều 96 BLTTHS năm 2003 thì: “Thời
hạn mà Bộ luật này quy định tính theo giờ, ngày và tháng”; “Khi tính thời hạn
theo ngày thì thời hạn sẽ hết vào 24 giờ ngày cuối cùng của thời hạn”; nếu thời
hạn hết vào ngày nghỉ thì ngày làm việc đầu tiên tiếp theo được tính là ngày cuối
cùng của thời hạn”. Bởi như chúng ta đã biết, thời hạn tạm giữ được tính theo
ngày. Mặc dù cơ quan tiến hành tố tụng đã có quy định phân công lãnh đạo trực

đơn vị để kịp thời giải quyết những vấn đề phát sinh, nhưng có thể nói cách tính
thời hạn trong tố tụng nói chung và trong tạm giữ nói riêng có liên quan đến
nhiều cơ quan khác nhau: Cơ quan ra lệnh tạm giữ, cơ quan phê chuẩn việc tạm
giữ cơ quan quản lý và giữ người bị tạm giữ cũng như liên quan đến chính quyền
và trực tiếp ảnh hưởng đến lợi ích của người bị tạm giữ, Do vậy, cần có những
quy định hướng dẫn chung giữa các cơ quan này để đảm bảo việc áp dụng pháp
luật được thống nhất, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ba là
theo quy định của Khoản 4 Điều 87 BLTTHS, thời hạn tạm giữ được trừ vào thời
11


hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam. Tuy nhiên,
vấn đề đặt ra là khi bị can bị tạm giam thì việc tính trừ thời hạn tạm giữ vào thời
hạn tạm giam như thế nào khi viết lệnh tạm giam? Đây đơn thuần là vấn đề về kĩ
thuật ghi văn bản, ghi như thế nào để có thể trừ thời hạn tạm giữ vào thời hạn tạm
giam, nhằm tạo điều kiện cho cơ quan giam giữ người thực hiện đúng quy định
của pháp luật về tính thời hạn tạm giữ vào thời hạn tạm giam, trong thực tiễn áp
dụng chưa thống nhất và cần được tháo gỡ kịp thời.
* Thứ tư, những vướng mắc trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giữ đối với người phạm tội ra đầu thú, tự thú. “Đầu thú” và “tự thú” là hai trường
hợp khác nhau. Tự thú là việc một hay nhiều người sau khi thực hiện hành vi
phạm tội, nhưng hành vi đó chưa bị phát hiện hoặc họ chưa bị phát hiện có hành
vi phạm tội mà đã ra trước cơ quan bảo vệ pháp luật khai nhận về hành vi phạm
tội của mình hoặc thực hiện cùng đồng bọn. Đầu thú là việc một hay nhiều người
đã thực hiện hành vi phạm tội, vụ án đã được khởi tố, họ có thể đã bị khởi tố bị
can, nhưng có thể chưa hoặc đã bị bắt, tạm giữ, tạm giam mà trốn tránh nay đang
bị truy nã, sau một thời gian, họ đã ra trước cơ quan bảo vệ pháp luật khai nhận
về hành vi phạm tội của mình. Nhưng vô hình chung chúng ta đã gộp họ là một,
khi họ phạm tội với mức độ nguy hiểm, hoàn cảnh, nhân thân… khác nhau và
quan trọng hơn cả là họ đã ý thức được hành vi nguy hiểm của mình, đã ra khai

báo với cơ quan có thẩm quyền. Điều này cần được xem xét giải quyết một cách
hợp lý.
* Thứ năm, vướng mắc về chế độ tạm giữ. Theo quy định của pháp luật,
việc tạm giữ người bị tạm giữ được thực hiện trong nhà tạm giữ của Công an cấp
huyện, hoặc một số phòng tạm giữ của các trại tạm giam cấp tỉnh. BLTTHS cũng
quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, chế độ đối với người bị tạm
giữ. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, các cơ quan có liên quan chưa thực sự tôn
trọng và bảo đảm thực hiện các quyền của người bị tạm giữ. Nhiều trường hợp
người bị tạm giữ bị đối xử không đúng, bị bỏ đói, bỏ rét hoặc bị buộc làm những
12


công việc nặng nhọc bẩn thỉu, nhiều người bị tạm giữ không được biết lý do tạm
giữ, công tác phân loại những người bị tạm giữ để xử lý chưa đúng bản chất của
sự việc,…
* Thứ sáu, vướng mắc trong việc trả tự do cho người bị tạm giữ. Theo
Khoản 3 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định: “Trong khi tạm giữ, nếu không đủ
căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ”. Việc luật
quy định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ nếu không có đủ căn cứ khởi tố bị
can là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên luật lại không quy định về thẩm quyền trả tự
do và thủ tục trả tự do cho người bị tạm giữ. Do đó đặt ra câu hỏi là: Trong
trường hợp người phải trả tự do cho người bị tạm giam thì ai có thẩm quyền trả tự
do cho họ? Phải chăng là những người có thẩm quyền ra lệnh bắt tạm giữ theo
Khoản 2 Điều 86 BLTTHS năm 2003 thì cũng là người có thẩm quyền ra lệnh trả
tự do cho người tạm giữ hay là một chủ thể khác? Thủ tục trả tự do luật cần có
quy định rõ.
III. GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TẠM GIỮ
Từ những thực trạng và những vướng mắc trên đây có thể đưa ra những
giải pháp sau để bảo đảm thực hiện đúng đắn và đầy đủ quy định biện pháp ngăn

chặn tạm giữ cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
1. Giải pháp trong công tác hoàn thiện pháp luật TTHS
* Thứ nhất, bổ sung, sửa đổi các quy định còn thiếu xót hay chưa hợp lý
về biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong BLTTHS hiện hành như có thể đưa khái
niệm tạm giữ vào Khoản 1 của điều luật về tạm giữ thay cho quy định của Khoản
1 Điều 86 BLTTHS 2003: “Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong TTHS, do cơ
quan và người có thẩm quyền do BLTTHS quy định áp dụng đối với những người
bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người đang bị truy nã,
người phạm tội tự thú, đầu thú, nhằm ngăn chặn tội phạm, tạo điều kiện cho việc
xử lý tội phạm được chính xác và kịp thời”. Về thời hạn tạm giữ có thể bổ sung
13


thêm vào Khoản 3 Điều 87 BLTTHS 2003 về thẩm quyền hủy bỏ quyết định tạm
giữ của VKS trong trường hợp có gia hạn tạm giữ “3. Trong khi tạm giữ, nếu
không đủ căn cứ khởi tố bị can thì cơ quan và những người có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, đối với những
trường hợp đã có gia hạn tạm giữ thì việc hủy bỏ quyết định tạm giữ để trả tự do
cho người bị tạm giữ phải do Viện kiểm sát quyết định”.
* Thứ hai, kiến nghị về việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện
các quy định của BLTTHS về các biện pháp ngăn chặn tạm giữ. Ta có thể ban
hành các văn bản hướng dẫn tập trung vào những vấn đề sau: về thẩm quyền áp
dụng tạm giữ của những người có thẩm quyền trong Cơ quan điều tra về chế độ
tạm giữ,…
2. Giải pháp về việc nâng cao năng lực cũng như phẩm chất đạo đức của
chủ thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ
* Thứ nhất, cần phải chấp hành nghiêm túc các tiêu chuẩn đối với các
chức danh: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, đồng thời sửa đổi, bổ sung
những quy định chưa phù hợp.
* Thứ hai, thường xuyên kiện toàn đội ngũ và tập huấn luyện nghiệp vụ

cũng như nâng cao ý thức pháp luật cho các cơ quan và những người có thẩm
quyền trong hoạt động bắt, tạm giữ nói riêng và trong hoạt động tiến hành tố tụng
nói chung.
* Thứ ba, có hình thức tuyên dương, khen thưởng kịp thời đối với những
cá nhân có thành tích trong công việc đồng thời cũng xử lý thích đáng những cán
bộ làm công tác tạm giữ vi phạm pháp luật…
3. Tăng cường sự lãnh đạo của thủ trưởng các cơ quan tiến hành tố tụng,
sự phối hợp kiểm tra giám sát giữa các cơ quan
4. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho việc
bắt, tạm giữ.
5. Giải pháp về việc xử lý các trường hợp vi phạm
14


Cần nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bằng
các hình thức quán triệt, rõ ràng, đầy đủ các trách nhiệm của họ như các chế tài
mà họ có thể bị áp dụng, nếu họ có những hành vi vi phạm trong quá trình thực
thi nhiệm vụ của mình. Ví dụ: Về trách nhiệm dân sự: thì trong khi thi hành
nhiệm vụ những người có thẩm quyền ở các cơ quan tiến hành tố tụng gây thiệt
hại do việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan sai gây ra thì phải bồi thường
thiệt hại. Còn đối với trách nhiệm hành chính thì tùy theo mức độ vi phạm mà họ
phải chịu một trong những hình thức kỷ luật sau: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc
lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc. Và nếu là trách nhiệm hình sự thì cán
bộ, công chức vi phạm pháp luật mà có dấu hiệu của tội phạm thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
6. Tổ chức tuyên truyền giáo dục thức pháp luật nhằm nâng cao trình độ
dân trí, hiểu biết và tuân thủ pháp luật của người dân, tránh tình trạng các cơ quan
có thẩm quyền áp dụng sai các quy định của pháp luật về tạm giữ đối với họ

KẾT LUẬN

Tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc trong
hệ thống các biện pháp ngăn chặn của luật tố tụng hình sự Việt Nam đồng
thời cũng là một trong những biện pháp hữu hiệu để các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình,
đồng thời cũng là biện pháp động viên toàn thể nhân dân tham gia đấu tranh
phòng chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Do
đó mà cần pháp luật cần phải có những quy định cụ thể, rõ ràng đề việc áp
dụng trong thực tế biện pháp ngăn chặn tạm giữ được đúng đắn hơn. Do
những hiểu biết của em còn nhiều hạn chế nên trong bài làm này khó tránh
khỏi những thiếu sót, kính mong các thầy cô giáo có những ý kiến nhận xét để
bài làm của em được hoàn thiện hơn./.

15



×