Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong TTHS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.48 KB, 18 trang )

NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG BÀI.
BLTTHS: BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ.
CQĐT

: CƠ QUAN ĐIỀU TRA.

VKS

: VIỆN KIỂM SÁT.

TA

: TÒA ÁN.

1


MỤC LỤC
Trang
A.MỞ
BÀI…………………………………………………………………………….1
B.
I.
II.
II.1.
II.2.

PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………...........1
Khái quát chung về người bị hại trong TTHS………………………………..1
Quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong TTHS…………………………..3
Quyền của người bị hại……………………………………………………....4


Nghĩa vụ của người bị hại……………………………………………………7

III. Thực tiễn áp dụng……………………………………………………………...11
IV…Giải pháp………………………………………………………………………13
4.1. 4.1.Giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật……………………………….12
4.1.1. Hoàn thiện khái niệm “người bị hại”……………………………………..12
4.1.2. Giải pháp về Vấn đề liên quan đến đại diện hợp pháp của người bị hại…12
41..3. Về vấn đề liên quan đến đến vấn đề thực hiện quyền của người bị hại…13
4.1.4. Giải pháp về chế định khởi tố người bị hại…………………………………14
4.1.5.Bổ sung quy định sự có mặt của người đại diện hợp pháp của người bị hại
theo giấy triệu tập của CQTHTT……………………………………………………..15
4.2.Giải pháp khác……………………………………………………………………..15
4.2.1.Tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật và thi hành pháp luật nâng
cao trình độ, nghiệp vụ phẩm chất đạo đức của người tiến hành TT……………..15
4.2.2. Nâng cao ý thức pháp luật của người dân…………………………………..16
C. KẾT LUẬN…………………………………………………………………………16
Danh mục tài liệu tham khảo.

2


A.MỞ BÀI.
Có thể nói rằng, Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng nói
chung và người bị hại nói riêng là một trong những nội dung quan trọng trong định
hướng cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) ở nước
ta hiện nay. Bởi lẽ người bị hại là người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại
nặng nề nhất, là người chịu thiệt thòi nhiều nhất trong số những người tham gia tố tụng.
Vì vậy, người bị hại cần phải được bảo vệ kịp thời, thậm chí ngay khi họ bị đe dọa gây
thiệt hại. Một trong những công cụ pháp lý quan trọng để bảo vệ người bị hại đó là pháp
luật TTHS (1). Nhưng trên thực tế để đảm bảo thực hiện tốt vấn đề này thì đó không

phải là điều dễ dàng và tình trạng pháp luật tố tụng hình sự( TTHS) còn bỏ sót hoặc là
chưa có những quy định đầy đủ về vấn đề này. Chính vì vậy em xin lựa chọn đề tài “…”
để làm rõ hơn một số khía cạnh về người bị hại.
B. PHẦN NỘI DUNG.
I. Khái quát chung về người bị hại trong TTHS.
Pháp luật TTHS của các nước không có sự thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ
người bị hại. Chẳng hạn luật TTHS của Cộng hòa Pháp, Liên bang Nga hay Việt nam
dùng thuật ngữ “người bị hại”, trong khi đó luật TTHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
thì dùng thuật ngữ “người tố cáo”. Ngoài ra người bị hại còn được gọi là “người bị thiệt
hại”, hay gọi là “nạn nhân”, hay “dân sự nguyên cáo”. Người bị hại là một khái niệm
quen thuộc trong khoa học pháp lý về TTHS, dường như không cần phải luận bàn. Tuy
nhiên thế nào là người bị hại, phạm vi người bị hại...thì cho đến nay vẫn chưa có sự
nhận thức thống nhất, các ý kiến còn khác nhau. Để có sự nhận thức đầy đủ và thống
nhất về khái niệm người bị hại theo chúng tôi cần tiếp cận khái niệm này dưới những
góc độ khác nhau:
- Dưới góc độ ngôn ngữ có thể hiểu người bị hại là con người cụ thể trong xã hội, chịu
sự tác động tiêu cực của sự việc, hành vi hoặc bất kỳ sự tác động nào khác khác dẫn đến
những thiệt thòi, mất mát hay tổn thương cho chính họ. Tất nhiên sự tác động đó là trái
với ý muốn của người bị hại và họ tiếp nhận một cách thụ động. Thiệt hại gây ra cho
người bị hại có thể là thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất và không cần phải giới hạn
mức độ thiệt hại.
- Dưới góc độ ngôn ngữ pháp lý thì người bị hại là “người bị thiệt hại về thể chất, về
tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị người
phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản chứ không thể là pháp
nhân”.[1]
3


Dưới góc độ pháp luật thực định thì ở nước ta đã có quy định về người bị hại trong bộ
luật TTHS năm 2003

Tại khoản 1, điều 51, Bộ luật TTHS năm 2003: “ người bị hại là người bị thiệt hại về thể
chất, tinh thần , tài sản do tội phạm gây ra”.
Pháp luật một số nước cũng có quy định tương tự. Chẳng hạn, Điều 53 Bộ luật TTHS
Liên bang Nga quy định: “Người bị hại là người bị tội phạm gây thiệt hại về tinh thần,
thể chất hoặc tài sản. Người tiến hành điều tra, dự thẩm viên, thẩm phán, tòa án ra
quyết định công nhận là người bị hại”. Còn khoản 1 Điều 43 Bộ luật TTHS của Tiệp
khắc trước đây quy định: “Người bị hại là người bị tội phạm gây thiệt hại về sức khỏe
hoặc tài sản, tinh thần hoặc những thiệt hại khác”. Bộ luật TTHS Rumani cũng có quy
định tương tự. Điều đó cho thấy pháp luật các nước có sự thống nhất trong định nghĩa
người bị hại: Người bị hại là con người cụ thể; thiệt hại gây ra đó là tinh thần, thể chất,
tài sản hoặc những thiệt hại khác; những thiệt hại đó do tội phạm gây ra. [2]
Luật TTHS nước ta chỉ coi người bị hại là công dân, pháp nhân hay tổ chức xã hội
không được coi là người bị hại, Người bị hại phải là con người cụ thể bị hành vi phạm
tội trực tiếp xâm hại tới. Thể chất, tinh thần, tài sản của họ phải là đối tượng của tội
phạm. Thiệt hại mà người bị hại phải chịu là thiệt hại thực tế nếu thể chất , tinh thần, tài
sản của một người chưa bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra thì nguwoif đó không
được coi là người bị hại.Xét về mặt hình thức, người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần tài
sản do tội phạm gây ra chỉ trở thành người bị hại trong TTHS khi họ được cơ quan có
thẩm quyền công nhận thông qua hành vi triệu tập họ đến khai báo với tư cách người bị
hại. Trong trường hợp hành vi phạm tội không bị phát hiện và xử lý hoặc trường hợp
không xác định được người bị thiệt hại mặc dù trên thực tế có người bị thiệt hại về vật
chất, tinh thần, tài sản do hành vi phạm tội gây ra thì người đó cũng không trở thành
người bị hại trong TTHS.Trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp
pháp của học có quyền của người bị hại . Nếu người bị hại chưa thành niên hoặc là
người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì đại diện hợp pháp của họ sẽ cùng
tham gia tố tụng. [3]
II.

Quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong TTHS.


Như đã biết, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó xâm hại đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của người bị hại, đó có thể là những
thiệt hại vô cùng lớn mà người bị hại phải gánh chịu, vì vậy Nhà nước cần phải có biện
pháp cụ thể để bảo vệ người bị hại, khôi phục lại trạng thái ban đầu hoặc kịp thời khắc
phục thiệt hại do tội phạm gây ra đối với họ. Bên cạnh đó, người bị hại là người biết
được các tình tiết của vụ án nên họ cũng phải có nghĩa vụ công dân trong việc giúp các
4


cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Do vậy, khi tham gia tố
tụng, người bị hại có một số quyền và phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định. Hiện
nay, quyền và nghĩa vụ của người bị hại được quy định tại Điều 51 BLTTHS. [4]
2.1. Quyền của người bị hại
Theo quy định tại khoản 2, điều 51, Bộ luật TTHS năm 2003 thì người bị hại sẽ có
những quyền sau đây:
Đưa ra tài liệu đồ vật , yêu cầu:
Theo quy định tại điểm a, khoản 2,điều 51 BLTTHS.
Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ có quyền đưa ra những đồ vật, tài liệu để
chứng minh hành vi phạm tội, chứng minh những thiệt hại mà họ đã phải chịu do hành
vi phạm tội gây ra. Ví dụ như bị thiệt hại về tài sản, hay thiệt hại về sức khỏe do hành vi
phạm tội gây ra…Người bị thiệt hại cũng có yêu cầu mời them người làm chứng, yêu
cầu giám định mức đọ thương tật…
Trong quá trình giải quyết VAHS hồ sơ, chứng cứ xác lập trong giai đoạn điều tra là rất
quan trọng cho việc xét xử tại phien tòa. Tuy nhiên các chứng cứ có trong hồ sơ trong
nhiều trường hợp còn chưa đầy đủ và không loại trừ việc thiếu khách quan. Đặc biệt đối
với VAHS trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các CQTHTT cho nên đa số các
trường hợp CQĐT, VKS chỉ thu thập những chứng cứ buộc tội, điều đó tại nên sự không
đầy đủ và chưa chính xác. Chính vì vậy người bị hại có quyền “đưa ra tài liệu yêu cầu”
để vụ án được giải quyết một cách chính đúng đắn và khách quan.
Được thông báo kết quả điều tra:

Người bị hại được thông báo kết quả điều tra để họ biết được những vấn đề thuộc nội
dung vụ án trên cơ sở đó chuẩn bị chứng cứ, lý lẽ hoặc yêu cầu để buộc tội bị cáo hoặc
để chứng minh những thiệt hại mà bị can gây ra cho mình. Đây là trường hợp mà người
bị hại cần biết các thông tin cần thiết của quá trình điều tra để người bị hại tham gia tố
tụng tại phiên tòa xét xử chứng minh những thiệt hại đã xảy ra với mình tại phiên tòa và
dùng lý lẽ chứng cứ để buộc tội bị cáo.
Quyền được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch theo quy định tại khoản 2, điều 43, Bộ luật TTHS năm 2003.
Đối với vụ án hình sự thông thường quyền lợi của người bị hại luôn đối lập với người
phạm tội. Vì vậy họ rất cần người THTT phải thật sự khách quan vô tư mới đảm bảo
quyền lợi của họ. Khi có căn cứ cho rằng Người THTT không vô tư trong khi thực hiện
nhiệm vụ thì người bị hại có quyền thay đổi họ theo quy định cụ thể tại các điều 42,
5


44,45,46,47,60,61 BLTTHS.Đối với quyền này thì Luật quy định như trên đảm bảo
được tính chính xác và khách quan của vụ án.
Quyền được đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường:
Quyền này hiện được quy định tại điểm d, khoản 2, điều 51, BLTTHS.
Người bị hại là người mà chính bản thân họ bị thiệt hại do hành vi phạm tội trực tiếp
xâm hại tới chính vì vậy mà họ rất quan tâm đến quyền lợi của họ được giải quyết như
thế nào, họ không những có quyền đề nghị mức bồi thường như thế nào cho thỏa đáng
mà còn có quyền đề nghị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp cần thiết
để đảm bảo được vấn đề bồi thường như kê biên tài sản hoặc áp dụng biện pháp khác có
tác dụng để đảm bảo vấn đề bồi thường.
Quyền tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến tranh luận tại phiên tòa.
Việc tham gia phiên tòa tạo điều kiện thuận lợi cho người bị hại đưa ra được ý kiến của
mình với các quyết định của tòa án và cũng đảm bảo cho nguwofi bị hại biết các quyết
định của tòa án đrr xem xét có kháng cáo và thời hạn kháng cáo. Mục đích để họ có thể
thực hiện được quyền lợi của mình. Ví dụ, tại phien tòa họ có thể tahy đồi người THTT,

người giám định…hoặc đưa ra tài liệu, đồ vật…được trình bày ý kiến, tranh luận tại
phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đây là một trong những quyền
thể hiện rõ nét tính dân chủ trong thực thi pháp luật TTHS.
Quyền khiếu nại quyết định hành vi tố tụng của cơ qiuan có thẩm quyền và người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng:
Quyền này được quy định tại điểm e, khoản 2, điều 51, BLTTHS.
Đối tượng bị khiếu nại là các quyết định của CQĐT, VKS, TA và các hành vi tố tụng
của những người tiến hành tố tụng không có căn cứ hoặc trái pháp luật làm ảnh hưởng
đến quyền lợi của người bị hị thì họ có quyền khiếu nại.
Quyền kháng cáo:
Kháng cáo là một quyền quan trọng của người bị hại. Theo quy định tại điểm e,khoản 2,
điều 51 thì : “người bị hại có quyền kháng cáo bản án, quyết định của tòa án về phần bồi
thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo”
Theo hướng dẫn của HĐTPTANDTC trong Nghị quyết số 05-08/12/2005 thì những chủ
thể có quyền kháng cáo không chỉ là người bị hại àm người đại diện hợp pháp của họ và
người được người bị hại ủy quyền cũng có quyền này. Người bị hại có quyền kháng cáo
cả về phần mức bồi thường và cả phần hình phạt,
6


Người bị hại cũng có quyền rút đơn kháng cáo theo quy định của BLTTHS: “nếu người
bị hại rút toàn bộ kháng cáo trước khi hoặc bắt đầu tại phiên tòa không còn kháng cáo
kháng nghị thì việc xét xử phải được đình chỉ.
Quyền khởi tố vụ án hình sự:
Đây là quyền đặc thù của người bị hại. Đây là một quyết định mới của Nhà nước ta thể
hiện sự quan tâm đến người bị hại và được thể chế hóa vào pháp luật. Khởi tố VAHS
theo yêu cầu của người bị hại là trường hợp do tính chất của vụ án và vì quyền lợi của
nguwofi bị hại nên các cơ quan có thẩm quyền không tự mình khởi tố VAHS mà việc
khởi tố chỉ có thể có khi có yêu cầu của người bị hại. Mục đích là để động viên khuyến
khích các công dân tự hòa giải , tạo quan hệ tốt hơn cho công dân trong các mối quan hệ

xã hội.
Theo quy định tại khoản 1, điều 105: “những vụ án về các tội phạm được quy định tại
khoản 1 các điều 104,105,106,108,109,111,113,121,122,131 và điều 171 của BLHS chỉ
được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị
hại là người chưa thành niên, là người có nhược điểm về tam thần hoặc thể chất.” Quy
định này được xây dựng dựa trên cơ sở kế thừa quy định tương ứng trong BLTTHS năm
1988, tuy nhiên điểm mới ở đây chính là thêm người có thẩm quyền khởi tố VAHS là
người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, là người có nhược
điểm về tam thần hoặc thể chất.
Quyền rút yêu cầu khởi tố VAHS:
Quyền này được quy định tại khoản 2, điều 105, BLTTHS. Đây là quyền thể hiện sự
quan tâm của Nhà nước cũng như các cơ quan chức năng nói riêng đến tâm tư tình cảm
nguyện vọng của người bị hại, nhưng quyền này cũng có những giới hạn nhất định : “
người bị hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì VAHS mới được đình chỉ.
Đồng thời theo quy định tại khoản 2, điều 105 BLTTHS thì: “người đã bị hại rút đơn thì
không có quyền yêu cầu lại trừ trường hợp rút đơn yêu cầu do bị cưỡng bức, ép buộc.
Quy định như vậy là hoàn toàn hợp lý. Mục đích chính là đảm bảo sự thuận lợi trong
việc tiến hành các hoạt động tố tụng của các CQTHTT.
Quyền trình bày lời buộc tội tại phiên tòa:
Theo quy định tại khoản 3, điều 51, BLTTHS. Quy định như vậy thể hiện sự quan tâm
tới tâm tư tình cảm của người bị hại. Người bị hại là người phải chịu nhiều hậu quả do
hành vi phạm tội gây ra nên pháp luật để cho người bị hại có quyền phán xét hành vi
phạm tội. Hiện nay pháp luật quy định cho người bị hại có quyền trình bày lời buộc tội
7


tại phiên tòa nhưng chưa có quy định cụ thể về hình thức nội dung của lời buộc tội vì
vậy người bị hại chưa thực hiện tốt quyền này.
Quyền đối với quyết định giám định:
Đây là một trong số những quyền mới của người bị hại. Kết luận giám định là một trong

những chứng cứ giúp CQTHTT xác minh sự thật khách quan của vụ án. Nếu các kết
luận giám định không chính xác không phản ánh được đúng sự thật thì sẽ ảnh hưởng đến
việc giải quyết vụ án và ảnh hưởng đến quyền lợi của chính người bị hại. Chính vì vậy
nên họ có quyền được biết về nội dung kết quả giám định,quyền này được quy dịnh theo
khoản 1 điều 158 BLTTHS : “sau khi đã tiến hành giám định nếu bị can hoặc những
người thm gia tố tụng khác yêu cầu thì coq quan đã trưng cầu giám định phải thông báo
cho họ về nội dung kết luận giám định”.
2.2. Nghĩa vụ của người bị hại.
Theo quan sát của chúng tôi, pháp luật TTHS về quyền và lợi ích của người bị hại qua
quá trình tồn tại và phát triển ngày càng được bổ sung, sửa đổi đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của CQĐT, VKS, TA.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự sự có mặt của người bị hại là rất cần thiết. Sự
tham gia tố tụng của người bị hại vừa là quyền đồng thời vừa là nghĩa vụ không những
đảm bảo được quyền lợi của họ mà còn góp phần giải quyết vụ án một cách nhanh
chóng và chính xác.
Theo quy định tại khoản 4, điều 51 BLTTHS : “người bị hại phải có mặt theo giấy triệu
tập của CQĐT, VKS, TA”.
Tại cơ quan THTT người bị hại được giải thích về quyền và nghĩa vụ của mình từ đó
giúp họ thực hiện tốt quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo pháp luật. Theo quy định của
BLTTHS thì khi nhận được giấy triệu tập của cơ quan THTT thì người bị hại phải có
mặt để trình bày những vấn đề liên quan đến vụ án. Tại đây người bị hại phải khai báo
những tình tiết của vụ án mà họ biết để biết được cơ quan THTT hoàn thiện them hồ sơ
vụ án.
Sự có mặt của người bị hại có vai trò rất quan trọng nhất là đối với những vụ án khổi tố
theo yêu cầu của người bị hại nếu người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ vắng
mặt thì tòa án sơ thẩm phải hoãn phiên tòa. Trong phiên tòa phúc thẩm nếu người bị hại
kháng cáo hoặc có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo kháng nghị thì
được triệu tập. Nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì HĐXX có thể vẫn tiến hành
xét xử bình thường nhưng không được ra những quyết định không có lợi cho người bị
hại, trong những trường hợp nhất định thì phải hoãn phiên tòa.

8


Có thể thấy đây là nghĩa vụ bắt buộc đối với người bị hại vì chỉ khi họ có mặt tại phiên
tòa thì họ mới có thể thực hiện quyền của mình và bảo vệ những lợi ích hợp pháp của
mình. Đồng thời khi người bị hại có mặt sẽ giúp cho cơ quan THTT trong việc xác minh
các tài liệu còn nghi ngờ hoặc mâu thuẫn để từ đó có các kết luận chính xác về sự thật
khách quan của vụ án. Đảm bảo được việc xét xử đúng người đúng tội tránh làm oan
người vô tội.
Nghĩa vụ khai báo:
Để làm rõ sự thật khách quan của vụ án và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật
cũng như bảo vệ quyền lợi cho công dân thì người bị hai phải có nghĩa vụ khai báo.
Người bị hại là người bị thiệt hại do chính hành vi của người phạm tội gây ra vì thế hơn
ai hết họ là người hiểu hành vi của người phạm tội tác động đến họ. Nghĩa vụ khai báo
trung thực được đặt ra với tất cả những người tham gia tố tụng khác nhưng đối với
người bị hại thì nó có một ý nghĩa đặc biệt , xuất phát từ thái độ và tình cảm cảu người
bị hại với tội phạm thông thường làm cho lời khai của họ theo hướng chính xác hơn,
Tại khoản 4, điều 51 BLTTHS có đoạn “nếu từ chối khai báo không cso lý do chính
đáng thì có thể phải chịu TNHS”.
Theo quy định tại điều 308, BLHS “hành vi từ chối khai báo có thể thể hiện dưới dạng
không chấp nhận yêu cầu của CQTHTT về việc khai báo, trốn tránh nghĩa vụ khai báo
bằng các hình thức như: không đến theo giấy triệu tập của CQTHTT hoặc đến nhưng
không chịu khai báo dù không có lý do chính đáng.”
Người bị hại là một “nhân chứng” quan trọng của vụ án vì vậy việc bảo đảm để người bị
hại khai báo trung thực cũng là bảo đảm để họ thực hiện quyền lợi của họ.
III. Thực tiễn áp dụng.
Nội dung các quyền và nghĩa vụ của người bị hại về cơ bản là phù hợp và được các cơ
quan có thẩm quyền nghiêm chỉnh chấp hành, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại. Tuy nhiên qua quá trình áp dụng cũng đã
bộc lộ một số bất cập trong các quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng. Cụ thể là

các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, theo quy định của luật TTHS nước ta thì người bị hại chỉ có thể là cá nhân,
vậy tổ chức, pháp nhân bị tội phạm trực tiếp xâm hại, pháp nhân, tổ chức đó sẽ tham gia
tố tụng với tư cách gì? Theo quy định của Bộ luật TTHS Việt Nam thì trong trường hợp
này pháp nhân, tổ chức sẽ tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự khi có đơn
yêu cầu. Quy định như vậy là chưa thật sự hợp lý, bởi lẽ:
9


- Đối với các tổ chức, pháp nhân mà tài sản thuộc sở hữu nhà nước khi bị tội phạm gây
thiệt hại tổ chức, pháp nhân đó không có đơn yêu cầu thì họ sẽ tham gia tố tụng với tư
cách gì? Tài sản của nhà nước liệu có được đảm bảo?
- Đối với các doanh nghiệp mà tài sản thuộc sở hữu cá nhân, của một nhóm người cùng
góp vốn kinh doanh (công ty TNHH, công ty hợp danh...) trong quá trình hoạt động lại
bị kẻ phạm tội gây thiệt hại, vậy để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình chủ sở
hữu tài sản đó chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự, liệu có hợp
lý? Liệu có đảm bảo sự bình đẳng trong khi về thực chất tài sản đó đều là của cá nhân?
- Nếu cho rằng tổ chức, pháp nhân bị kẻ phạm tội trực tiếp xâm hại về tài sản sẽ tham
gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự thì sẽ không có sự phân biệt với thiệt hại về
tài sản do hành vi phạm tội gián tiếp gây ra. Chẳng hạn khi đánh nhau với B, A đã gây ra
một số thiệt hại về tài sản của C.
- Nếu quan niệm rằng hành vi gây thiệt hại cho pháp nhân, tổ chức là thiệt hại về tài sản
như định nghĩa tại Điều 52 Bộ luật TTHS Việt Nam thì chúng ta phải giải thích như thế
nào khi thiệt hại do tội phạm gây ra cho tổ chức, pháp nhân là thiệt hại về thương hiệu,
về uy tín trong kinh doanh?
Thực chất vấn đề có nên thừa nhận tổ chức, pháp nhân là người bị hại trong trường hợp
họ bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại đã được đặt ra trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ
luật TTHS năm 1988 vào những năm 2000. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau vấn đề
này đã tạm gác lại. Chúng tôi cho rằng xã hội đã có những thay đổi lớn theo hướng tích
cực, xu hướng hội nhập khu vực và thế giới đã trở thành xu thế tất yếu. Những lý do

chưa đồng tình với quan điểm cho rằng nên xem tổ chức, pháp nhân là người bị hại
không còn lý do để tồn tại, đã đến lúc chúng ta cần xem xét tất cả các lý lẽ để thừa nhận
tổ chức và pháp nhân là người bị hại nhằm góp phần đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị hại.
Thứ hai: Vấn đề liên quan đến đại diện hợp pháp của người bị hại:
Tại khoản 5 Điều 51 Bộ luật TTHS quy định: “Trong trường hợp người bị hại chết thì
người đại diện hợp pháp của họ có những quyền được quy định tại điều này”. Như vậy
trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần,
thể chất khi tham gia tố tụng thì đại diện hợp pháp của họ có được tham gia tố tụng và
có được hưởng các quyền của người bị hại không? Theo tinh thần nội dung Điều 51 Bộ
luật TTHS thì người đại diện hợp pháp của người bị hại trong trường hợp này được tham
gia tố tụng nhưng không được thực hiện các quyền của người bị hại. Tuy nhiên, theo
tinh thần của quy định tại Điều 59 Bộ luật TTHS thì người bảo vệ quyền lợi cho người
bị hại được tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại. Nội dung các
quyền của người này không khác nhiều so với nội dung các quyền quy định cho người bị
hại (Điều 51). Vì vậy, thực tế gặp trường hợp này cơ quan tiến hành tố tụng thường cho
10


phép đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm
về tâm thần hoặc thể chất sử dụng các quyền của người bị hại như tinh thần của khoản 5
Điều 51 Bộ luật TTHS..
Hơn nữa về vấn đề này BLTTHS lại không quy định người nào là người đại diện hợp
pháp của người bị hại trong trường hợp người bị hại chết và cũng không quy định cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự được áp dụng quy định về người đại diện theo pháp luật
của Bộ luật dân sự (BLDS) vào việc giải quyết vụ án hình sự.
Bộ luật TTHS chỉ quy định trường hợp người bị hại chết mà chưa quy định trường hợp
người bị hại mất tích. Vậy trường hợp người bị hại được xác định là mất tích thì vấn đề
người đại diện hợp pháp của họ được quy định và giải quyết như thế nào? Họ có được
phép tham gia tố tụng và được thực hiện các quyền của người bị hại không? Thực tiễn

giải quyết vụ án cho thấy cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết không thống nhất với
nhau.
Trường hợp nêu trên cơ quan tiến hành tố tụng không xác định được ai là người đại diện
hợp pháp, hoặc người bị hại thực tế cũng không còn ai là người đại diện hợp pháp thì
giải quyết như thế nào? Người thân của người bị hại có được tham gia tố tụng không và
với tư cách gì? Về vấn đề này chưa có sự nhận thức và áp dụng thống nhất. Hiện có
nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này: Người thân của người bị hại cũng được xem là
người đại diện hợp pháp[5] ; người thân của người bị hại là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan[6]; người thân của người hại trong các trường hợp trên chính là người bị hại và
với tư cách đó họ cần phải tham gia vào vụ án[7]; người thân của người bị hại là người
đại diện của người bị hại và là người bị hại. [8]
Thứ ba là về vấn đề liên quan đến việc quy định và thực hiện các quyền của người bị
hại
Phạm vi thực hiện quyền kháng cáo của người bị hại. Tại điểm e khoản 2 Điều 51 Bộ
luật TTHS quy định: người bị hại có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về
phần bồi thường cũng như về phần hình phạt đối với bị cáo. Như vậy, quy định này chỉ
cho phép người bị hại kháng cáo trong phạm vi phần bồi thường và phần hình phạt,
những phần khác trong bản án như: phần dân sự cũng như vấn đề liên quan đến tội danh,
đến khung hình phạt... nếu không đồng tình với bản án và quyết định của Tòa án thì
người bị hại không có quyền kháng cáo. Trong khi đó tại Điều 231 Bộ luật TTHS lại
quy định: Người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án và
quyết định của Tòa án. Như vậy theo quy định này thì người bị hại có quyền kháng cáo
toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Điều luật không thể hiện bất cứ sự giới hạn nào
như tinh thần của Điều 51 Bộ luật TTHS. Như vậy phải chăng nội dung hai điều luật lại
11


mâu thuẫn với nhau và khi gặp trường hợp trên Tòa án sẽ giải quyết như thế nào? Cho
đến nay chưa có văn bản nào của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn áp dụng hai điều
luật trên, vì vậy mỗi nơi áp theo cách hiểu riêng của mình.

Pháp luật TTHS chưa khẳng định người bị hại là một bên trong tranh tụng, thực hiện
chức năng buộc tội. Theo chúng tôi có lẽ đây cũng là một khiếm khuyết của các quy
định pháp luật, thực chất cùng với các chủ thể khác như kiểm sát viên, nguyên đơn dân
sự..., người bị hại cũng là một bên trong tranh tụng, hành vi tố tụng của người bị hại góp
phần quan trọng trong tiến trình đi tìm sự thật của vụ án, công lý và sự công bằng của
pháp luật, đặc biệt là trong những vụ án mà việc khởi tố phải do người bị hại yêu cầu.
Tại khoản 4 Điều 51 Bộ luật TTHS quy định nghĩa vụ khai báo của người bị hại và nếu
người bị hại không khai báo mà không có lý do chính đáng có thể phải chịu trách nhiệm
hình sự theo Điều 308 BLHS. Theo quan sát của chúng tôi, cho đến nay chưa có người
bị hại nào bị truy cứu trách nhiệm về tội “từ chối khai báo” theo Điều 308 BLHS; chưa
có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về trường hợp từ chối khai báo có lý do chính
đáng và cũng chính vì vậy có nhiều ý kiến cho rằng quy định này là không thực tế. Mặt
khác, đã là người bị hại lại còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ vì họ từ chối khai
báo, trong khi đó bị can, bị cáo là người bị buộc tội từ chối khai báo lại không phải chịu
trách nhiệm gì [9] như vậy liệu có công bằng?
Thứ tư là liên quan đến chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại.
Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại (hay còn gọi là tư tố) là một chế định không
mới, được áp dụng khá phổ biến trong pháp luật các nước. Ở Việt Nam chế định này lần
đầu tiên được quy định trong Bộ luậy TTHS năm 1988. Đây là chế định thể hiện tính
dân chủ, sự tôn trọng và cảm thông trước sự thiệt hại, mất mát, đau đớn của người bị hại.
Mặc dù nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự Việt Nam là nguyên tắc công tố, tức là
hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước, Nhà nước đã cam kết sẽ bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân bằng một văn bản pháp lý có giá trị cao
nhất, đó là Hiến pháp, bằng cả hệ thống pháp luật và cơ chế đảm bảo thực hiện. Mọi
hành vi phạm tội xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân sẽ bị Nhà
nước xử lý nghiêm khắc. Tuy nhiên, khi xử lý hành vi phạm tội, Nhà nước còn phải
quan tâm đến nguyện vọng và lợi ích chính đáng của người bị hại. Thực tế cho thấy mặc
dù bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nhưng người bị hại lại không muốn đưa ra xử
lý vì như vậy sẽ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, tương lai của họ, cũng có trường hợp
giữa người bị hại và người gây thiệt hại có những mối quan hệ đặc biệt. Điều 51 và Điều

105 Bộ luật TTHS đã ghi nhận yêu cầu của người bị hại. Quá trình áp dụng cho thấy chế

12


định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại đã phát huy hiệu quả, quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị hại được bảo vệ tốt hơn.
Tuy nhiên so với yêu cầu đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, chế định
này cũng đã bộc lộ một số bất cập. Chẳng hạn: Theo quy định tại khoản 3 Điều 51 Bộ
luật TTHS, trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định
tại Điều 105 Bộ luật này thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày
lời buộc tội tại phiên tòa. Đây là một nội dung đã được quy định từ những năm 1988,
qua các lần sửa đổi, bổ sung, Bộ luật TTHS vẫn giữ nguyên quy định này. Tuy nhiên,
cho đến nay chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về việc người bị hại trình
bày lời buộc tội bị cáo tại phiên tòa như thế nào. Trường hợp nếu người bị hại trình bày
lời buộc tội thì kiểm sát viên tham gia phiên tòa có trình bày lời buộc tội nữa không? Lời
buộc tội của người bị hại có giá trị như thế nào? Sự có mặt của người bị hại trong trường
hợp này có bắt buộc như đối với kiểm sát viên không? Thực tiễn xét xử cho thấy mọi
việc đều do kiểm sát viên thực hiện, còn người bị hại trong trường hợp này cũng không
có gì đặc biệt so với người bị hại trong các vụ án khác. Hơn nữa, bản thân quy định này
cũng chưa thật đầy đủ và phù hợp, chẳng hạn trong giai đoạn trước khi mở phiên tòa thì
người bị hại có các quyền hạn cụ thể nào, cách thức thực hiện các quyền đó ra sao cũng
chưa được quy định rõ
IV…Giải pháp.
Từ những tồn tại ở trên trong quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện chúng ta cần
có những giải pháp để hoàn thiện những thiếu sót đó. Dưới đây là một số hướng giải
pháp:
4.1.Giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật.
4.1.1. Hoàn thiện khái niệm “người bị hại”.
cần phải được hiểu một cách đầy đủ:

“Người bị hại là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản
do tội phạm gây ra”.
Khái niệm này bao hàm các đặc điểm của người bị hại như sau:
- Thứ nhất, về chủ thể, người bị hại là cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước hoặc tổ
chức khác;
- Thứ hai, thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về thể chất, thiệt hại về tinh
thần, thiệt hại về vật chất. Tuy nhiên, cần lưu ý là hậu quả của sự thiệt hại không phải là
điều kiện bắt buộc trong tất cả các trường hợp.
- Thứ ba, thiệt hại của người bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải
có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho người bị hại. Đây
13


là điều kiện quan trọng để phân biệt giữa người bị hại và nguyên đơn dân sự hay các
đương sự khác trong vụ án hình sự.
- Thứ tư, người bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại khi và
chỉ khi được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận.
4.1.2. Giải pháp về Vấn đề liên quan đến đại diện hợp pháp của người bị hại:
Để khắc phục bất cập nói ở trên theo chúng tôi cần thiết phải bổ sung nội dung quy định
tại điều 59 vào Điều 51 Bộ luật TTHS. Bộ luật TTHS cần bổ sung trường hợp trên theo
hướng thừa nhận người đại diện hợp pháp của người bị hại mất tích được tham gia tố
tụng và được thực hiện các quyền của người bị hại.
Về vấn đề xác định người đại diện hợp pháp, người thân của người bị hại thì chúng ta
cần thấy rằng đây là vấn đề cần được nghiên cứu bổ sung vào Bộ luật để đảm bảo sự
thống nhất trong quá trình áp dụng cũng như đảm bảo các quyền của người bị hại. Theo
tôi người thân của người bị hại chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp, khi tham gia tố
tụng họ có các quyền của người bị hại. Trường hợp người bị hại không còn ai là người
thân thì cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử
người bảo vệ quyền lợi cho họ.

Trong trường hợp người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền và nghĩa vụ mâu
thuẫn với nhau. Trong trường hợp này mặc dù vẫn có ý kiến khác nhau nhưng theo
chúng tôi cần xác định họ đều là những người đại diện hợp pháp của người bị hại và họ
có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng như nhau. Tuy nhiên, khi tham tố tụng Tòa án
cần yêu cầu những người có cùng quyền lợi cử một người tham gia, nhưng Tòa án cần
quyết định riêng đối với từng người, những người không tham gia tố tụng phải làm thủ
tục ủy quyền cho người tham gia tố tụng.
4.1.3. Về vấn đề liên quan đến đến vấn đề thực hiện quyền của người bị hại:
Về phạm vi kháng cáo của người bị hại để khắc phục sự mâu thuẫn nói ở trên, đảm bảo
sự thống nhất trong quá trình áp dụng, cũng như để bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của
người bị hại theo chúng tôi cần thiết phải sửa lại nội dung Điều 51 Bộ luật TTHS theo
hướng cho phép người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo
toàn bộ bản án hoặc quyết định của tòa án cấp sơ thẩm.
Luật TTHS chưa khẳng định người bị hại là một bên trong tranh tụng để khẳng định vị
trí, vai trò và đảm bảo có hiệu quả các quyền của người bị hại chúng tôi đề nghị:
+ Sửa lại Điều 191 Bộ luật TTHS theo hướng khẳng định: trường hợp tại phiên tòa
người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa, trừ
trường hợp những người này yêu cầu hoặc đồng ý để Tòa án xét xử vắng mặt họ. Sự
tham gia phiên tòa của người bị hại có mục đích hoàn toàn khác với nguyên đơn và bị
14


đơn dân sự vì vậy không thể đồng nhất sự tham gia phiên tòa của nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự với người bị hại như tinh thần của Điều luật này.
+ Thực tiễn xử lý vụ án hình sự cho thấy không ít trường hợp người bị hại hoặc người
đại diện hợp pháp của họ bị kẻ phạm tội hoặc những người thân của người này khống
chế, đe dọa, mua chuộc, lừa dối hoặc có những thủ đoạn khác... làm cho người bị hại
hoặc người đại diện hợp pháp của họ không thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi
ích của mình, không thể có mặt để thực hiện việc khai báo theo yêu cầu của cơ quan tiến
hành tố tụng và vô hình chung họ lại phạm vào tội từ chối khai báo theo Điều 308

BLHS. Để khắc phục tình trạng trên, bên cạnh quy định về bảo vệ người làm chứng,
cũng cần bổ sung quy định về bảo vệ người bị hại khi người bị hại yêu cầu và cơ quan
tiến hành tố tụng có cơ sở cho rằng người bị hại bị đe dọa.
Để tránh tình trạng hạn chế như quy định tại khoản 4 điều 52, thì Chúng ta thấy rằng
quyền công dân bao giờ cũng đi đôi với nghĩa vụ công dân, việc khai báo của người bị
hại sẽ góp phần tìm ra sự thật của vụ án vì vậy khó có thể loại bỏ quy định này. Tuy
nhiên, làm thế nào để một tội danh được quy định có phải tính khả thi? Việc không truy
cứu trách nhiệm hình sự người bị hại nào về tội “từ chối khai báo” là do chúng ta chưa
có hướng dẫn cụ thể thế nào là “không có lý do chính đáng” làm căn cứ áp dụng và
trong thực tế gặp trường hợp này cơ quan có thẩm quyền chưa xử lý nghiêm khắc. Vì
vậy, cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn để khắc phục những bất cập như đã nêu.
4.1.4. Giải pháp về chế định khởi tố người bị hại.
Đối với vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại phải khác so với vụ án thông
thường, quyền của người bị hại được thể hiện trong suốt quá trình tố tụng chứ không chỉ
đơn thuần là trình bày lời buộc tội tại phiên tòa như quy định hiện nay. Từ thực trạng
nêu trên chúng tôi đề nghị:
Thứ nhất, nghiên cứu để mở rộng hơn nữa phạm vi các tội mà cơ quan có thẩm quyền
chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. Theo chúng tôi nên mở rộng đối với
các tội xâm phạm sở hữu, các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm và chỉ áp dụng đối với
các tội ít nghiêm trọng.
Thứ hai, nghiên cứu để bổ sung các quyền của người bị hại trong giai đoạn trước xét xử,
theo hướng cho phép người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền thu
thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án nếu không thuộc bí mật nhà nước để
phục vụ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.
Thứ ba, cần quy định cụ thể thủ tục tố tụng riêng cho trường hợp khởi tố theo yêu cầu
của người bị hại. Theo chúng tôi thủ tục này nên quy định theo hướng chỉ có người bị
hại mới có quyền đưa một người ra xét xử tại phiên tòa, và tất nhiên ở đây quyền công
tố không còn nữa. Sự tham gia phiên tòa của viện kiểm sát lúc này chỉ thực hiện chức
năng giám sát việc tuân theo pháp luật chứ không thực hiện chức năng buộc tội. Tòa án
15



đưa vụ án ra xét xử trên cơ sở đề nghị của người bị hại. Tại phiên tòa kiểm sát viên
không đọc bản cáo trạng mà người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày
lời cáo buộc của mình trước khi tiến hành xét hỏi. Kiểm sát viên cũng không trình bày
lời luận tội mà sẽ do người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại trình bày.
Trong trường hợp này người bị hại, đại diện hợp pháp của họ bắt buộc phải có mặt tại
phiên tòa, nếu vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa, kiểm sát viên không bắt buộc phải có
mặt tại phiên tòa.
Tất cả những sửa đổi trên đây nếu được chấp nhận sẽ có thể đảm bảo chế định khởi tố
vụ án theo yêu cầu của người bị hại đi vào thực chất, quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị hại mới được đảm bảo.
4.1.5. Bổ sung quy định về nghĩa vụ có mặt của người đại diện hợp pháp của người bị
hại theo giấy triệu tập của CQTHTT.
Theo quy định tại khoản 5, điều 51 BLTTHS thì “trong trường hợp người bị hại chết thì
người đại diện hợp pháp của họ có quyền theo quy định tại điều nay”
Nếu hiểu như vậy thì người đại diện hợp pháp chỉ có quyền àm không phải gánh vác
nghĩa vụ và chính vì vậy đây là điều không hợp lý , quyền luôn đi liền với nghĩa vụ.
Người đại diện hợp pháp của người bị hại TGTT là để bảo đảm quyền lợi cho người bị
hại vì vậy họ thay mặt người bị hại hưởng quyền cũng như gánh vác các nghĩa vụ. Nghĩa
vụ khai báo không được đặt ra đối với người đại diện hợp pháp của người bị hại vì họ có
thể biết hay không biết những tình tiết liên quan đến vụ án. Nhưng việc người đại diện
hợp pháp phải có amwtj theo giấy triệu tập của CQTHTT là rất cần thiết và nó ảnh
hưởng đến việc giải quyết vụ án vì lúc này sự có mặt của họ có vai trò quan trọng như sự
có mặt của người bị hại.
Nên quy định “sự có mặt của người đại diện hợp pháp của người bị hại theo giấy triệu
tập của CQTHTT” là nghĩa vụ. Nếu họ vắng mặt có lý do chính đáng thì phải hoăn
phiên tòa còn trường hợp họ vắng mặt không có lý do chính đáng thì tòa án vẫn tiến
hành xét xử.
4.2.Giải pháp khác

4.2.1.Tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật và thi hành pháp luật nâng
cao trình độ, nghiệp vụ phẩm chất đạo đức của người tiến hành TT.
Địa vị pháp lý của người bị hại được quy định khá cụ thể trong pháp luật TTHS nhưng
trên thực tế việc áp dụng các quy định pháp luật đó còn chưa thực sự đúng đắn và phát
huy hiệu quả, xuất phát từ công tác hướng dẫn, áp dụng và thi hành pháp luật chưa được
chú trọng dẫn đến việc CQTHTT, người THTT áp dụng sai các quy định của pháp luật.
Cần có những văn abrn hướng dẫn thi hành cụ thể để thực hiện tốt những quy định của
BLTTHS.
16


Nâng cao trình độ pháp luật nghiệp vụ phẩm chất và đạo đức của người THTT cũng là
vấn đề cần quan tâm. Trên thực tế thì trình độ nghiệp vụ của các cán bộ có trình độ đại
học sau đại học còn chưa nhiều trình độ chuyên môn còn chưa cao.
Cùng với việc nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn thì việc rèn luyện phảm chất đạo
đức của người THTT là rất quan trọng, hiện nay một số cán bộ tha hóa bản chất dung
túng và bao che tội phạm làm cho pháp luật không nghiêm minh và làm cho nhân dân
giảm niềm tin vào Nhà nước và pháp luật. chính vì vậy vấn đề này cần được quan tâm
hơn nữa đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh và củng cố niềm tin của
nhân dân vào nhà nước và pháp luật.
4.2.2. Nâng cao ý thức pháp luật của người dân.
Để đảm bảo quyền và nghĩa vụ người bị hại trong TTHS thì bản thân người bị hại phải
biết họ có những quyền và nghĩa vụ gì? Sự không hiểu biết pháp luật của người dân đã
làm cho quyền lợi của họ không được bảo đảm và thậm chí còn bị xâm hại. Để nâng cao
trình độ hiểu biết pháp luật của người dân thì cần tích cực tuyên truyền, giáo dục pháp
luật làm cho pháp luật đi vào đời sống của người dân, từ đó nâng cao trình độ hiểu biết
pháp luật của nhân dân nói chung và người bị hại nói riêng. Khi người dân ý thức được
quyền lợi và trách nhiệm của mình thì thì họ có thể bảo vệ quyền lợi cho mình và góp
phần giải quyết vụ án nhanh chóng thuận lợi và không cản trở cho CQTHTT.


B.

KẾT LUẬN.

Tóm lại chế định người bào chữa là một chế định quan trọng trong BLTTHS và để những
người bào chữa tham gia hoạt động tố tụng thực sự hiệu quả thì cần sửa đổi một số quy định
cũng như chú trọng hơn nữa để phù hợp với nhu cầu thực tế.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
[1] Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an
nhân dân, 1999, tr. 198.
[2] V.M Xavitxki, Khái niệm người bị hại theo tố tụng hình sự Xô viết, Moskova, 1963,
tr. 19.
[3] S.P Bekesko, Bình luận Bộ luật Tố tụng hình sự nước Cộng hòa Belorusia, Minsk,
1968, tr. 74.
[4] Trần Hữu Tráng, Nạn nhân học trong tội phạm học Việt nam – một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội, 2000, tr. 8.
[5] Xem: Đinh Văn Quế, Thủ tục xét xử các vụ án hình sự, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 2003,
tr. 94.
[6] Viện Nhà nước và Pháp luật, Tội phạm học, Luật hình sự và Luật TTHS Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 383.
[7] Xem: R.Đ Rakhunốp, Những người tham gia hoạt động tố tụng hình sự, Matxcơva,
1961, tr. 224 và Viện Nhà nước và Pháp luật, sđd, tr. 383.
[8] M.X Xtrôgôvich, Giáo trình tố tụng hình sự, tập 1, Nxb Văn học pháp lý, Matxcơva,
1980, tr. 258.
[9] Xem: Đinh Văn Quế, Thủ tục xét xử các vụ án hình sự, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 2003,
tr. 94.

10.. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt nam, Nxb Tư
pháp, Hà Nội, 2006
11.Bộ Luật Tố Tụng hình sự năm 2003.
12. Địa vị pháp lý của người bị hại theo Luật TTHS Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp,
Hoàng Thị Ngọc, Hà Nội, 2011.

18



×