Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong TTHS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.17 KB, 17 trang )

Nguyễn Thị Huyền Trang
MSSV: 352005
===================================================================

A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong Tố tụng hình sự (TTHS), bị can, bị cáo là đối tượng bị buộc tội bởi cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Họ là những người có quyền lợi và
nghĩa vụ bị ảnh hưởng sâu sắc nhất bởi quyết định của Tòa án khi giải quyết vụ án
hình sự. Trên thực tế có rất nhiều vụ án hình sự bị can, bị cáo bị oan sai do người
tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, làm ảnh hưởng không nhỏ đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và quyền lợi của họ. Để giải quyết được
tình trạng bị can, bị cáo bị xâm phạm các quyền mà pháp luật quy định cho họ thì
việc người tiến hành tố tụng cũng như bị can, bị cáo cần nắm rõ quyền và nghĩa vụ
của bị can, bị cáo là hết sức cần thiết. Do đó, chúng ta cùng đi tìm hiểu những quy
định về “Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong TTHS.”

B. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TTHS
Trong khoa học pháp lý, địa vị pháp lý là vị trí của chủ thể pháp luật trong
mối liên hệ với những chủ thể khác trên cơ sở quy định của pháp luật, thể hiện thành
một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể. Qua đó xác lập cũng như
giới hạn khả năng của chủ thể đối với hoạt động của mình trong phạm vi các quyền
và nghĩa vụ đó.
Trong quan hệ pháp luật TTHS, một bên là cơ quan nhà nước đại diện cho
quyền lực nhà nước để tiến hành tố tụng (THTT) tìm ra sự thật cho vụ án và giải
quyết vụ án, một bên là người tham gia tố tụng (NTGTT) không nắm trong tay một
quyền lực nào, các chủ thể có địa vị rất khác nhau, trong các giai đoạn tố tụng khác
nhau thì địa vị của các chủ thể này cũng khác nhau. Do đó là rõ được địa vị pháp lý
của một chủ thể trong quan hệ tố tụng hình sự (TTHS) là điều rất quan trọng, ảnh
hưởng đến cả quá trình và kết quả giải quyết một vụ án hình sự.
1. Khái niệm địa vị pháp lý của bị can


Trong lịch sử TTHS Việt Nam, khái niệm bị can, bị cáo đã được hình thành
và thay đổi qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Đến Bộ luật Tố tụng hình sự
(BLTTHS) năm 2003 ta vẫn có thể xác định được bị can là người đã bị khởi tố về
hình sự và có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tư cách tham gia tố tụng của
mình. Từ đó ta có thể đi đến khái niệm địa vị pháp lý của bị can: “Địa vị pháp lý
================================== 1 ================================
Tố tụng hình sự


Nguyễn Thị Huyền Trang
MSSV: 352005
===================================================================

của bị can là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đã bị khởi tố về hình sự
trong quá trình tham gia tố tụng hình sự” . Địa vị pháp lý của bị can được phân biệt
với địa vị pháp lý của các chủ thể khác chính bằng các quyền và nghĩa vụ của bị can.
2. Khái niệm địa vị pháp lý của bị cáo.
Thuật ngữ “bị cáo” đã được sử dụng trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau
trong lịch sử TTHS. Qua thông tư số 16/TATC 27/9 của TANDTC mới đưa ra khái
niệm pháp lý về bị cáo: “ Bị cáo là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự trước Tòa
án nhân dân…”. Sau đó BLTTHS năm 1988 tại Điều 34 và tiếp tục ghi nhận tại
Điều 50 BLTTHS năm 2003. Theo đó thì “ Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định
đưa ra xét xử”.
Như vậy, ta có thể đưa ra định nghĩa về địa vị pháp lý của bị cáo như sau: Địa
vị pháp lý của bị cáo là tổng thể quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho người
đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Cũng là đối tượng bị buộc tội trong vụ án hình sự nên quyền và nghĩa vụ của
bị can, bị cáo có nhiều điểm giống nhau. Nhưng địa vị pháp lý của bị can, bị cáo có

nhiều điểm khác nhau là do tư cách tham gia tố tụng của bị can, bị cáo được hình
thành trong các giai đoạn tố tụng khác nhau
1. Các quy định của luật Tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của bị can
1.1. Những quy định về quyền của bị can
Quyền của bị can được quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật TTHS năm
2003, theo đó bị can có các quyền:
- Được biết mình khởi tố về tội gì: Không phải vô cớ mà các nhà làm luật đặt quyền
này lên đầu tiên khi xây dựng các quy định pháp luật về quyền của bị can, bởi đây là
quyền rất quan trọng, quyền đầu tiên và quyền ảnh hưởng rất lớn đến các quyền
khác của bị can. Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự, mốc xác định tư cách bị
can là lúc có quyết định khởi tố bị can đã có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát (VKS).
Do đó bị can cần phải được biết mình bị khởi tố về tội gì, theo điều nào của Bộ luật
hình sự để từ đó có thể tiến hành tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa cho mình.
Bị can được biết mình bị khởi tố về tội gì thông qua quyết định khởi tố bị can.
Quyết định khởi tố bị can của cơ quan có thẩm quyền phải có đầy đủ nội dung theo
================================== 2 ================================
Tố tụng hình sự


Nguyễn Thị Huyền Trang
MSSV: 352005
===================================================================

quy định của pháp luật tại khoản 2 Điều 126 Bộ luật TTHS và phải được tống đạt
đến bị can. Cơ quan điều tra (CQĐT) có trách nhiệm phải giao ngay quyết định khởi
tố bị can và giải thích các quyền và nghĩa vụ cho bị can.Quyền được biết mình bị
khởi tố về tội gì của bị can thể hiện sự công bằng, bình đẳng và tiến bộ của pháp luật
XHCN. Bị can phải được biết mình bị khởi tố về tội gì một cách công khai, minh
bạch để có thể trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người bào chữa, người đại diện hợp
pháp để bảo đảm quyền lợi của mình.

Trước đây BLTTHS năm 1988 quy định: “bị can có quyền biết mình bị khởi
tố về tội gì”, đến BLTTHS 2003 quy định tiến bộ hơn: “bị can có quyền được biết
mình bị khởi tố về tội gì”. BLTTHS 2003 chỉ thêm một từ “được” trong quy định về
quyền này. Tuy nhiên, điều đó lại làm thay đổi hoàn toàn trách nhiệm của các ben
chủ thể trong quan hệ này. Cơ quan THTT bắt buộc phải cho bị can biết mình bị
khởi tố về tội gì chứ không phải là bị can phải tự mình tìm hiểu. Đây là một sự thay
đổi có ý nghĩa quan trọng trong các quy định về quyền của bị can.
- Được giải thích về quyền và nghĩa vụ: Trong điều kiện nhận thức về pháp luật của
người dân Việt Nam chưa cao thì việc tuyên truyền phổ biến pháp luật nói chung là
rất quan trọng. Đặc biệt trong trường hợp một công dân bị truy cứu trách nhiệm hình
sự thì việc giải thích quyền và nghĩa vụ cho họ là điều vô cùng cần thiết. Việc giải
thích quyền và nghĩa vụ cho bị can cũng chính là cơ quan THTT, người THTT đã
chỉ ra cho bị can hiểu rõ địa vị pháp lý của mình. Từ đó họ có thể biết mình đang
tình trạng pháp lý nào, đang có quyền và phải có nghĩa vụ gì.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 126 BLTTHS 2003 thì Cơ quan điều tra
(CQĐT) phải bảo đảm việc giao quyết định khởi tố bị can và giải thích quyền, nghĩa
vụ cho bị can được thực hiện. Bị can có quyền được yêu cầu giải thích về các quyền
và nghĩa vụ mà mình chưa nắm rõ cũng như hỏi về cách thức thực hiện các quyền
mà pháp luật quy định cho họ để từ đó khi TGTT, họ có thể bảo vệ được quyền lợi
của mình một cách hợp pháp. Ngoài việc được giải thích về quyền, bị can cũng có
quyền được giải thích về nghĩa vụ của mình để có thể hoàn thành tốt các nghĩa vụ
mà pháp luật đã quy định.
Đây là một quyền quan trọng của bị can, nhưng trước đây, BLTTHS 1988
không ghi nhận cho bị can có quyền này. Trước nhu cầu của tình hình, thực trạng
nêu trên BLTTHS 2003 đã bổ sung cho thấy sự tiến bộ, hợp lý của BLTTHS 2003 là
================================== 3 ================================
Tố tụng hình sự


Nguyễn Thị Huyền Trang

MSSV: 352005
===================================================================

tăng cường cho bị can những quyền cần thiết để bảo vệ cho mình trước sự buộc tội
của cơ quan THTT.
- Trình bày lời khai: Lời khai của bị can là một trong số các nguồn chứng cứ quan
trọng để giải quyết vụ án. Là đối tượng bị buộc tội, bị can có quyền bào chữa, gỡ tội.
Một trong các cách thức bào chữa cho mình là việc bị can trình bày lời khai của
mình. Việc khai báo, trình bày lời khai là một quyền chứ không phải là nghĩa vụ của
bị can. Do đó bị can có thể khai báo hoặc không trước CQTHTT, NTHTT. Pháp luật
không đặt ra trách nhiệm cho bị can trong trường hợp bị can không khai báo hay
khai báo không đúng sự thật. Nhưng bị can được pháp luật khuyến khích khai báo sự
thật một cách thành khẩn để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình. Lời khai của bị
can để trở thành chứng cứ và được sử dụng trong việc giải quyết vụ án phải được
Điều tra viên (ĐTV) tiến hành thu thập theo những thủ tục pháp luật quy định.
Trong trường hợp bị can nhận tội, khai báo các tình tiết phạm tội của mình thì
lời nhận tội này chỉ được coi là chứng cứ buộc tội nếu phù hợp với các chứng cứ
khác của vụ án.Theo luật định thì trình bày lời khai là quyền của bị can, nhưng trên
thực tế có nhiều trường hợp ĐTV vi phạm quy định này, dùng hình thức hỏi cung
trái pháp luật như: bức cung, ép cung, nhục hình…
Quyền trình bày lời khai của bị can là một quyền mới được quy định trong
BLTTHS 2003. Việc ghi nhận quyền này làm tăng thêm cách thức thực hiện quyền
bào chữa của bị can để bảo vệ hữu hiệu hơn quyền lợi của mình.
- Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu: Bị can có quyền được đưa ra tài liệu, đồ vật có
liênn quan đến vụ án để chứng minh cho sự vô tội của mình. Những đồ vật này có
thể là vật dụng của bị can, người bị hại, vũ khí hay các vật dụng khác hoặc những tài
liệu có liên quan.
Bị can cũng có quyền đưa ra các yêu cầu như: có luật sư bào chữa, thay đổi
người THTT hay đươn thuần là yêu cầu được giải thích về quyền và nghĩa vụ, xem
lại bản ghi chép lời khai của mình…Tuy nhiên để đảm bảo hiệu quả trong công tác

điều tra và tính bí mật trong giải quyết vụ án thì người THTT có thể từ chối những
yêu cầu không hợp lý của bị can. Những đồ vật, tài liệu mà bị can đưa ra sẽ được coi
là chứng cứ nếu được người THTT thu thập theo trình tự thủ tục luật định. CQĐT
phải có nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá khách quan để xác định những tài liệu đồ vật đó
có là chứng cứ của vụ án hay không. Bị can cũng có quyền đưa ra các yêu cầu khác
================================== 4 ================================
Tố tụng hình sự


Nguyễn Thị Huyền Trang
MSSV: 352005
===================================================================

như trưng cầu giám định, giám định lại hoặc điều tra lại vụ án. Những yêu cầu này
của bị can được chấp nhận nếu thỏa mãn các thủ tục mà pháp luật quy định.
- Đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch: Trong TTHS,
người THTT bao gồm Thủ trưởng, Phó trưởng CQĐT, ĐTV, Viện trưởng, PHó Viện
trưởng VKS, KSV, Chánh án, Phó chánh án TA, Hội thẩm nhân dân, Thư ký TA,
Thẩm phán. Những người THTT này có thể bị thay đổi hoặc phải từ chối THTT
trong các trường hợp được quy định tại Điều 42 BLTTHS 2003.
Pháp luật ghi nhận quyền yêu cầu thay đổi người THTT của bị can tại khoản 2
Điều 43 BLTTHS 2003. Sở dĩ bị can có quyền này vì họ là đối tượng bị buộc tội
trong vụ án. Sự công minh và năng lực của những người THTT trực tiếp tham gia
giải quyết vụ án của họ ảnh hưởng rất lớn đến việc bảo đảm cho quyền lợi và nghĩa
vụ của bị can. Do vậy, hơn ai hết, bị can là người trước tiên có quyền yêu cầu thay
đổi người THTT. Tùy theo yêu cầu thay đổi từng người THTT và chức vụ khác nhau
mà căn cứ vào từng điều luật theo quy định của pháp luật từ Điều 44 đến Điều 47
BLTTHS 2003 mà người có thẩm quyền quyết định thay đổi hay không thay đổi
người THTT theo yêu cầu của bị can.
Người giám định là người có kiến thức cần thiết về lĩnh vực cần giám định

được CQTHTT trưng cầu theo quy định của pháp luật. Cơ quan trưng cầu giám định
sẽ quyết định việc thay đổi hay không thay đổi giám định viên theo yêu cầu của bị
can căn cứ theo quy định của pháp luật
Đối với trường hợp có người TGTT không sử dụng được Tiếng Việt thì cần
phải có người phiên dịch do CQĐT, VKS hoặc TA yêu cầu. Trong trường hợp này
nếu người phiên dịch không trung thực hoặc khả năng phiên dịch không chính xác…
làm ảnh hưởng đến bị can thì bị can có quyền yêu cầu thay đổi người phiên dịch.
Được quy định tại khoản 3 Điều 62 BLTTHS 2003.
- Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa: Bảo đảm quyền bào chữa cho bị can
là một nguyên tắc hiến định được ghi nhận tại Điều 132 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ
sung 2001 và Điều 12 BLTTHS 2003. Quyền bào chữa của bị can được thể hiện
dưới hai hình thức: tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa.
Đối với quyền tự bào chữa, pháp luật đã quy định cho bị can những quyền
được biết mình bị khởi tố về tội gì, được giao nhận các quyết định tố tụng, được
trình bày lời khai….Bị can có thể dùng lời khai, đưa ra những đồ vật, tài liệu để
================================== 5 ================================
Tố tụng hình sự


Nguyễn Thị Huyền Trang
MSSV: 352005
===================================================================

chứng minh cho sự vô tội của mình. Quyền tự bào chữa của bị can được thực hiện
trong tất cả các giai đoạn mà bị can tham gia. Vì khi số lượng luật sư còn ít, bào
chữa viên nhân dân trình độ còn yếu kém…nên việc tự bào chữa của bị can có vai
trò rất quan trọng và quyết định đến việc xác định sự thật của vụ án.
Bên cạnh việc tự bào chữa, pháp luật quy định cho bị can quyền nhờ người
khác bào chữa cho mình. Người bào chữa có thể là luật sư, bào chữa viên nhân dân
hoặc người đại diện hợp pháp của bị can theo quy định của pháp luật. Người bào

chữa sử dụng những quyền năng mà pháp luật cho phép để bảo vệ quyền lợi và lợi
ích hợp pháp cho thân chủ mình.
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là quyền quan trọng nhất và pháp luật đã
tạo nhiều điều kiện nhất để họ thực hiện quyền này. Tuy nhiên trên thực tế áp dụng
quyền này của bị can, bị cáo bị vi phạm rất nhiều, đặc biệt là đối với bị can.
- Được nhận các quyết định, văn bản tố tụng: Bị can có quyền được nhận các quyết
định khởi tố, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, bản
kết luận điều tra, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ, tạm
đình chỉ vụ án, bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định khác theo quy
định của pháp luật có liên quan đến quyền lợi,nghĩa vụ của bị can.
Việc nhận được các quyết định tố tụng giúp bị can nắm được tình hình giải
quyết vụ án cũng như tình trạng pháp lý của mìn. Từ đó bị can có thể chủ động
TGTT và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Pháp luật quy định cho bị can
nhận được các quyết định tố tụng đó cũng thực chất là quy định cho bị can một
quyền bổ trợ để thực hiện quyền bào chữa cho mình.
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của CQTHTT, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng: Các quyết định của CQTHTT, NTHTT ban hành trong các giai đoạn
tố tụng có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của bị can, thì bị can có quyền khiếu
nại đối với các quyết định đó.
Pháp luật chỉ quy định bị can có quyền khiếu nại đối với các quyết định tố
tụng nói chung nên ta có thể hiểu tất cả các quyết định tố tụng liên quan đến quyền
lợi và nghĩa vụ của bị can đều có thể trở thành đối tượng bị khiếu nại. Trình tự, thủ
tục tiến hành khiếu nại và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với hành vi,
quyết định của CQTHTT, NTHTT được pháp luật quy định rõ ràng tại chương
XXXV của BLTTHS 2003.
================================== 6 ================================
Tố tụng hình sự


Nguyễn Thị Huyền Trang

MSSV: 352005
===================================================================

Quyền khiếu nại của bị can là sự bảo đảm của pháp luật để bị can có thể bảo
vệ quyền lợi của mình và cũng là căn cứ để đánh giá sự tuân thủ đúng pháp luật của
các CQTHTT, NTHTT.
1.2. Nghĩa vụ của bị can
Bị can là đối tượng bị buộc tội, còn các CQTHTT là chủ thể có nghĩa vụ phải
chứng minh hành vi phạm tội và đưa ra kết luận cuối cùng để giải quyết vụ án, do đó
pháp luật không quy định nhiều về nghĩa vụ của bị can, trong khi trách nhiệm và
nghĩa vụ của NTHTT lại rất lớn. Bị can chỉ có nghĩa vụ “phải có mặt theo giấy triều
tập của CQĐT, VKS. Trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có
thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã” (khoản 3 Điều 49 BLTTHS 2003).
Bị can phải có mặt theo giấy triệu tập của CQĐT, VKS. Trong trường hợp bị
can được tại ngoại, khi cần triệu tập bị can đề tiến hành các hoạt động điều tra hoặc
các hoạt động tố tụng khác, các CQTHTT phải triệu tập bị can bằng giấy triệu tập
theo đúng thủ tục luật định, trong đó phải ghi rõ thời gian, địa điểm bị can phải có
mặt. Bị can có nghĩa vụ phải có mặt theo giấy triệu tập của CQTHTT, nếu vắng mặt
không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã. Bị can
đang tam giam được triệu tập thông quan Ban giám thị trại giam.
2. Các quy định của luật Tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của bị cáo.
2.1. Quyền của bị cáo
Với tư cách tố tụng khác bị can, bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa
ra xét xử, bị cáo phải tham gia vào giai đoạn tố tụng mới là xét xử, do vậy quyền và
nghĩa vụ của họ có nhiều thay đổi. Theo quy định tại khoản 2 Điều 50 BLTTHS
2003 thì bị cáo có quyền:
- Được nhận các quyết định, văn bản tố tụng: Bị cáo có quyền được nhận các quyết
định tố tụng do CQTHTT, NTHTT ban hành. Và quan trọng nhất là quyết định đưa
vụ án ra xét xử. Từ đó tư cách bị can chuyển thành bị cáo trong quá trình tố tụng. Kể
từ khi có quyết định này, quyền và nghĩa vụ của bị cáo được xác định và cũng là căn

cứ để các CQTHTT áp dụng các biện pháp tố tụng đối với bị cáo. Kết quả của giai
đoạn xét xử mang tính chất quyết định đến quyền lợi và nghĩa vụ của bị cáo.
Trong giai đoạn từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi mở phiên tòa
sơ thẩm, nếu xét thấy có căn cứ theo quy định của pháp luật thì TA có thể ra quyết
================================== 7 ================================
Tố tụng hình sự


Nguyễn Thị Huyền Trang
MSSV: 352005
===================================================================

định áp dụng thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn. Các quyết định này
cũng cần phải được giao cho bị cáo.
Bị cáo cũng có quyền nhận được các quyết định tố tụng khác theo quy định
của pháp luật. Các quyết định này được giao đến bị cáo dưới nhiều hình thức khác
nhau tuy nhiên phải bảo đảm được bị cáo phải nhận được.
- Được tham gia phiên tòa: Phiên tòa được mở ra để xét xử bị cáo, do đó không có
lý do gì để ngăn cản việc bị cáo có mặt tại phiên tòa để theo dõi việc các CQTHTT
giải quyết vụ án và tiến hành bào chữa cho mình. Do vậy, quyền tham gia phiên tòa
là quyền đương nhiên của bị cáo và theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo có quyền đưa ra các lý lẽ, đồ vật, tài liệu để gỡ tội cho
mình. Vì thế bị cáo cần nhận thức rõ về quyền tham gia phiên tòa của mình và tích
cực tham gia để có thể bảo vệ quyền lợi của mình tốt nhất. Đây không những là
quyền mà còn là yêu cầu có tính nguyên tắc.
- Được giải thích về quyền và nghĩa vụ: Cũng giống như bị can, bị cáo có quyền
được giải thích về quyền và nghĩa vụ của mình để có thể thực hiện tốt nhất các
quyền và nghĩa vụ đó. Chủ tọa phiên tòa phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị
cáo trong thủ tục bắt đầu phiên tòa, nhờ đó bị cáo có thể nắm được quyền và nghĩa
vụ của mình khi tham gia phiên tòa. Đối với các bị cáo lần đầu tiên tham gia phiên

tòa xét xử thì việc được giải thích về quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên tòa sẽ
làm ổn định trạng thái tâm lý cho bị cáo, từ đó có thể hợp tác với NTHTT trong
phiên tòa một cách chân thực và cởi mở hơn.
- Đề nghị thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch theo quy định của
pháp luật: Bị cáo là đối tượng bị đưa ra xét xử, là đối tượng buộc tội trong vụ án
hình sự, việc xét xử như thế nào ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của bị
cáo, vì vậy bị cáo có quyền được đề nghị thay đổi NTHTT, người giám định, người
phiên dịch khi có căn cứ rõ ràng để cho rằng những người này có thể không vô tư
trong khi làm nhiệm vụ. Bị cáo có thể thực hiện quyền này trước hoặc tại phiên tòa
xét xử trước khi Hội đồng xét xử (HĐXX) xét hỏi. Chánh án TA HĐXX phải xem
xét và giải quyết yêu cầu của bị cáo, khi cần thiết phải hoãn phiên toàn.
- Đưa ra đồ vật, tài liệu, yêu cầu: Quyền này của bị cáo hoàn toàn giống với quyền
của bị can. Bị cáo cũng có quyền đưa ra các đồ vật, tài liệu để chứng minh cho mình
vô tội và đưa ra các yêu cầu tại phiên tòa. Nếu trong các giai đoạn tố tụng trước bị
================================== 8 ================================
Tố tụng hình sự


Nguyễn Thị Huyền Trang
MSSV: 352005
===================================================================

can không đưa ra các đồ vật, tài liệu cần thiết để chứng minh cho mình vô tội thì đến
khi tham gia phiên tòa với tư cách bị cáo thì bị cáo hoàn toàn có quyền đưa ra các đồ
vật, tài liệu này để HĐXX xem xét đánh giá.
Bị cáo cũng có quyền đưa ra những yêu cầu như: triệu tập thêm người làm
chứng, đưa thêm vật chứng, yêu cầu hoãn phiên tòa…Các yêu cầu này phải được
Tòa án xem xét giải quyết.
- Tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa: Quyền bào chữa là quyền cơ bản của đối
tượng bị buộc tội xuyên suốt quá trình tố tụng, nên bất kể đối tượng bị buộc tội

mang tư cách bị can hay bị cáo, đều được pháp luật thừa nhận quyền tự bào chữa và
nhờ người bào chữa. Về cơ bản, cách thức thực hiện quyền bào chữa của bị cáo cũng
giống của bị can. Bị cáo tự bào chữa bằng cách đưa ra những đồ vật, tài liệu, lời
khai, lý lẽ.
Quyền được nhờ người bào chữa ở giai đoạn xét xử được quy định chặt chẽ và
bảo đảm thực hiện hơn ở chỗ, tại các buổi hỏi cung bị can, người bào chữa (NBC)
có quyền được có mặt để tham gia bảo vệ quyền lợi cho bị can. Khi đó NBC có thực
hiện quyền đó hay không là tùy thuộc vào họ và yêu cầu của bị can. Nhưng tại phiên
tòa việc tham gia của NBC là nghĩa vụ bắt buộc và theo quy định của pháp luật.
- Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa: Khi Kiểm sát viên (KSV) trình bày lời
buộc tội với những lý lẽ lập luận và căn cứ của mình để buộc tội bị cáo, thì bị cáo
cũng có quyền trình bày những ý kiến quan điểm của mình về vấn đề mà KSV hoặc
Thẩm phán đưa ra. Bị cáo cũng có quyền tranh luận với KSV. BLTTHS 2003 quy
định cho bị cáo và NBC cho bị cáo có quyền tranh luận nhiều lần tại phiên tòa chứ
không phải chỉ một lần.
Được quy định trong BLTTHS 2003 quyền tranh luận tại phiên tòa cũng là
một quyền bổ trợ cho quyền bào chữa của bị cáo. Thể hiện sự tiến bộ của pháp luật,
hoàn thiện các quyền cho bị cáo, tạo điều kiện hơn nữa cho việc bảo vệ quyền của
những người là đối tượng bị buộc tội trong vụ án hình sự.
- Nói lời sau cùng trước khi nghị án: Các thủ tục xét xử tại phiên tòa được tiến hành
đến trước khi HĐXX bước vào phòng nghị án để thảo luận và đưa ra bản án quyết
định cuối cùng để giải quyết vụ án, lúc này đây bị cáo được phát biểu, nói lên những
lời nói chân thành, những suy nghĩ, những lời hối hận hay xin lỗi về những việc
mình đã làm. HĐXX phải chú ý và tôn trọng quyền nói lời sau cùng trước khi nghị
================================== 9 ================================
Tố tụng hình sự


Nguyễn Thị Huyền Trang
MSSV: 352005

===================================================================

án. Nhiều trường hợp khi nói lời sau cùng, bị cáo lại đưa ra những tình tiết có ý
nghĩa quan trọng đối với vụ án, khi đó HĐXX phải quyết định trở lại phần xét hỏi.
Quy định cho bị cáo có quyền nói lời sau cùng có thể thấy được tính nhân đạo
trong pháp luật VN. Pháp luật được đặt ra ngoài mục đích trừng phạt còn mang tính
răn đe giáo dục con người.
- Kháng cáo bản án, quyết định của tòa án: Kháng cáo là quyền chống lại bản án và
quyết định của Tòa án, yêu cầu được xét xử lại. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án
và quyết định đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của TA. Khi
kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, TA cấp phúc thẩm phải xem xét và giải quyết quyền
kháng cáo của bị cáo. Để bị cáo có thể yên tâm thực hiện quyền kháng cáo, luật
TTHS quy định, nếu chỉ có kháng cáo của bị cáo mà không có kháng cáo, kháng
nghị theo hướng tăng nặng nào khác thì TA cấp phúc thẩm không có quyền sửa theo
hướng bất lợi hơn cho bị cáo. Bị cáo cũng có quyền thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ
hay một phần kháng cáo của mình trước hoặc trong phiên tòa phúc thẩm…
- Khiếu nại hành vi quyết định của CQTHTT, NTHTT: Bị cáo có quyền khiếu nại
quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng. Những quyết định này không
thuộc đối tượng kháng cáo như quyết định áp dụng, thay đổi hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn… Bị cáo cũng có quyền khiếu nại hành vi tố tụng của cơ quan, NTHTT nếu
các hành vi đó là trái pháp luật.
2.2. Nghĩa vụ của bị cáo
Bị cáo chỉ có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của TA và trong trường hợp
bị cáo vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải, nếu bị cáo bỏ trốn
thì bị truy nã. Trong giai đoạn xét xử, TA triệu tập bị cáo bằng giấy triệu tập khi cần
có mặt của bị cáo. Giấy triệu tập bị cáo chỉ rõ đích danh bị cáo và thời gian bị cáo
phải có mặt…
Như vậy, ngoài những quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 49 và 50
của BLTTHS, bị can và bị cáo còn có các quyền khác của công dân khi tham gia các
hoạt động TTHS. Đó là các quyền được bình đẳng trước pháp luật, quyền bất khả

xâm phạm về thân thể….Nhưng những quyên này là quyền cơ bản cho mọi NTGTT
do đó nó không tạo nên nét riêng biệt cho địa vị pháp lý của bị can, bị cáo. Bị can, bị
cáo cùng là một đối tượng bị buộc tội trong vụ án hình sự chỉ có tư cách pháp lý là
khác nhau trong các giai đoạn tố tụng khác nhau. Do đó rất nhiều quyền của bị can
================================== 10================================
Tố tụng hình sự


Nguyễn Thị Huyền Trang
MSSV: 352005
===================================================================

và bị cáo là giống nhau như quyền bào chữa, quyền được giải thích về quyền và
nghĩa vụ….Nhưng trong các giai đoạn tố tụng khác nhau thì các hoạt động tố tụng
được tiến hành cũng khác nhau, do đó quyền của bị can và bị cáo cũng có những
điểm khác nhau cơ bản như đã phân tích ở trên. Sự khác nhau này chính là đặc điểm
để phân biệt về địa vị pháp lý của các chủ thể này.
III. MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
LUẬT TTHS VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TTHS.
Để TTHS đạt hiệu quả cao, và việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can, bị
cáo trong thực tiễn được nâng cao. Bài viết xin đưa ra một số bất cập và đề xuất
đóng góp để hoàn thiện hơn các quy định của luật TTHS về địa vị pháp lý của bị
can, bị cáo là:
- Một trong những vướng mắc về pháp luật TTHS là trong Điều 49 và Điều 50
BLTTHS đều quy định bị can, bị cáo có quyền “được giải thích về quyền và nghĩa
vụ”. Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện những quyền này chưa có sự bảo đảm về
mặt pháp lý nên còn có những vi phạm. Theo quy định của luật TTHS thì cơ quan,
NTHTT có trách nhiệm giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ này
của bị can, bị cáo. Song trên thực tế, một số trường hợp sau khi ra quyết định khởi tố
bị can, CQĐT không giao quyết định này và cũng không giải thích cho bị can biết rõ

quyền và nghĩa vụ của họ. Do vậy, một số bị can không biết là mình có quyền nhờ
luật sư ngay từ khi bị khởi tố mà họ tưởng khi ra Tòa thì mới được mời luật sư. Hơn
nữa nếu có giải thích thì cũng không có điều kiện khẳng định cách giải thích của
những NTHTT về quyền bào chữa của bị can, bị cáo đến đâu để họ hiểu được việc
mời Luật sư là quyền của họ và các CQTHTT phải có trách nhiệm tạo mọi điều kiện
để họ thực hiện quyền đó hay không? Trong THTT không giải thích và bảo đảm
thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo. Chính điều này phần nào đã làm
giảm vai trò, địa vị của bị can, bị cáo.
Do vậy, khi cơ quan, NTHTT không thực hiện nghĩa vụ này phải được coi là
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và đây chính là căn cứ pháp lý để trả lại hồ sơ
điều tra bổ sung; là căn cứ hủy để điều tra, xét xử lại tùy thuộc việc vi phạm ở giai
đoạn tố tụng nào. Nên cần phải bổ sung quy định này vào BLTTHS, để có khả thi
cao hơn ở Điều 49, Điều 50 như sau: “ Được giải thích về quyền và nghĩa vụ. Vi
phạm về quyền này là vi phạm pháp luật nghiêm trọng”.
================================== 11================================
Tố tụng hình sự


Nguyễn Thị Huyền Trang
MSSV: 352005
===================================================================

- Điều 49, Điều 50 BLTTHS quy định bị can, bị cáo “ Có quyền đưa ra tài liệu, đồ
vật, yêu cầu”. Theo đó thì bị can, bị cáo có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Theo quy định của pháp luật TTHS thì
CQTHTT phải áp dụng các biện pháp theo luật định để thu thập chứng cớ chứng
minh tội phạm và người phạm tội. Bị can, bị cáo là chủ thể có quyền bào chữa, có
thể là chủ thể của hoạt động chứng minh. Đây là quyền chứ không phải là trách
nhiệm của họ. Nghĩa là bị can, bị cáo có quyền đưa ra chứng cớ chứ không phải là
chỉ có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Việc quy định bị can, bị cáo có những

quyền đó như vậy là chưa có sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong
việc thực hiện các quyền tố tụng. Bị can, bị cáo cung cấp chứng cứ là để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ, còn các CQTHTT thu thập chứng cứ là để chứng
minh tội phạm và như vậy mới phù hợp với nguyên tắc tranh tụng. Do vậy, trách
nhiệm của NTHTT là phải xem xét các chứng cứ do bị can, bị cáo cung cấp để phục
vụ cho hoạt động chứng minh của mình sao cho có căn cứ hợp pháp.
Mặt khác, CQTHTT có quyền áp dụng mọi biện pháp hợp pháp xác minh, tìm
kiếm, thu thập tài liệu, đồ vật có liên quan để tập hợp lại lập thành hồ sơ được gọi là
chứng cứ vụ án. Vì vậy, hồ sơ vụ án chính là nguồn chứng cứ quan trọng để giải
quyết vụ án. Cho nên, bị can, bị cáo có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật nói ở đây chính
là tài liệu, đồ vật được lấy ra từ hồ sơ vụ án mà CQĐT đã thu thập được và đó là
chứng cứ của vụ án. Do vậy, sẽ hợp lý hơn khi quy định bị can, bị cáo có quyền đưa
ra chứng cứ, yêu cầu mà không phải chỉ có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Như vậy mới bảo đảm được sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng giữa các bên
trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
Người THTT có quyền không sử dụng những chứng cứ do bị can, bị cáo cung
cấp nếu như các chứng cứ đó không thỏa mãn các thuộc tính của chứng cứ. Từ
những phân tích trên, Điều 49, 50 BLTTHS nên sửa đổi quy định bị can, bị cáo “có
quyền có quyền đưa ra tài liệu , đồ vật, yêu cầu” thành bị can, bị cáo “có quyền đưa
ra chứng cứ, yêu cầu”. Quy định tại Điều 64, 65, 66 BLTTHS về chứng cứ, thu thập
chứng cứ và đánh giá chứng cứ cũng phải được sửa đổi để cho phù hợp với quy định
về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo.
- Tại Điều 49, 50 BLTTHS đều quy định bị can, bị cáo có quyền “tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa”. Tuy nhiên trong thực tiễn, việc thực hiện quyền này còn
================================== 12================================
Tố tụng hình sự


Nguyễn Thị Huyền Trang
MSSV: 352005

===================================================================

có những hạn chế nhất định. Đối với trường hợp nhờ người khác bào chữa thì NBC
còn gặp khó khăn khi thực hiện quyền này cho bị can, bị cáo. Cụ thể, việc nghiên
cứu hồ sơ vụ án cũng còn nhiều bất cấp, trở ngại đối với NBC vì CQTHTT chưa tạo
điều kiện thuận lợi cho người bào chữa như việc tiếp gặp bị can, bị cáo; có mặt tham
gia lấy lời khai, nghiên cứu, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án….mà những điều
này suy cho cùng là quyền được bảo vệ của bị can, bị cáo. Đối với những trường
hợp pháp luật quy định buộc phải có luật sư TGTT mà CQTHTT không đảm bảo
cho bị can, bị cáo thì được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Bộ luật TTHS quy định NBC là NTGTT bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo,
trong khi đó lại quy định NBC có quyền rộng hơn người bị buộc tội. Đây thực sự là
một sự bất hợp lý. Theo quy định của pháp luật thì bị can, bị cáo là chủ thể có quyền
bào chữa. Quyền bào chữa gồm hai bộ phận không tách rời nhau: quyền tự bào chữa
và quyền nhờ người khác bào chữa. Thực hiện quyền bào chữa không làm mất đi
quyền nhờ người khác bào chữa và ngược lại. Trong việc thực hiện quyền bào chữa
thì ý chí của người bị buộc tội luôn là yếu tố quyết định có hay không sự tham gia
của NBC. Hay nói cách khác, NBC có được TGTT hay không là phụ thuộc vào ý chí
của người có quyền bào chữa. Hơn nữa, quyền năng của Luật sư chỉ là thứ quyền
năng phát sinh từ bị can, bị cáo.Thực tế Điều 58 BLTTHS quy định NBC có quyền
đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa
sau khi kết thúc điều tra…Trong khi đó bị can, bị cáo chính là những đối tượng bị
buộc tội lại không có những quyền này.
Vì vậy, với quan niệm mở rộng hơn nữa quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo
trong TTHS. Theo đó bị can, bị cáo có quyền được xem hồ sơ, được sao chép hồ sơ,
được ghi chép tài liệu trong hồ sơ liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều
tra, đồng thời có quyền sử dụng những gì ghi chép được trình ra trước Tòa. Vì vậy,
vấn đề bị can, bị cáo được xem hồ sơ, được sao chép hồ sơ, tài liệu có trong hồ sơ
sau khi kết thúc điều tra cũng là vấn đề cần được quan tâm trong quá trình sửa đổi,
bổ sung BLTTHS. Tuy nhiên, cũng cần phải có cơ chế quy định: Bị can, bị cáo có

hành vi vi phạm việc quản lý, bảo vệ, lưu trữ hồ sơ thì đương nhiên sẽ mất quyền
này tại bất cứ thời điểm nào. Để đảm bảo tính khả thi quyền này của bị cáo thì nên
bổ sung một quyền mới vào Điều 50 BLTTHS là: “Bị cáo có quyền sử dụng những
gì ghi chép được trình ra trước Tòa án để bảo vệ mình”.
================================== 13================================
Tố tụng hình sự


Nguyễn Thị Huyền Trang
MSSV: 352005
===================================================================

Trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay quyền nhờ người khác bào chữa
của bị can, bị cáo cũng cần được mở rộng thêm nữa. Bằng cách quy định mở rộng
đối tượng, phạm vi chủ thể có thể tham gia với tư cách là người bào chữa, chứ
không nên quy định như Điều 56 BLTTHS hiện nay NBC là: Luật sư; người đại
diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân. Theo đó
quy định về NBC sẽ là “người có kiếnn thức pháp luật được bị can, bị cáo mời và
CQTHTT cấp giấy chứng nhận bào chữa thì được tham gia bào chữa”. Phạm vi bòa
chữa mở rộng bắt đầu ngay từ khi một người bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố
tụng và kết thúc thì các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được giải quyết
xong. Việc lựa chọn NBC theo Điều 57 BLTTHS nên quy định: “Người bào chữa
do bị can, bị cáo hoặc đại diện hợp pháp của họ hoặc gia đình họ lựa chọn”, chứ
không quy định chỉ thuộc về bị can, bị cáo như hiện nay. Đây cũng chính là từng
bước mở rộng tranh tụng trong TTHS nhằm đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp.
- Cần phải quy định trực tiếp bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về thần kinh hoặc thể chất có người đại diện hợp pháp vào Điều 49, 50.
Theo đó, bổ sung vào Điều 49 một khoản mới như sau: “4. Bị can là người chưa
thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có người đại diện hợp
pháp theo pháp luật. Người đại diện hợp pháp cho bị can có quyền và nghĩa vụ theo

quy định của Bộ luật này”. Và bổ sung vào Điề 50 một khoản mới như: “4. Bị cáo là
người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có người
đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật. Người đại diện hợp pháp của bị cáo
có quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật này”. Chứ không nên hiểu gián tiếp
qua các điều luật khác như hiện nay.
- Ngoài ra, cần kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS liên quan
đến địa vị pháp lý của bị can, bị cáo: Do pháp luật quy định chỉ mới khái quát rằng
“bị can là người đã bị khởi tố về hình sự” gây khó khăn cho việc xác định thời điểm
chuyển hóa tư cách bị can thành bị cáo, nên cần có hướng dẫn chi tiết cho quy định
này trong các bản văn bản dưới luật hoặc sửa đổi lại khoản 1 Điều 49 theo hướng
quy định rõ thời điểm xác định tư cách bị can.
Nên sửa đổi quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 179 thành: “khi có căn cứ cho
rằng bị can, bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác” để tránh tình trạng
không xác định được thời điểm chuyển tư cách từ bị can sang bị cáo.
================================== 14================================
Tố tụng hình sự


Nguyễn Thị Huyền Trang
MSSV: 352005
===================================================================

Theo điểm b khoản 2, Điều 58 BLTTHS thì NBC phải đề nghị CQĐT báo
trước về thời gian, địa điểm “hỏi cung” bị can, vì vậy CQĐT không có trách nhiệm
thông báo cho NBC nếu như không có yêu cầu và nếu chỉ là thông báo mà không
phải là thông báo “hợp lệ” qua email, nhắn tin, fax hoặc chuyển văn bản quan đường
bưu điện thì NBC nhiều không nhận được thông báo. Mặt khác quy định này chỉ yêu
cầu thông báo về lịch “hỏi cung” còn hoạt động tố tụng khác thì CQĐT không phải
thông báo. Cần phải sửa đổi, bổ sung những quy định này nhằm nâng cao hơn nữa
các quyền cho NBC.

Theo Nghị định 98/ 2002 thì NBC gặp riêng đương sự chỉ được 1 giờ/ 1 lần
gặp. Quy định này hoàn toàn không phù hợp với thực tế khách quan vì nhiều trường
hợp NBC phải kiểm tra, trao đổi với đương sự các tài liệu của vụ án hoặc những tài
liệu mới thu thập được, do đó nếu một ngày NBC làm thủ tục xin gặp đến 2 lần thì
cũng chỉ có 2 giờ làm việc. Do đó, điểm e, khoản 2 Điều 58 cần bổ sung theo tinh
thần: Luật sư có quyền gặp riêng làm việc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo khi
cần thiết. Trong trường hợp đặc biết, một số tội cụ thể luật sư có quyền làm việc với
bị can trong tầm nhìn nhưng không trong tầm nghe của NTHTT, không bị hạn chế
về số lượng lần gặp và thời gian gặp.
Luật không quy định cụ thể CQTHTT phải chịu chế tào thế nào nếu không tạo
điều kiện cho luật sư hành nghề nên nhiều quyền của NBC không được thực hiện và
hầu như bị vi phạm. Do vậy, cần quy định các chế tài cụ thể đối với các hành vi cản
trở của ĐTV cũng như CQĐT đối với sự tham gia của Luật sư.

C. KẾT LUẬN
Như vậy, những quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo đã góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích cho bị can, bị cáo. Nhưng những quy định đó cần được sửa đổi, bổ
sung cụ thể và chi tiết hơn nữa để bất kỳ ai kể cả NTHTT, NTGTT và những người
khác đều hiểu đúng và thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Đồng thời, với xu
thế dân chủ hóa và hội nhập quốc tế nên cũng như hệ thống pháp luật nói chung, các
quy định về bị can, bị cáo trong BTTHS cần được hoàn thiện hơn nữa để bảo đảm
cho nền tư pháp dân chủ hơn, nhân đạo hơn.

================================== 15================================
Tố tụng hình sự


Nguyễn Thị Huyền Trang
MSSV: 352005
===================================================================


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Trường ĐH Luật HN. NXB Tư
pháp, HN- 2006.
2. Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Võ Khánh Vinh ( chủ
biên). NXB CAND, Hà Nội- 2006.
3. Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Viện khoa học pháp
lý. NXB Tư pháp, HN- 2005.
4. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. NXB Chính trị quốc gia.
5. Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
hiện hành và thực tiễn thực hiện trong hoạt động tố tụng hình sự tại tỉnh Lai
Châu : Khoá luận tốt nghiệp / Vũ Thị Quyên; Hà Nội, 2010.h
6. Tạp chí kiểm sát. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số Xuân (01)/2009.
7. Kiểm sát. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số 21 tháng11/2009.

================================== 16================================
Tố tụng hình sự


Nguyễn Thị Huyền Trang
MSSV: 352005
===================================================================

MỤC LỤC
A.

================================== 17================================
Tố tụng hình sự




×