Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Thực thi quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp trong lĩnh vực ngân sách nhà nước – thực trạng và đề xuất pháp lí của nhóm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.17 KB, 12 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng quyền làm chủ của nhân dân, do dân địa phương bầu ra chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nươc cấp trên. Hội đồng nhân dân
quyết định những chủ trương chính sách quan trọng để phát huy tiềm năng của địa
phương, xây dựng phát triển kinh tế xã hội… Trong lĩnh vực ngân sách nhà nước
Hội đồng nhân dân dân các cấp có quyền hạn quan trọng, Tuy nhiên trong quá trình
thực hiện quyền hạn của mình bên cạnh những thành tựu đạt được thì không tránh
khỏi những nhược điểm của mình. Trong bài tập nhóm tháng 1 chúng em xin làm rõ
vấn đề “ Thực thi quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp trong lĩnh vực
ngân sách nhà nước – thực trạng và đề xuất pháp lí của nhóm”.
B NỘI DUNG.
I. Ngân sách nhà nước và quyền hạn của HĐND các cấp trong lĩnh vực ngân
sách nhà nước.
1. Ngân sách nhà nước
Trong pháp luật thực định Việt Nam, khải niệm ngân sách nhà nước được đề cập
tại. Điều 1 Luật ngân sách nhà nước năm 2002, theo đó, “Ngân sách nhà nước là
toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan có thẩm
quyền của Nhà nước quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực
hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước”.
a)

Đặc điểm của ngân sách nhà nước.

Có thể hình dung ngân sách nhà nước bao gồm những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, ngân sách nhà nước là một kế hoạch tài chính khổng lồ nhất cần được
quốc hội biểu quyết thông qua trước khi thi hành.
Thứ hai, ngân sách nhà nước không phải là một bản kế hoạch tài chính thuần túy mà
còn là một đạo luật.
Thứ ba, ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính của toàn thể quốc gia, được trao
cho chính phủ tổ chức thực hiện nhưng phải đặt dưới sự giám sát trực tiếp của quốc


hội.
1


Thứ tư, ngân sách nhà nước được thiết lập và thực thi hoàn toàn vì mục tiêu mưu cầu
lợi ích chung cho toàn thể quốc gia, không phân biệt người thụ hưởng các lợi ích đó
là ai, thuộc thành phần kinh tế nào hay đẳng cấp xã hội nào.
Thứ năm, ngân sách nhà nước luôn phản ánh mối tương quan giữa quyền lập pháp
và quyền hành pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện ngân sách.
b)

Vai trò của ngân sách nhà nước trong nền kình tế thị trường.

Vai trò của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Vai trò của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường có thể khắc họa ở ba
khía cạnh chủ yếu: một là, công cụ phân phối của Nhà nước đối với lợi tức quốc gia;
hai là, công cụ điều tiết các hoạt động kinh tế; ba là, công cụ hướng dẫn tiêu dùng
xã hội. Vai trò đích thực của ngân sách nhà nước, suy cho cùng, chỉ phát huy tác
dụng khi nó gắn với nhà nước và được thể chế hóa bởi Nhà nước thông qua phương
tiện pháp luật.
2. Quyền hạn của HĐND các cấp trong lĩnh vực NSNN.
Ngân sách nhà nước là phương tiện kinh tế để các cơ quan nhà nước thực hiện
việc quản lý và điều hành xã hội. Như chúng ta đã biết, Ngân sách nhà nước được
thiết kế theo mô hình hệ thống chính quyền. Ở Việt Nam chúng ta, mô hình hệ thống
chính quyền được tổ chức từ trung ương đến địa phương. Ở trung ương gồm có cơ
quan quyền lực ( Quốc hội ) và cơ quan chấp hành ( Chính Phủ ). Ở địa phương gồm
có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp. Với vai trò là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, Hội đồng nhân dân ( HĐND ) các cấp có nhiệm vụ và quyền
hạn trong việc thực hiên ngân sách nhà nước ở địa phương do mình quản lý. HĐND
gồm có: HĐND tỉnh ( thành phố trực thuộc trung ương ), HĐND huyện và tương

đương và HĐND xã.
Khoản 1 Điều 4 Luật ngân sách nhà nước 2002, Ngân sách nhà nước bao gồm ngân
sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân
sách của đơn vị hành chính các cấp có hội đồng nhân dân.
Theo Điều 119, 120 Luật hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
2


Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Căn cứ
vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, Hội đồng nhân dân ra
nghị quyết về các biện pháp đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật
ở địa phương; về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách…..
Nhiệm vụ, quyền hạn của hội đồng nhân dân các cấp được quy định trong các Điều
25 Luật ngân sách nhà nước, cụ thể như sau:
“Điều 25:
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp:
1. Căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi ngân sách được cấp trên giao và tình hình thực tế
tại địa phương, quyết định:
A) Dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, bao gồm thu nội địa, thu từ hoạt
động xuất khẩu và nhập khẩu, thu viện trợ không hoàn lại;
B) Dự toán thu ngân sách địa phương, bao gồm các khoản thu ngân sách địa
phương hưởng 100%, phần ngân sách địa phương được hưởng từ các khoản thu
phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%), thu bổ sung từ ngân sách cấp trên;
C) Dự toán chi ngân sách địa phương, bao gồm chi ngân sách cấp mình và chi ngân
sách địa phương cấp dưới, chi tiết theo các lĩnh vực chi đầu tư phát triển, chi
thường xuyên, chi trả nợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, dự phòng ngân sách.
Trong chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên có mức chi cụ thể cho các lĩnh vực
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ;

2. Quyết định phân bổ dự toán ngân sách cấp mình:
a) Tổng số và mức chi từng lĩnh vực;
b) Dự toán chi ngân sách của từng cơ quan, đơn vị thuộc cấp mình theo từng lĩnh
vực;
c) Mức bổ sung cho ngân sách từng địa phương cấp dưới, gồm bổ sung cân đối, bổ
sung có mục tiêu;
3. Phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương;
3


4. Quyết định các chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa
phương;
5. Quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết;
6. Giám sát việc thực hiện ngân sách đã được Hội đồng nhân dân quyết định;
7. Bãi bỏ những văn bản quy phạm pháp luật về tài chính - ngân sách của Uỷ ban
nhân dân cùng cấp và Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp trái với Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên;
8. Đối với Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, ngoài nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các
khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều này, còn có nhiệm vụ, quyền hạn:
A) Quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa
phương theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 4 của Luật này;
B) Quyết định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa ngân sách các cấp chính quyền
địa phương đối với phần ngân sách địa phương được hưởng từ các khoản thu quy
định tại khoản 2 Điều 30 của Luật này và các khoản thu phân chia giữa các cấp
ngân sách ở địa phương;
C) Quyết định thu phí, lệ phí và các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định
của pháp luật;
D) Quyết định cụ thể một số định mức phân bổ ngân sách, chế độ, tiêu chuẩn, định
mức chi theo quy định của Chính phủ;

Đ) Quyết định mức huy động vốn theo quy định tại khoản 3 Điều 8 của Luật này.”
Cụ thể nghị định 60/2003 quy định cụ thể về việc phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ
chia của hội đồng nhân dân tỉnh tại Điều 23 và Điều 25: theo đó thì: hội đồng nhân
dân cấp tỉnh quyết định phân cấp nguồn thu cho ngân sách các cấp chính quyền địa
phương theo các nguyên tắc quy định tại Điều 6 của Nghị định này, đồng thời phải
đảm bảo các yêu cầu: gắn với nghiệm vụ và khả năng quản lý của từng cấp, hạn chế
việc bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới, khuyến khích các cấp
tăng cường quản lý thu, chống thất thu, hạn chế phân chia các nguồn thu có quy mô
nhỏ cho nhiều cấp. Ngân sách xã, thị trấn được hưởng tối thiểu 70% đối với các
4


khoản thu: thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế nhà, đất, thuế môn bài thu từ cá
nhân, hộ kinh doanh, thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình; lệ phí trước
bạ nhà đất.; Ngân sách thị xã, thành phố thuộc tỉnh được hưởng tối thiểu 50% khoản
thu lệ phí trước bạ, không kể lệ phí trước bạ nhà, đất. Và hội đồng nhân dân cấp tỉnh
quyết định phân cấp nhiệm vụ chi cho ngân sách các cấp chính quyền địa phương
đảm bảo yêu cầu: phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh đối với từng lĩnh vực và đặc điểm kinh tế, địa lý, dân cư từng vùng và trình độ,
năng lực của đội ngũ cán bộ, bảo đảm hiệu quả; phải phân cấp nhiệm vụ chi đầu tư
xây dựng các trường phổ thong quốc lập các cấp, điện chiếu sang, cấp thoát nước,
giao thông đô thị, vệ sinh đô thị,và các công trình phúc lợi công cộng khác cho thị
xã, thành phố thuộc tỉnh;
Ngoài ra, nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng nhân dân các cấp đối với ngân sách
nhà nước còn được quy định trong Điều 11, Điều 19 và Điều 29 Luật tổ chức HĐND
và Uỷ ban nhân dân các cấp năm 2003.
Đối với HĐND tỉnh, khoản 3, 4 và 5 Điều 11 quy định HĐND tỉnh có quyền hạn và
nghĩa vụ:
“3. Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân
sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; phê chuẩn quyết toán

ngân sách địa phương; quyết định các chủ trương, biện pháp triển khai thực hiện
ngân sách địa phương; điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp
cần thiết; giám sát việc thực hiện ngân sách đã được Hội đồng nhân dân quyết định;
4. Quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa
phương theo quy định của Luật ngân sách nhà nước;
5. Quyết định thu phí, lệ phí và các khoản đóng góp của nhân dân và mức huy động
vốn theo quy định của pháp luật”
Đối với HĐND huyện, khoản 3 Điều 19 quy định:
“ 3. Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân
sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; phê chuẩn quyết toán ngân
sách địa phương; quyết định các chủ trương, biện pháp triển khai thực hiện ngân sách;
5


điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết; giám sát việc
thực hiện ngân sách đã được Hội đồng nhân dân quyết định;”
Đối với HĐND xã, khoản 2 Điều 29 quy định
“ 2. Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân
sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; phê chuẩn quyết toán
ngân sách địa phương; các chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách
địa phương và điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương theo quy định của pháp
luật; giám sát việc thực hiện ngân sách đã được Hội đồng nhân dân quyết định
II. Thực trạng thực thi quyền hạn của HĐND các cấp trong lĩnh vực ngân sách
nhà nước.
1. Những thành tựu đạt được
Trong những năm qua nhất là năm 2004 thục hiện Luật Ngân sách nhà nước đến
nay, vai trò giám sát của HĐND các cấp đã được nâng cao, khẳng định vị thế người
đại biểu cho chính quyền địa phương.
Các ban chuyên môn của HĐND đã có sự phối hợp với UBND ngay từ khâu đầu của
quá trình xây dựng kế hoạch ngân sách. Nhìn chung việc quyết định kế hoạch ngân

sách được tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật hiện hành. Hàng năm HĐND
thường tổ chức họp hai kì thông thường vào tháng 7 và tháng12, một trong những
nội dung quan trọng của kì họp cuối năm là phê chuẩn kế hoạch và ngân sách năm
sau. Trước kì họp ban KHNS của HĐND tỉnh, ban kinh tế xã hội của HĐND huyện,
chủ tịch, phó chủ tịch HĐND xã đã thực hiện các thẩm tra báo cáo của UBND các
cấp. Ban KTNS của HĐND tỉnh gồm những người am hiểu về lĩnh vực ngân sách,
đồng thời có sự chỉ đạo phối hợp với chính quyền ngay từ khi xây dựng phương án
phân bổ ngân sách. Đối với cấp huyện, xã, phường những nhân vật chủ chốt của
HĐND thường đóng vai trò quan trọng họ tham gia đóng góp ý kiến ngay từ khâu
đầu của quy trình kế hoạch ngân sách. Đây cũng là lí do dẫn đến trong các cuộc họp
quyết định ngân sách thường được thông qua một cách suôn sẻ.
Các ban chuyên môn của HĐND đã tích cực chủ động hơn trong công việc giám
sát kế hoạch và ngân sách với nhiều hình thức đa dạng và quy trình giám sát ngày
6


càng được chuẩn hóa. Trước đây hoạt động của các ban thường phụ thuộc vào ý kiến
chỉ đạo của thường trực HĐND gần đây ban kinh tế ngân sách và các ban khác đã
chủ động hơn trong việc lập và thực hiện kế hoạch giám sát tại cơ sở.
2. Những điểm hạn chế còn tồn tại.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong lĩnh vực ngân sách nhà nước thì hoạt
động của HDND cũng không thể tránh khỏi những bất cập, và hạn chế. Cụ thể như
sau : Vai trò của HDND trong việc quyết định kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và
phân bổ ngân sách, quyết toán ngân sách còn chưa mạnh. Theo luật ngân sách năm
2002 thì một trong những vai trò quan trọng của HDND các cấp là quyết định các kế
hoạch phát triển và phân bổ ngân sách. Trên thực tế HDND các cấp mới dành sự
quan tâm nhiều đến chỉ tiêu phấn đấu là bao nhiêu, phân bổ ngân sách hơn là quyết
toán ngân sách và giải pháp gì để bảo đảm các chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội được thực hiện.
Trong các cuộc họp chính thức bàn về ngân sách rất ít ý kiến trái chiều và đại bộ

phận các đại biểu đồng ý với phương án phân bổ do UBND đưa ra. Chất lượng chất
vấn chưa cao, nhiều đại biểu HDND đặt ra các câu hỏi do chưa nắm bắt được sự
thay đổi trong các cơ chế chính sách tài chính hoặc chỉ liên quan đến lợi ích nhỏ lẻ
của đơn vị mình đại diện, Những chất vấn của đại biểu HDND có tính chất định
hướng chiến lược về cơ chế chính sách để phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn còn
chưa nhiều.
Cơ chế phối hợp giữa các đại biểu HĐND còn chưa chặt chẽ, các vấn đề đưa ra
có tính chất vấn trong kì họp chủ yếu dựa vào ý kiến của các bạn chuyên trách hoặc
của thường trực HĐND hơn là sự chủ động của từng thành viên HĐND . Mối quan
hệ giữa thường trực HĐND với các ban chuyên trách còn lỏng lẻo, sự trao đổi kinh
nghiệm học hỏi kinh nghiệm giữa các cấp còn rất ít. Sự am hiểu của các đại biểu
không chuyên trách về vấn đề kinh tế ngân sách còn mờ nhạt.
Tính độc lập của thông tin còn hạn chế HĐND giám sát dựa trên các thông tin
của cơ quan công quyền là chủ yếu. Nguồn thông tin của HĐND sử dụng khi quyết
định phân bổ ngân sách hay giám sát ở ba cấp tỉnh, huyện, xã, chủ yếu dựa vào các
7


báo cáo quý hàng năm. Trong quá trình thực hiện giám sát của HDND thường có đại
diện các ngành đi cùng điều đó làm hạn chế tính khách quan của luồng thông tin.
Việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho các cấp chưa phát huy hiệu quả, trên
thực tế vẫn tồn tại hình thức kiểu “ xin cho” rất phổ biến, lí thuyết và thực tế khá xa
rời nhau nhất là về những vấn đề nhạy cảm liên quan đến ngân sách!
Ví dụ: (LĐO) – Sáng 8.12, kỳ họp 22 HĐND TP Hà Nội đã nghe tờ trình, thảo luận
và thông qua các nghị quyết về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi, định mức phân bổ
ngân sách và chế độ công tác phí, chi tổ chức hội nghị…Sau khi nghe báo cáo tờ
trình về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và định mức phân bổ ngân sách giai đoạn
2011 – 2015 của TP, ông Nguyễn Văn Nam, Trưởng ban Kinh tế và Ngân sách cho
biết, do phân cấp quản lý KTXH có những bất cập nên phân cấp nguồn thu, nhiệm
vụ chi chưa phát huy hết hiệu quả. Một số khoản thu phân cấp chia quá nhỏ, còn phụ

thuộc vào việc giao cấp nào thực hiện (ví dụ: thu đấu giá quyền sử dụng đất, lệ phí
trước bạ…). Phân cấp chi đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) còn chung chung, thiếu
cụ thể; số vốn chi đầu tư XDCB đã phân cấp cho quận huyện thị xã còn thấp, chưa
tương xứng với nhiệm vụ. Do vậy hàng năm ngân sách TP phải bổ sung cho ngân
sách quận huyện bằng “bổ sung có mục tiêu” rất lớn và tăng nhanh qua các năm.
Hạn chế này tạo nên sự đùn đẩy trong đầu tư giữa các cấp ngân sách, cơ chế xin-cho,
các địa phương không chủ động trong thực hiện nhiệm vụ được phân cấp. Các nguồn
thu được phân cấp rộng hơn như thuế thu nhập cá nhân, lệ phí trước bạ xe máy, ô tô,
tàu thuyền và tài sản khác trước đây thu về ngân sách TP nay đã phân cấp về cho
quận huyện thị xã. Giảm tối đa chia các khoản thu phân chia theo nhiều tỉ lệ khác
nhau.1
III. Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND các cấp trong việc
thực thi quyền hạn của mình trong lĩnh vực ngân sách nhà nước
1. Nâng cao thực quyền của HĐND các cấp trong lĩnh vực ngân sách nhà nước.
1.

Tạo sự chủ động quyết định ngân sách cấp mình cho HĐND , tránh cấp trên

can thiệp quá sâu vào việc lập và phân bổ ngân sách của cấp dưới, khắc phục tình
1

/>
8


trạng HĐND các cấp quyết định lại dự toán ngân sách cấp mình đã được cấp trên
quyết định.
2.

Ủy ban nhân dân phải coi trọng công tác làm quyết toán trước khi trình ra


HĐND , phải cung cấp sớm cho hội đồng nhân dân các tài liệu quyết toán ngân sách
để các cơ quan này có thời gian và điều kiện xem xét , phê chuẩn quyết toán một
cách chính xác , có độ tin cậy cao. HĐND phải có đủ thời gian xem xét ngân sách
trước khi đem ra họp, đưa ra các kiến nghị có chất lượng để sửa đổi ngân sách đi đến
quyết định ngân sách.Chính vì thế mà thời gian lập và quyết định ngân sách kéo dài
là một điều kiện để phát huy dân chủ cao hơn.
3.

Phải tiến hành cải cách bộ máy nhà nước , theo đó phân định rõ chức năng

nhiệm vụ theo đặc điểm của mỗi cấp chính quyền. Trong đó cần phải làm rõ trách
nhiệm quản lí của từng cấp trong từng nhiệm vụ quyền hạn cụ thể , xác định rõ và
khẳng định dứt khoát cơ quan cấp nào có thẩm quyền và chịu trách nhiệm cuối cùng
đối với từng lĩnh vực .Cũng cần xác định rõ vị trí ,vai trò ,tính chất , đặc điểm của
các cấp chính quyền địa phương , không nên quy định giống nhau theo kiểu tỉnh
tương đương thành phố trực thuộc trung ương ,huyện tương đương thị xã thành phố
thuộc tỉnh , xã tương đương phường thị trấn.Mà cần phải nghiên cứu nhiệm vụ đặc
thù của từng cấp chính quyền để xác định rõ mô hình phân cấp quản lí.
4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật , trong đó chú trọng việc ban hành các văn
bản xác lập lĩnh vực phân cấp về quyền cho hội đồng nhân dân.Để hội đồng nhân
dân các cấp thực hiện tốt quyền hạn của mình trong lĩnh vực ngân sách nhà nước thì
cơ sở pháp lí là điều rất quan trọng.Vì vậy cần hoàn thiện hệ thống pháp luật ,trong
đó chú trọng việc ban hành các văn bản xác lập lĩnh vực phân cấp quyền cho hội
đồng nhân dân tạo cơ sở pháp lí là điều cần thiết trong đó phải mở rộng quyền cho
hội đồng nhân dân xã ,đây là cấp ngân sách nhỏ nhất nhưng lại rất quan trọng. Theo
đó cần phải sửa đổi luật như sau:


HĐND quyết định dự toán ngân sách địa phương với các chỉ tiêu :Tổng


số thu NSNN trên địa bàn,thu cân đối ngân sách; Tổng số chi ngân sách địa phương
và theo cơ cấu chi đầu tư phát triển , chi trả nợ ,chi thường xuyên , chi dự phòng.
9




Quyết định phân bố ngân sách cấp mình với các chỉ tiêu: Tổng số chi và

theo từng lĩnh vực chi;Dự toanschi ngân sách từng cơ quan,đơn vị trực thuộc theo
từng lĩnh vực chi;Mức bổ sung cho ngân sách cấp dưới gồm:Bổ sung cân đối cho
ngân sách ,bổ sung có mục tiêu.


Phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương.Với quy định này HĐND

các cấp có thể chủ động và độc lập hơn trong việc quyết định , quản lí và điều hành
ngân sách cấp mình cũng như phân bố ngân sách cho cấp dưới mà không chịu sự
quyết định của quốc hội và nhiệm vụ thu chi mà chính phủ giao trước đây.
Ngoài ra cần phải quy định thêm quyền hạn cho HĐND cấp tỉnh như: Quyết định
nguồn thu,nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương; Cho phép HĐND tỉnh
có quyền quyết định ban hành một số khoản thu khác ngoài 3 nguồn thu từ :phí ,lệ
phí ,phụ thu và được phép quy định một số khoản chi cần thiết cho địa phương ngoài
những nhiệm vụ thu,chi chính quyền trung ương quyết định nhưng phải trong khuôn
khổ pháp luật.
2. Nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND các cấp đối với ngân sách nhà nước.
Cần khẳng định việc đào tạo, tập huấn cho đại biểu HĐND là yêu cầu cấp thiết. Với
tính chất đa dạng của đại biểu HĐND về cả trình độ học vấn và cơ cấu thành phần,
các khóa tập huấn cần được thiết kế đặc thù cho phù hợp. Những khóa học này

không nên quá chú trọng đến các khía cạnh kỹ thuật mà chỉ nên hướng vào các nội
dung mang tính chiến lược, chủ trương, đường lối…nhưng cần giúp các đại biểu
hiểu rõ mối quan hệ logic giữa những nội dung đó với việc xác định các chỉ tiêu kế
hoạch, phân bổ ngân sách và giải pháp thực hiện kế hoạch. Đại biểu cũng cần được
tập huấn để nắm được kết cấu, nội dung bản kế hoạch, ngân sách đặc biệt là các chỉ
tiêu giám sát đánh giá vì những chỉ tiêu này sẽ là cơ sở giúp HĐND thực hiện chức
năng giám sát của mình. Về phân bổ ngân sách, đại biểu cần nắm được căn cứ phân
bổ ngân sách, sự phù hợp giữa dự toán ngân sách và các phương án phân bổ ngân
sách với việc thực hiện các mục tiêu ưu tiên chiến lược của kế hoạch. Về quyết toán
ngân sách, đại biểu cần thay đổi cách quan tâm đến tài liệu này, không quá chú trọng
đến các con số chi tiết mà hướng việc chất vấn, giám sát của mình vào hiệu quả và
10


hiệu lực sử dụng các nguồn lực ngân sách đã phân bổ và việc đạt được các chỉ tiêu
kế hoạch như đã cam kết. Làm được những công việc đó, không những vai trò và
chất lượng giám sát của đại biểu HĐND được nâng cao, mà sẽ tạo áp lực buộc các
cơ quan công quyền phải quan tâm, chú trọng cải tiến chất lượng kế hoạch, làm bản
kế hoạch có tính khả thi hơn, đồng thời tăng cường được tính minh bạch, trách
nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc phân bổ và sử dụng ngân
sách. Do đối tượng đại biểu HĐND chỉ hoạt động theo nhiệm kì nên tính chất biến
động về nhân sự của HĐND qua các khóa là rất lớn. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng
các đại biểu này cho dù ở nhiệm kì kế tiếp không tiếp tục làm việc trong HĐND nữa,
nhưng họ vẫn nắm giữ những vai trò quan trọng trong cơ quan nhà nước hoặc các tổ
chức chính trị, đoàn thể. Do vậy, những kiến thức, kỹ năng mà các khóa tập huấn
này trang bị vẫn góp phần nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ công quyền và các
tổ chức xã hội dân sự, và lâu dài, sẽ có tác động lan tỏa để nâng cao vai trò giám sát,
phản biện của các tổ chức xã hội, đoàn thể. Do vậy, một mặt, không nên lo ngại rằng
sự biến động mạnh về nhân sự trong HĐND sau mỗi nhiệm kỳ ảnh hưởng tới tính
bền vững của các hoạt động hỗ trợ đào tạo. Mặt khác, để tăng cường tính bền vững

đó thì cần chú trọng tập huấn cho đối tượng là đại biểu các ban chuyên trách của
HĐND, vì những người này đóng vai trò rất lớn trong việc thẩm tra các báo cáo của
UBND và chuẩn bị nội dung, tham mưu ý kiến cho thường trực và đại biểu HĐND
trong các kỳ họp. Để tăng cường tác dụng của tập huấn cho HĐND, cần coi công tác
tập huấn về KH&NS là các lớp tập huấn bắt buộc đối với các đại biểu ngay khi
HĐND được kiện toàn lại sau mỗi kì bầu cử. Thời gian các khóa học được lồng ghép
chính thức vào chương trình hoạt động hàng năm của HĐND để đảm bảo HĐND có
thể chủ động cử người tham gia. Đồng thời, khi triển khai đổi mới KH&NS theo
hướng phát huy sự tham gia thì một số những đại biểu then chốt của HĐND (như
thường trực HĐND, đại biểu các ban chuyên trách…) phải được tham gia ngay từ
đầu vào quá trình đó, từ khi phân tích thực trạng, xác định mục tiêu và lực chọn mục
tiêu ưu tiên. Cách làm như vậy vẫn phát huy được điểm mạnh trong hoạt động của
HĐND hiện nay là tạo sự đồng thuận giữa HĐND và UBND từ sớm, mặt khác giúp
11


các đại biểu hiểu rõ qui trình lập KH&NS, từ đó giám sát quá trình thực hiện sẽ hiệu
quả hơn. Cần tăng cường thêm các luồng thông tin độc lập giúp HĐND giám sát
được một cách khách quan và thực chất. Hiện nay, nguồn thông tin chính thức của
HĐND chủ yếu dực vào các cơ quan công quyền. Ngoài ra,các thông tin khác chỉ có
được qua các đợt khảo sát nghiên cứu, giám sát, tiếp xúc cử tri, và chất vấn tại kỳ
họp. Trong tương lai, mối quan hệ giữa HĐND và các tổ chức xã hội, đoàn thể cần
đựơc tăng cường để các tổ chức này có thể trở thành tai mắt giúp HĐND lắng nghe ý
kiến phản ánh từ nhiều góc độ khác nhau. Gần đây, giữa các cơ quan dân cử và Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đã có những ký kết để phối hợp hoạt động giám sát. Đây là
một sáng kiến tích cực cần nhanh chóng triển khai, và nhân rộng sự hợp tác tương tự
sang các tổ chức đoàn thể khác. Ngoài ra, các đối tượng khác như KTNN, các cơ
quan ngôn luận cũng là những lực lượng tích cực có thể hỗ trợ rất nhiều cho HĐND
trong việc thu thập thông tin và tăng cường giám sát.
Cuối cùng, HĐND cần chủ động trong việc xây dựng các kênh thu thập, lưu giữ và

trao đổi thông tin của mình và xây dựng những thiết chế để đảm bảo sự vận hành của
các kênh thông tin đó. Ví dụ, có thể phối hợp với UBND ban hành quy chế trao đổi,
cung cấp thông tin thường xuyên giữa hai bên. Đồng thời, cũng xác định rõ HĐND
cấp trên sẽ cung cấp những tài liệu gì cho HĐND cấp dưới và theo những kênh cụ
thể nào. Cách làm này sẽ giúp HĐND có được thông tin một cách chủ động hơn, chứ
không phụ thuộc quá nhiều vào việc “cung cấp thông tin theo yêu cầu” của các cơ
quan công quyền như hiện nay. Cung cấp đầy đủ các văn bản pháp qui cho HĐND
các cấp nhất là cấp xã, huyện
C. KẾT LUẬN.
Có thể thấy rằng HDND các cấp có những quyền hạn quan trọng trong lĩnh
vực ngân sách nhà nước, tuy nhiên vì một số lí do mà hoạt động thực hiện các quyền
hạn đó còn gặp phải những khó khăn nhất định. Trong thời gian tới chúng ta cần có
những giải pháp cụ thể để việc thực thi quyền hạn của HDND trong lĩnh vực ngân
sách nhà nước có hiệu quả hơn.
12



×