Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

so sánh pháp luật cộng đồng ASEAN với Công pháp quốc tế và Luật liện minh châu âu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.35 KB, 15 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
ASEAN và Liên minh châu âu( EU) là hai tổ chức liên chính phủ thành công nhất
trên thế giới. Để hiểu rõ về hai tổ chức này, thì điều quan trọng là phải hiểu rõ được
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các kĩnh vực khác nhau của hai
tổ chức này. Đều là tổ chức quốc tế - chủ thể của luật quốc tế, liệu pháp luật của hai tổ
chức này có giống nhau không, và có hoàn toàn giống với công pháp quốc tế không?
Để tra lời câu hỏi này nhóm chúng tôi lựa chọn làm rõ đề tài “so sánh pháp luật cộng
đồng ASEAN với Công pháp quốc tế và Luật liện minh châu âu”.
B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung
1. Khái quát chung về pháp luật cộng đồng ASEAN.
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN do năm quốc gia thành viên sáng
lập trên cơ sở tuyên bố Bangkok (1967). Tới nay ASEAN đã có 10 quốc gia thành viên.
Tại hội nghị cấp cao lần thứ 9 năm 2003 đã thông qua Tuyên bố hòa hợp ASEAN chính
thức thành lập cộng đồng ASEAN. Việc thàh lập cộng đồng ASEAN có ý nghĩa quan
trọng, đánh dấu bước trưởng thành và phát triển của ASEAN. Hoạt động của ASEAN
được điều chỉnh bởi hệ thống phát luật của cộng đồng ASEAN.
Pháp luật cộng đồng ASEAN được hiểu là là tổng thể các nguyên tắc và quy
phạm pháp luật, do ASEAN xây dựng và ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ trong
khuôn khổ Cộng đồng ASEAN, phát sinh trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị – an ninh
và văn hóa – xã hội (1).
Như vậy, phạm vi điều chỉnh của pháp luật cộng đồng ASEAN là quan hệ các
giữa các quốc gia trọng cộng đồng ASEAN phát sinh trong tất cả các lĩnh vực bao gồm
kinh tế, chính trị, an ninh và văn hóa xã hội, do vậy, pháp luật Cộng đồng ASEAN
cũng được phân chia thành ba lĩnh vực chính: Luật Cộng đồng chính tri an ninh, Luật
cộng đồng kinh tế và luật Cộng đồng văn hóa – xã hội ASEAN.
2. Khái quát về công pháp quốc tế.
Công pháp quốc tế là hệ thống các nguyên tắc, quy phạm pháp luật được quốc
gia và các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên trên cơ sở tự nguyện
và bình đẳng, nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể
đó trong mội lĩnh vự của đời sống quốc tế (2).


Đối tượng điều chỉnh của công pháp quốc tế là các quan hệ phát sinh trong sinh
hoạt quốc tế giữa các chủ thể của Luật Quốc tế. Nội dung các quan hệ pháp luật quốc tế
1


rất đa dạng, từ quan hệ hợp tác chính trị, kinh tế, đến quan hệ hợp tác văn hóa, khoa
học kỹ thuật… phát sinh giữa các chủ thể của luật quốc tế. Chủ thể của công pháp quốc
tế bao gồm các quốc gia có chủ quyền, các tổ chức quốc tế liên chính phủ, các dân tộc
đang đấu tranh dành quyền tự quyết và các chủ thể đặc biệt khác.
3. Pháp luật Liên minh Châu Âu.
Liên minh châu Âu EU được hình thành trên cơ sở các tổ chức tiền thân là cộng
đồng than thép châu âu năm 1951, cộng đồng nguyên tử châu Âu năm 1957 và Cộng
đồng Kinh tế châu Âu năm 1958. Năm 1965 ba tổ chứa trên được hợp nhất thành cộng
đồng Châu Âu EC. Ngày 01/11/1993 Hiệp ước Maastricht chính thức có hiệu lực, thành
lập nên Liên minh Châu Âu EU. Trải qua quá trình phát triển hiện nay EU có 27 thành
viên, đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an
ninh và văn hóa, khoa học,… trở thành tổ chức quốc tế thành công nhất trên thế giới.
Quan hệ giữa các quốc gia thành viên của EU được điều chỉnh bởi hệ thống pháp
luật của Liên minh Châu Âu. Có thể hiểu pháp luật Liên minh Châu Âu là tổng thể các
nguyên tắc và quy phạm pháp luật, do EU xây dựng và ban hành nhằm điều chỉnh các
quan hệ trong khuôn khổ Liên minh Châu Âu, phát sinh trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính
trị – an ninh và văn hóa – xã hội.
Như vậy, cơ sở pháp lý hình thành Liên minh châu Âu là các hiệp ước được kí
kết và phê chuẩn bởi các quốc gia thành viên. Các hiệp ước đầu tiên đánh giá sự thành
lập cộng đồng Châu âu và liên minh châu Âu. Các hiệp ước kế tiếp chỉnh sửa và bổ
sung các hiệp ước đầu tiên ngày càng đầy đủ và hoàn thiện hơn. (3). Đó chính là các hiệp
ước tạo ra thể chế chính trị của Liên minh châu Âu cũng như cung như cung cấp cho
các thể chế chính trị đó thẩm quyền thực hiện các mục tiêu và chính sách đã đặt ra
trong các hiệp ước. Những thẩm quyền này bao gồm thẩm quyền lập pháp ảnh hưởng
trực tiệp đến các thành viên Liên minh châu âu và công dân các quốc gia thành viên

đó(4).
II. So sánh Pháp luật cộng đồng ASEAN với Công pháp quốc tế.
1. Điểm giống nhau giữa pháp luật cộng đồng ASEAN và Công pháp quốc tế.
Là tổ chức quốc tế liên chính phủ - chủ thể của pháp luật quốc tế nên pháp luật
cộng đồng ASEAN và công pháp quốc tế có rất nhiều điểm giống nhau, thể hiện ở
những khía cạnh sau:
Thứ nhất: Về nguồn luật.
2


Nguồn luật là những hình thức biểu hiện sự tồn tại hay chứa đựng các nguyên
tắc, quy phạm pháp luật. Cũng như công pháp quốc tế, pháp luật cộng đồng ASEAN
cũng có hai loại nguồn cơ bản là nguồn cơ bản và nguồn bổ trợ hay nguồn phái sinh.
Nguồn luật cơ bản chính là các điều ước quốc tế. Điều ước quốc tế được hiểu là thỏa
thuận quốc tế được kí kết bằng văn bản giữa các quốc gia và các chủ thể của luật quốc
tế và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào thỏa thuận đó được ghi chép
trong một văn kiện duy nhất hay hai hoặc nhiều văn kiện có quan hệ với nhau, cũng
như không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của những văn kiện đó”

(5)

. Các điều ước quốc

tế là nguồn của công pháp quốc tế cũng như của ASEAN được thể hiện ở những tên
gọi như hiến chương, hiệp ước, nghị định thư, tuyên bố,…. Nguồn cơ bản có giá trị
pháp lí bắt buộc đối với các thành viên kí kết hoặc tham gia điều ước.
Ngược lại nguồn bổ trợ của công pháp quốc tế cũng như của pháp luật cộng
đồng ASEAN chỉ có tính chất tham khảo, không có giá trị pháp lí bắt buộc đối với các
chủ thể.
Thứ hai: Về bản chất pháp luật

Cộng đồng ASEAN là liên kết giữa các quốc gia – chủ thể của luật quốc tế trên
cơ sở một hệ thống pháp lí và thể chế pháp lí, do đó mà pháp luật của cộng đồng
ASEAN cũng mang đầy đủ bản chất của pháp luật quốc tế. Đó là ý chí và sự thỏa thuận
của các quốc gia. Khi tham gia vào quan hệ quốc tế các quốc gia bình đẳng với nhau về
quyền và nghĩa vụ. Các thành viên thỏa thuận bằng ý chí của mình xây dựng nên hệ
thống pháp luật chung để điều chỉnh quan hệ giữa các thành viên với nhau. Bản chất
này thể hiện đặc thù của pháp luật quốc tế, giúp phân biệt với pháp luật quốc gia (mang
bản chất nhà nước và bản chất xã hội)
Thứ ba: Về cơ chế xây dựng pháp luật
Quan hệ do pháp luật cộng đồng ASEAN và Công pháp quốc tế điều chỉnh chủ yếu
là quan hệ các quốc gia có độc lập chủ quyền. Các quốc gia có địa vị hoàn toàn bình
đẳng khi tham gia quan hệ. Quy phạm quốc tế được hình thành hoàn toàn dựa trên sự
thỏa thuận giữa các quốc gia và các chủ thể khác. Các quốc gia tham gia bàn bạc, thảo
luận, … và cùng bỏ phiếu tán thành. Như vậy cơ chế xây dựng pháp luật của pháp luật
cộng đồng ASEAN và công pháp quốc tế đều trên cơ sở sự thỏa thuận, tự nguyện của
các chủ thể. Cơ chế xây dựng này đảm bảo cho các quốc gia được bình đẳng với nhau
trong việc quyết định các vấn đề. Từ đó tạo sự tự nguyện tuân thủ pháp luật quốc tế.
Thứ tư: Về cơ chế thực thi và tuân thủ pháp luật
3


Các quốc gia là các chủ thể tham gia vào quá trình xây dựng các quy phạm pháp
luật quốc tế cho nên các chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện chúng vì lợi ích của
chính chủ thể trong mối tương quan với chủ thể khác và lợi ích của cộng đồng quốc tế.
Pháp luật cộng đồng ASEAN và Công pháp quốc tế có chung cơ chế thực thi thông qua
hoạt động của các quốc gia thành viên và các thiết chế khác. Các quốc gia thực thi pháp
luật bằng cách nội luật hóa, ban hành các văn bản quy phạm trong nước phù hợp với
các Điều ước quốc tế. Chức năng giám sát thực thi chủ yếu là do chính các chủ thể thực
hiện. Cơ chế giải quyết tranh chấp thì pháp luật cộng đồng ASEAN và Công pháp quốc
tế đều xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp trên cơ sở thỏa thuận của các chủ thể và

quy định cụ thể trong các Điều ước quốc tế.
2. Điểm khác nhau giữa pháp luật Cộng đồng ASEAN với Cồng pháp quốc tế.
Thứ nhất: Nguồn luật
Nguồn luật của Công pháp quốc tế đa dạng hơn pháp luật công đồng ASEAN. Công
pháp quốc còn có nguồn cơ bản là tập quán quốc tế, còn pháp luật cộng đồng ASEAN
không có nguồn tập quán, bởi các quốc gia trong khu vực có các tập quán, điều kiện
khác nhau do đó rất khó để tất cả các quốc gia đồng y sử dụng một tập quán nào là
pháp luật có giá trị sử dụng bắt buộc. Ngoài ra, các nguồn bổ trợ của công pháp quốc tế
đa dạng hơn pháp luật cộng đồng ASEAN. Ngoài một số nguồn như khuyến nghị,
thông cáo báo chí,… thì công pháp quốc tế còn có một số nguồn bổ trợ như phán quyết
của tòa án, hành vi pháp lí đơn phương của quốc gia, các học thuyết pháp lí, nguyên tắc
pháp luật chung,… Đây chính là sự khác biệt cơ bản giữa nguồn luật của pháp luật
cộng đồng ASEAN so với công pháp quốc tế. Điều này cũng dễ hiểu bởi ASEAN chỉ là
một chủ thể của luật quốc tế, còn công pháp quốc tế điều chỉnh quan hệ pháp luật phát
sinh giữa tất cả các chủ thể, phạm vi điều chỉnh của pháp luật rộng hơn và phức tạp
hơn.
Thứ hai: cơ chế xây dựng pháp luật
Luật quốc tế được các chủ thể xây dựng nên bằng hai phương pháp: Thỏa thuận
rõ ràng minh bạch thông qua việc kí kết Điều ước quốc tế hoặc thỏa thuận ngầm định
qua việc các chủ thể thừa nhận những quy tắc xử sự chung hình thành thực tiễn sinh
hoạt quốc tế là những quy phạm quốc tế có tính bắt buộc chung.
Pháp luật cộng đồng ASEAN: Các quốc gia thành viên ASEAN xây dựng pháp
luật trên cơ sở cơ chế tham vấn đồng thuận. Để ban hành ra pháp luật các quốc gia phải
thảo luận, tham khảo kiến của nhau, sau đó mới đi đến quyết định. Các quyết định và
4


các văn bản pháp lí của ASEAN chỉ được ban hành trên cơ sở đồng ý của tất cả các
quốc gia thành viên.
Thứ ba: Về cơ chế thực thi và tuân thủ pháp luật.

Cơ chế thực thi và tuân thủ pháp luật của công pháp quốc tế có khá nhiều điểm
giống nhau, tuy nhiên vẫn có một số điểm khác biệt, thể hiện như sau:
Công pháp quốc tế có phạm vi điều chỉnh cũng như đối tượng điều chỉnh rất rộng,
và phức tạp, do đó không có một cơ chế thực thi cũng như bộ máy cưỡng chế chung để
đảm bảo thi hành. Trong trường hợp có hành vi vi phạm Luật quốc tế, việc áp dụng
những biện pháp cưỡng chế sẽ do chính các chủ thể thực hiện dưới hình thức cưỡng chế
riêng lẻ hoặc cưỡng chế tập thể. Theo quy định của pháp luật quốc tế, chủ thể bị vi
phạm có quyền áp dụng một số biện pháp cưỡng chế nhất định như trừng phạt về kinh
tế, áp dụng biện pháp ngoại giao, cấm vận…đối với chủ thể xâm hại đến quyền và lợi
ích hợp pháp của họ. Ngoài ra Luật quốc tế còn có biện pháp đảm bảo thi hành là dư
luận tiến bộ trên thế giới và đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình.
Đối với pháp luật cộng đồng ASEAN, Ngoài việc các quốc gia trong cộng đồng
ASEAN thực thi pháp luật thông qua hình thức nội luật hóa và có cơ chế đảm bảo pháp
luật trong nước, Pháp luật ASEAN còn được thực thi thông qua các thiết chế cộng
đồng. Thực thi pháp luật của các thiết chế cộng đồng được thực hiện thông qua hoạt
động chức năng theo nhiệm vụ của các thiết chế trong cộng đồng, cụ thể: Hội nghị cấp
cao ASEAN thực thi các biện pháp thích hợp để xử lí các thình huống khẩn cấp tác
động đến ASEAN; hội đồng điều phối thực thi các hoạt động được nêu trong Hiến
chương hoặc những hoạt động khác do Hội nghị cấp cao chỉ thị; các hội đồng cộng
đồng đảm bảo việc triển khai các quyết định của Hội nghị cấp cao; các cơ quann
chuyên ngành cấp bộ trưởng thực hiện các thỏa thuận và quyết định của Hội nghị cấp
cao; Ủy ban thường trực ASEAN thực thi các nhiệm vụ do Hội đồng điều phối quyết
định(6). Chức năng giám sát thực thi pháp luật của cộng đồng ASEAN được quy định
cho tất cả các thiết chế của cộng đồng, từ Hội nghị cấp cao đến ban thư kí ASEAN.
Tuy nhiên với đặc thù của truyền thống Đông Nam Á và “ phương thức ASEAN”, cơ
chế giải quyết tranh chấp của ASEAN hầu như chưa được áp dụng trên thực tế, các
tranh chấp xảy ra chủ yếu giải quyết bằng con đường thương lượng và hòa giải.
Như vậy, xét về tổng quát thì pháp luật cộng đồng ASEAN và công pháp quốc tế
có rất nhiều điểm giống nhau, từ nguồn luật, bản chất, đến cơ chế xây dựng và thực thi
5



pháp luật. Tuy nhiên, nếu xét chi tiết thì vẫn có một số điểm khác nhau, do Công pháp
quốc tế có phạm vi cũng như đối tượng điều chỉnh rộng hơn, phức tạp hơn rất nhiều.
III. So sánh pháp luật cộng đồng ASEAN với Luật Liên minh châu Âu (EU).
1. Điểm giống nhau giữa pháp luật Cộng đồng ASEAN với Luật EU.
Về mặt bản chất, ASEAN và Liên minh châu Âu đều là tổ chức quốc tế liên
chính phủ - chủ thể của Luật Quốc tế, do đó pháp luật của hai tổ chức này cũng có
nhiều điểm giống nhau, đó chính là những điểm chung của pháp luật quốc tế. Điểm
giống nhau giữa pháp luật cộng đồng ASEAN và pháp luật EU thể hiện ở những điểm
sau:
Thứ nhất: Về nguồn luật.
Cũng như Công pháp quốc tế, pháp luật ASEAN và pháp luật EU đều có hai loại
nguồn chủ yếu đó là nguồn luật cơ bản và nguồn bổ trợ. Nguồn cơ bản chính là các
điều ước quốc tế thành lập cũng như điều chỉnh các quan hệ pháp luật phát sinh trong
các lĩnh vực khác nhau của hai tổ chức này, thể hiện dưới dạng các tên gọi khác nhau
như Hiến chương, Hiệp ước, nghị định, tuyên bố, hiệp định,… Các điều ước quốc tế
này đều chứa đựng các quy phạm pháp luật có giá trị bắt buộc chung đối với tất cả các
thành viên của hai tổ chức quốc tế này.
Ngoài ra, giữa pháp luật cộng đồng ASEAN và Pháp luật EU có điểm giống
nhau về nguồn luật bổ trợ đó là đều có các loại nguồn như quy chế, khuyến nghị,…
Tuy nhiên vị trí của loại nguồn này trong hai hệ thống pháp luật này không giống nhau.
Thứ hai, về bản chất.
Do đều là các tổ chức quốc tế - chủ thể của pháp luật quốc tế do đó pháp luật
ASEAN và EU có một số điểm giống nhau về bản chất như công pháp quốc tế. Thể
hiện ở điểm cả pháp luật của ASEAN và EU đều có bản chất là ý chí và thỏa thuận.
Bản chất ý chí thể hiện ở việc, các quốc gia tham gia vào quá trình xây dựng nên các
quy phạm pháp luật, và các nguyên tắc, các quy phạm được ban hành đều thể hiện ý chí
của các quốc gia thành viên. Các quốc gia gia nhập sau, chấp nhận kí vào các văn bản
gia nhâp, tức là các quốc gia này chấp nhận các quy định của tổ chức, có chung ý chí

với các quốc gia thành viên. Việc các quốc gia tham gia xây dựng cũng như tự nguyện
chịu sự điều chỉnh của pháp luật đều trên cơ sở sự tự nguyện về ý chí. Ngoài có cùng
bản chất ý chí, pháp luật ASEAN và EU cũng mạng bản chất thỏa thuận. Nghĩa là việc
xây dựng nên các quy phạm pháp luật chung là trên cơ sở thỏa thuận, thương lượng,
đàm phán giữa các quốc gia. Như vậy, có thể thấy cả pháp luật của cộng đồng ASEAN
6


và EU đều có chung bản chất là thỏa thuận và ý chí. Tuy nhiên thì mức độ, cũng như
cách thể hiện ý chí, cách thức tiến hành thỏa thuận của hai tổ chức này là khác nhau.
Thứ ba, về cơ chế xây dựng pháp luật.
Cách thức xây dựng pháp luật của cộng đồng ASEAN và Liên minh châu Âu có
khá nhiều điểm khác biệt nhau, tuy nhiên vẫn có một số điểm chung, bởi đầy đều là các
tổ chức quốc tế. Thể hiện ở việc xây dựng các điều ước quốc tế như hiệp ước, nghị
định, tuyên bố,… Để ban hành các văn bản này, phải có sự tham gia bàn bạc, trao đổi,
tranh luận… và cuối cùng các quốc gia sẽ phải bỏ phiếu thông qua.
Thứ tư, về cơ chế thi hành và tuân thủ pháp luật.
Pháp Luật của ASEAN và EU đều tiến hành các biện pháp nhằm đưa các quy
định của pháp luật vào thực tế để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trên mọi linh vực,
đồng thời có các biện pháp đảm bảo cho pháp luật được thực hiện. Cả hai đều có các
thiết chế đảm bảo thực hiện, nhưng cách thức tiến hành và hiệu quả thực tế lại khác
nhau.
Như vậy, Có thể thấy, do đều là các tổ chức quốc tế Liên chính phủ - là chủ thể
của pháp luật chung của luật quốc tế, do đó pháp luật cộng đồng ASEAN và pháp luật
liên minh Châu Âu có một số điểm tương đồng nhau, những điểm tương đồng này cũng
chính là những điểm chung của pháp luật quốc tế.
2. Điểm khác biệt giữa pháp luật cộng đồng ASEAN và Luật EU.
Là hai tổ chức quốc tế, nhưng ASEAN và EU được thành lập dựa trên những cơ
sở khác nhau. Hai tổ chức này cũng có rất nhiều điểm khác nhau về đặc điểm kinh tế,
văn hóa – xã hội, an ninh – chính trị. Chính vì vậy mà cơ cấu tổ chức cũng như cấp độ

liên kết của hai tổ chức này là khác nhau. Bởi những khác biệt trên mà pháp luật của
hai tổ chức này có rất nhiều điểm khác nhau, thể hiện ở nguồn luật, bản chất pháp luật,
việc xây dựng pháp luật cũng như thi hàng và các biện pháp đảm bảo thi hành pháp
luật.
* Sự khác nhau về nguồn luật:
Tuy đều có hai loại nguồn luật là nguồn cơ bản và nguồn bổ trợ, nhưng vị trí, vai
trò của nguồn bổ trợ là khác nhau.
Đối với pháp luật ASEAN, nguồn bổ trợ (nguồn phái sinh) bao gồm khuyến nghị
của các nhóm đặc trách cấp cao, thông cáo báo chí của các thiết chế cộng đồng,… các
văn bản này chỉ mang tính chất tham khảo, không có giá trị bắt buộc chung đối với các
quốc gia thành viên.
7


Luật của liên minh châu âu lại hoàn toàn khác. Nguồn luật bổ trợ (phái sinh) của
EU bao gồm quy định, quyết định, chỉ thị, phán quyết của tòa án. Mặc dù là nguồn phái
sinh nhưng chúng lại có giá trị bắt buộc, các chủ thể liên quan phải thi hành. Giá trị của
các văn bản pháp luật này cao hơn luật của các quốc gia, do đó khi có xung đột xảy ra
thì luật của liên minh sẽ được ưu tiên áp dụng.
Ngoài điểm khác biệt trên, có thể thấy nguồn luật của liên minh châu âu có phần
đa dạng hơn. Thể hiện ở chỗ nguồn luật của liên minh châu âu có án lệ (phán quyết của
tòa án) có giá trị bắt buộc thi hành chung, còn pháp luật của ASEAN không có loại
nguồn này. Một số phán quyết của tòa án cộng đồng châu âu đã trở thành quy phạm
pháp luât có giá trị bắt buộc như: Quy định giá trị pháp lý của pháp luật châu âu châu
âu cao hơn nội luật được thừa nhận trong một phán quyết nổi tiếng là phán quyết
VanGendenloos (1963) và Costa cl ENEL (1964). Hay quy định đối với tòa án cộng
đồng châu âu, pháp luật cộng đồng châu âu có giá trị pháp lý cao hơn toàn bộ pháp luật
của các nước thành viên, kể cả các quy phạm pháp luật hiến định được lấy từ phán
quyết Hondelsgensellchaft quốc tế năm 1970 (7).
* Sự khác biệt về bản chất pháp luật.

Tuy đều mang bản chất ý chí và thỏa thuận, nhưng cách thể hiện ý chí, thỏa
thuận không giống nhau, do đó bản chất của pháp luật cộng đồng ASEAN và EU có
nhiều điểm khác nhau.
Pháp luật ASEAN: quá trình xây dựng pháp luật có sự tham gia của tất cả các
quốc gia thành viên, ý chí của các quốc gia được thể hiện một cách trực tiếp thông qua
việc tham gia vào quá trình thảo luận, bàn bạc, đàm phán, thỏa thuận với nhau,… một
cách trực tiếp.
Còn với pháp luật liên minh châu Âu: khi ban hành các văn bản pháp luật như
quy định, quyết định hay các sắc lệnh – là những văn bản có giá trị bắt buộc, các quốc
gia thành viên của EU không trực tiếp tham gia vào quá trình bàn bạc, thương lượng,
thỏa thuận, không trực tiếp thể hiện ý chí của mình. Các quốc gia thể hiện ý chí thống
qua việc chấp nhận trao quyền cho một số cơ quan nằm trong hệ thống thiết chế chính
trị của châu âu. Các cơ quan này bao gồm nghị Viện châu âu và hội đồng bộ trưởng, là
các cơ quan nắm quyền lập pháp. Trên cơ sở đề nghị của hội đồng châu âu, các cơ quan
này sẽ phối hợp để ban hành nên pháp luật. Hiện nay, phần lớn các văn bản pháp luật
điều chỉnh các quan hệ trong các lĩnh vực thuộc Liên minh Châu Âu đề do cơ quan lập
pháp ban hành(8). Như vậy, có thể thấy luật Liên minh châu Âu không hoàn toàn trực
8


tiếp thể hiện ý chí, thỏa thuận giữa các quốc gia thành viên, mà nhiều quy phạm pháp
luật được ban hành là sự thể hiện ý chí trực tiếp của cơ quan lập pháp của liên minh
châu âu.
Từ phân tích trên, có thể thấy, pháp luật của liên minh châu âu vừa mang bản
chất của pháp luật quốc tế, nhưng cũng có nhiều điểm thể hiện bản chất của pháp luật
quốc gia, do nó được xây dựng bởi các cơ quan lập pháp – giống như hệ thống cơ quan
lập pháp của quốc gia.
* Sự khác biệt trong cơ chế xây dựng pháp luật:
Pháp luật cộng đồng ASEAN do các nước thành viên của cộng đồng ban hành.
Theo quy định của điều 20 Hiến chương ASEAN, cơ chế ban hành và ra quyết định của

Cộng đồng ASEAN dựa trên cơ chế tham vấn và đồng thuận. Theo đó các quyết định
và văn bản pháp lý của ASEAN chỉ được ban hành trên cơ sở sự đồng thuận của tất cả
các quốc gia thành viên. Để ban hành ra pháp luật, các nước thành viên phải tham gia
bàn bạc, đóng góp ý kiến, tham khảo lẫn nhau… để có thể đưa ra quyết định cuối cùng,
quyết định này phải được sự đồng ý của tất cả các quốc gia thành viên.
Cơ chế này hoàn toàn khác so với cơ chế ra quyết định và ban hành pháp luật của
Liên Minh Châu Âu. Pháp luật Liên Minh châu Âu chủ yếu được ban hành theo nguyên
tắc đa số phiếu kép. Theo đó, quyết định được thông qua khi đa số các thành viên bỏ
phiếu thuận và số phiếu thuận đảm bảo đại diện cho đa số dân số của Liên minh.
Cơ chế ban hành pháp luật của ASEAN có ưu điểm là đảm bảo quyền bình đẳng
của các quốc gia trong khu vực, đảm bảo cho tất cả các quốc gia có thể bình đẳng với
nhau trong việc quyết định các vấn đề chung của cộng đồng, giúp ASEAN có thể tồn
tại và phát triển theo định hướng “thống nhất trong đa dạng”. Tuy nhiên việc ban hành
pháp luật trên cơ sở “đồng thuận” có một số điểm hạn chế, đó là quá trình thương
lượng để có sự đồng thuận của tất cả các quốc gia thành viên thường kéo dài rất lâu,
thậm chí nhiều quyết định hoặc văn bản pháp luật không được thông qua khi tất cả các
quốc gia đồng ý nhưng chỉ một quốc gia không đồng ý, điều này có thể làm ảnh hưởng
đến lợi ích của các quốc gia khác. Cơ chế ban hành pháp luật của Liên minh châu âu đã
khắc phục được hạn chế này. Việc ban hành pháp luật trên cơ sở nguyên tắc đa số phiếu
kép đã giúp cho các thỏa thuận, quyết định, hay văn bản pháp luật được thông qua
nhanh chóng.
Ngoài ra, Cơ chế ban hành pháp luật cộng đồng ASEAN và Luật của Liên minh
châu âu còn có sự khác biệt ở cơ quan có thẩm quyền ban hành. Pháp luật cộng đồng
9


ASEAN không do một cơ quan cụ thể nào xây xựng, mà do tất cả các quốc gia thành
viên trực tiếp thảo luận và thông qua. Còn luật liên minh châu Âu được ban hành bởi
các cơ quan có quyền lập pháp trong hệ thống thiết chế của EU. Ủy ban châu Âu là cơ
quan đề xuất các sáng kiến xây dựng pháp luật, trên cơ sở sáng kiến của Ủy ban châu

âu, Nghị viện châu Âu sẽ cùng với hội đồng châu Âu tham vấn, thảo luận và thông qua.
Việc ban hành luật của Liên minh châu Âu tuân thủ Hiến pháp châu Âu và Hiệp định
Lisbon.
* Điểm khác nhau về cơ chế thực thi và tuân thủ pháp luật.
- Thứ nhất là sự khác nhau về cơ chế thực thi pháp luật: Pháp luật cộng đồng
ASEAN được thực hiện thông qua hoạt động của các quốc gia thành viên và các thiết
chế cộng đồng. Thực thi pháp luật cộng đồng ASEAN của các quốc gia được thực hiện
thông qua các hoạt động pháp lí của các quốc gia thành viên theo cơ chế chung hoặc cơ
chế riêng tùy từng lĩnh vực cụ thể. Trên cơ sở quy định của pháp luật ASEAN, các
quốc gia thành viên sẽ xây dựng cho mình cơ chế quốc gia để thực hiện quy định của
pháp luật cộng đồng. Như vậy, pháp luật cộng đồng ASEAN không được trực tiếp áp
dụng đối với các quốc gia, mà được nối luật hóa, các quốc gia ban hành và thực hiện
các quy định của pháp luật quốc gia trên cơ sở pháp luật cộng đông ASEAN.
Khác với pháp luật cộng đồng ASEAN, Luật Liên minh châu âu không cần phải
nội luật hóa mà có thể áp dụng trực tiếp đối với các quốc gia thành viên. Tính hiệu lực
áp dụng ngay, tính hiệu lực trực tiếp và tính giá trị pháp lý cao hơn luật quốc gia là
những đặc tính của Luật Liên minh châu Âu. Nghĩa là sau khi có hiệu lực, luật Liên
minh châu Âu được tự động đưa vào trật tự pháp luật quốc gia thành viên mà không
cần thông qua một quy phạm pháp luật quốc gia nhằm chuyển hóa vào nội luật. Chẳng
hạn, Quy chế do Nghị viện châu Âu ban hành được tự động bổ sung vào pháp luật hiện
hành của các quốc gia thành viên vào thời điểm quy chế này có hiệu lực mà không cần
bất kì một biện pháp can thiệp pháp lý nào của các quốc gia thành viên (9). Trong một số
điều kiện nhất định, pháp luật của liên minh châu âu có thể trực tiếp làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ cho các cá nhân công dân nước thành viên, và các cá nhân đó có thể
trực tiếp viện dẫn trước tòa án của mình. Chẳng hạn như phán quyết của tòa án liên
minh Châu Âu đối với một cá nhân hay pháp nhân sẽ có hiệu lực áp dụng ngay, làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ của họ, và cá nhân hoặc pháp nhân đó có thể viện dẫn
trước tòa án quốc gia. Luật của liên minh châu âu có hiệu lực pháp lý cao hơn nội luật
10



của các quốc gia thành viên, do đó khi xảy ra xung đột pháp luật, luật liên minh sẽ được
ưu tiên áp dụng (10).
Ngoài ra, việc thực thi pháp luật thông qua các thiết chế pháp lý cũng có nhiều
điểm khác nhau. Pháp luật cộng đồng ASEAN được thực hiện thông qua tất cả các thiết
chế, tuy nhiên vai trò của các thiết chế này trên thực tế không được thể hiện rõ. Còn đối
với Luật liên minh Châu Âu, vai trò thực thi pháp luật được quy định cụ thể, rõ ràng;
các thiết chế của liên minh châu âu là cơ quan trực tiếp thực thi pháp luật.
- Khác nhau trong cơ chế đảm bảo tuân thủ pháp luật:
Tuân thủ pháp luật là việc các chủ thể của pháp luật thực hiện đúng theo các quy
định của pháp luật. Để đảm bảo các chủ thể thực hiện đúng các quy phạm pháp luật,
pháp luật cộng đồng ASEAN và EU đều có cơ chế đảm bảo thực hiện, tuy nhiên cơ chế
này không giống nhau.
Việc đảm bảo thực hiện pháp luật cộng đồng ASEAN được thể hiện thông qua
các quy định của pháp luật quốc gia, các biện pháp chế tài cũng như hệ thống các cơ
quan cưỡng chế quốc gia; ngoài ra còn do các thiết chế chính trị của cộng đồng
ASEAN giám sát việc thực thi pháp luật. Tuy nhiên, cơ chế này không được quy định
thống nhất trong một văn bản pháp luật của ASEAN mà được quy định ở hầu hết các
văn bản pháp lý của ASEAN, từ Hiến chương ASEAN cho tới các văn bản hợp tác
chuyên ngành. Mỗi văn bản pháp luật lại quy định các thủ tục giám sát khác nhau, tùy
thuộc vào từng lĩnh vực hợp tác cụ thể được quy định tại văn bản đó. Chính sự không
tập trung và thống nhất này đã làm giảm hiệu quả giám sát thực thi pháp luật của Cộng
đồng(11).
Trong khi đó, chức năng giám sát thực thi pháp luật của Liên minh châu Âu
được giao cho Ủy ban châu Âu, với một thủ tục giám sát chặt chẽ và cụ thể. Ngoài ra,
tòa án công lí liên minh châu âu còn đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các
tranh chấp cũng như đảm bảo thực hiện pháp luật. Do luật Liên minh châu Âu được áp
dụng trực tiếp cho các quốc gia thành viên, nên cũng quy định trực tiếp các chế tài
nhằm đảm bảo việc thực hiện pháp luật.
IV. Đánh giá, nhận xét của nhóm:

Thông qua việc so sánh pháp luật cộng đồng ASEAN với công pháp quốc tế và
Luật Liên minh châu âu, có thể thấy giữa chúng có khá nhiều điểm chung. Sở dĩ có
nhứng điểm giống nhau đó là do: Công pháp quốc tế là tổng thể các nguyên tắc, các
quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế liên
11


chính phủ và một số chủ thể đặc biệt khác. Còn ASEAN và EU đều là các tổ chức quốc
tế - chủ thể của công pháp quốc tế. Pháp luật của các tổ chức này cũng điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong mọi lĩnh vực giữa các quốc gia thành viên. Như vậy, có
thể thấy, công pháp quốc tế là luật chung, có vị trí bao quát, còn luật EU và phát luật
cộng đồng ASEAN là một phần trong công pháp quốc tế. Chính bởi vậy mà giữa chúng
có nhiều điểm chung, đặc biệt là giữa pháp luật ASEAN và công pháp quốc tế có rất
nhiều điểm giống nhau.
Tuy nhiên, nếu phân tích từng vấn đề cụ thể, thì giữa pháp luật cộng đồng
ASEAN với công pháp quốc tế và Luật Liên minh châu âu vẫn có một số điểm khác
nhau; đặc biệt là giữa phát luật ASEAN và Luật EU. Sở dĩ có sự khác nhau bởi
ASEAN và EU là hai tổ chức quốc tế có cơ sở hình thành khác nhau, cũng như có điều
kiện phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội khác nhau; cơ cấu tổ chức cũng như
mức độ liên kế của hai tổ chức này cũng khác xa nhau. Chính những khác biệt trên mà
bản chất pháp luật, cũng như cơ chế xây dựng, thi hành và tuân thủ pháp luật có rất
nhiều điểm khác nhau.
Thông qua sự so sanh trên, có thể thấy Luật liên minh châu Âu có sự phát triển
hơn so với luật của Cộng đồng ASEAN. Luật Liên minh châu âu không chỉ mang bản
chất quốc tế, mà có thể nói nó còn mang bản chất quốc gia, thể hiện được sự phát triển
cũng như cấp đội liên kết cao của EU, thể hiện rõ mục tiêu của EU đó là “nhất thể hóa”.
Đối với ASEAN, tuy pháp luật không phát triển và đạt đến mức độ như của EU, nhưng
là phù hợp với điều kiện của ASEAN – là một tổ chức đa dạng về kinh tế, chính trị, văn
hóa; phù hợp với khẩu hiệu của ASEAN “một tầm nhìn, một bản sắc, một cộng đồng”,
cũng như phù hợp với các nguyên tắc hoạt động của ASEAN.

C. KẾT LUẬN
Qua việc so sánh pháp luật cộng đồng ASEAN với Công pháp quốc tế và Luật
Liên minh châu âu đã giúp chung ta có cái nhìn toàn diện và sâu sắc về các hệ thống
pháp luật này; đồng thời cũng giúp chúng ta hiểu thêm về hai tổ chức quốc tế là
ASEAN và EU. Có thể thấy, giữa pháp luật cộng đồng ASEAN, công pháp quốc tế có
nhiều điểm giống nhau, tuy có phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh hẹp hơn,
những Pháp luật ASEAN chính là biểu hiện của công pháp quốc tế. Còn với Luật Liên
minh châu âu, do có sự khác biệt giữa ASEAN và EU về nhiều điều kiện do đó pháp
luật của hai tổ chức này có rất nhiều điểm khác nhau.
12


CHÚ GIẢI:
(1), (6), (11)

. Trường đại học Luật Hà Nội, khoa pháp luật Quốc tế - trung tâm luật châu Á –

Thái Bình Dương, Tập bài giảng Pháp luật cộng đồng ASEAN, Hà nội 2011
(2)

. Trường đại học Luật Hà nội, giáo trình luật công pháp quốc tế, Nxb CAND, Hà nội

2005.
(3)

. “sources of EU law”. European Commission. Bản chính lưu trữ ngày 28 tháng 2

năm 2008.
(4),(9)
(5)


Http:// vi.wikipedia.org. Liên minh châu âu – wikipedia tiếng viêt.

. Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969.

(7),(10)

. Nhà sách Việt Pháp, Những vấn đề cơ bản về Liên minh châu âu và pháp luật

cộng đồng châu âu, Hà nội 2002.
(8)

. Http://www.xaydungphapluat.chinhphu.vn

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Trường đại học Luật Hà Nội, khoa pháp luật Quốc tế - trung tâm luật châu Á –
Thái Bình Dương, Tập bài giảng Pháp luật cộng đồng ASEAN, Hà nội 2011.
2. Trường đại học Luật Hà nội, giáo trình luật công pháp quốc tế, Nxb CAND, Hà
nội 2005.
3. Nhà sách Việt Pháp, Những vấn đề cơ bản về Liên minh châu âu và pháp luật
cộng đồng châu âu, Hà nội 2002.
4. Http:// vi.wikipedia.org. Liên minh châu âu – wikipedia tiếng viêt.
5. Http://www.xaydungphapluat.chinhphu.vn
6. Http://www.aseansec.org

13


14



15



×