Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI KỂ TỪ KHI VIỆT NAM THAM GIA CONG ƯỚC BERNE NĂM 1886 VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.91 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
I.
VIỆT NAM VÀ CÔNG ƯỚC BERNE:
1. Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả
1.1.Các nguyên tắc cơ bản của công ước Bern
1.2.Đối tượng , thời hạn bảo hộ:
1.3. Điều kiện được bảo hộ:
2. Những lợi ích khi Việt Nam gia nhập công ước berne:
II.
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI KỂ TỪ KHI VIỆT NAM THAM GIA CONG
ƯỚC BERNE NĂM 1886 VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ:
1. Thực trạng:
2.1. Thành tựu:
2.2. Hạn chế:
2. Kiến nghị hoàn thiện:
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


MỞ ĐẦU
Việc tham gia Công ước Berne là một yêu cầu tất yếu đối với Việt
Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, mở rộng hợp tác quốc tế
trên nhiều lĩnh vực bảo hộ Sở hữu tuệ nói chung và quyền tác giả nói
riêng. Việc tham gia Công ước Berne là một bước tiến trong quá trình hội
nhập của Việt Nam. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, sự phát
triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, việc bảo vệ quyền tác giả


nói riêng, quyền sở hữu trí tuệ nói chung đang là một vấn để ngày càng
trở nên nóng bỏng. Đứng trước yêu cầu đó và thực tế phát triển kinh tế xã
hội của nước ta, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm quyền tác giả,
các quyền liên quan và quyền sở hữu công nghiệp) đang được Nhà nước
ta quan tâm, đặc biệt sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa kỳ
được ký kết và Quốc hội phê chuẩn, ngày 7 tháng 11 năm nay 2006, Việt
Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) trong đó quyền sở hữu trí tuệ là một bộ phận quan trọng trong các
nội dung được đem ra đàm phán và Việt Nam ta cần phải cam kết thực
hiện. Do vậy, Việt Nam gia nhập Công ước Berne theo thoả thuận của
TRIPS là điều kiện cần thiết của việc gia nhập WTO. Trong quan hệ quốc
tế, văn hóa luôn được coi là một trong những yếu tố quan trọng để đánh
giá đối tác, vì thế, đây sẽ là một cơ hội cho sự đầu tư và phát triển của
Việt Nam. Hơn nữa, gia nhập Công ước Berne sẽ có ảnh hưởng tốt hơn
tới hình ảnh của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ
quyền SHTT nói chung và quyền tác giả nói riêng. Điều này sẽ thúc đẩy
khả năng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới và việc phát triển kinh
tế xã hội của Việt Nam.

2


I.
VIỆT NAM VÀ CÔNG ƯỚC BERNE:
1. Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả
Công ước Berne gồm có Phần mở đầu, 47 điều khoản chính và Phần
phụ lục gồm 6 khoản. Nội dung chủ yếu, quan trọng nhất của Công ước
Berne là các quy định được ghi nhận tại các điều khoản từ Điều 1 đến
Điều 21 và Phần phục lục giành cho các nước đang phát triển
1.1. Các nguyên tắc cơ bản của công ước Bern

Qua toàn bộ nội dung của Công ước và nhất là các quy định
được ghi nhận tại Điều 5, có thể rút ra các nguyên tắc cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nguyên tắc đối xử quốc gia: tác phẩm có nguồn gốc
từ các nước thành viên đều được bảo hộ như nhau. Theo đó, tất cả các
quốc gia tham gia công ước Berne sẽ công nhận và bảo vệ quyền các tác
phẩm của các tác giả thuộc các nước thành viên tham gia ký kết trên lãnh
thổ nước mình, không phân biệt bất kỳ quốc gia hay vùng lãnh thổ, khối
liên kết nào khác.
Ngoài ra, các biện pháp bảo hộ quyền tác giả đối với mọi loại hình tác
phẩm, mọi tác giả… trên lãnh thổ các nước thành viên được các quốc gia
áp dụng như nhau và không phân biệt đối xử. Nguyên tắc đối xử quốc
gia đã đặt ra sự bình đẳng trong đối xử với công dân và pháp nhân của
các quốc gia thành viên.
“Đối với những tác phẩm được Công ước này bảo hộ, các tác giả
được hưởng quyền tác giả ở các nước Liên hiệp không phải là quốc gia
gốc của tác phẩm, những quyền do luật của nước đó dành cho công dân
của mình trong hiện tại và trong tương lai cũng như những quyền mà
Công ước này đặc biệt quy định” (Khoản 1, Điều 5, Công ước Berne).
Thứ hai, nguyên tắc bảo hộ tự động. Có nghĩa là, tại các quốc
gia đã tham gia Công ước thì việc hưởng và thực hiện các quyền tác giả
đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật không phải làm bất kỳ thủ tục nào.
Việc bảo hộ được thực hiện kể cả trong trường hợp tác phẩm không được
bảo hộ ở quốc gia gốc.
“Sự bảo hộ trong quốc gia gốc do luật pháp của quốc gia đó quy định.
Tuy nhiên, khi tác giả không phải là công dân của quốc gia gốc của tác
phẩm được Công ước này bảo hộ, thì tác giả đó được hưởng trong quốc
3


gia này quyền như các tác giả công dân nước đó” (Khoản 3, Điều 5, Công

ước Berne).
Thứ ba, nguyên tắc bảo hộ độc lập: việc thực thi và hưởng các
quyền theo Công ước là độc lập với những quyền đang được hưởng tại
nước xuất xứ tác phẩm
“Sự bảo hộ trong quốc gia gốc do luật pháp của quốc gia đó quy định.
Tuy nhiên, khi tác giả không phải là công dân của quốc gia gốc của tác
phẩm được Công ước này bảo hộ, thì tác giả đó được hưởng trong quốc
gia này quyền như các tác giả công dân nước đó” (Khoản 3, Điều 5, Công
ước Berne).
Trên thực tế, khi tham gia công ước Berne, các quốc gia thành viên
đều đã có một bộ luật nhằm bảo vệ quyền tác giả và các quyền liên quan
cho riêng mình, bởi lẽ đó, việc thực thi bảo hộ như thế nào là hoàn toàn
phụ thuộc vào luật thực định của quốc gia thành viên. Các quốc gia này
sẽ khai thác nội dung nguyên tắc này và kết hợp với luật của nước mình
để bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho tác giả và công chúng thụ hưởng tác
phẩm văn học nghệ thuật.
Trên đây là ba nguyên tắc chính của Công ước Berne, thể hiện một
cách đầy đủ bản chất pháp lý của điều ước quốc tế, tính công khai minh
bạch của toàn công ước, đồng thời thể hiện rõ quyền và nghĩa vụ của các
quốc gia thành viên.
1.2. Đối tượng , thời hạn bảo hộ:
- Đối tượng được bảo hộ theo Công ước Berne là các tác phẩm văn
học và các tác phẩm nghệ thuật. Theo Điều 2 Công ước Berne thì thuật
ngữ “các tác phẩm văn học và nghệ thuật” được hiểu là tất cả các sản
phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật được biểu
hiện dưới bất kỳ hình thức nào, theo bất kỳ phương thức nào.
Tác giả được bảo hộ theo Công ước Berne: Tác giả là công dân của
quốc gia đã tham gia công ước cho dù tác phẩm của họ đã hoặc chưa
công bố; Tác giả là công dân của quốc gia chưa tham gia công ước nhưng
tác phẩm của họ đã được công bố lần đầu tiên tại một nước đã tham gia

công ước hoặc công bố đồng thời ở một số quốc gia trong đó có 1 nước
đã tham gia công ước. Tác giả không mang quốc tịch của quốc gia đã
4


tham gia công ước nhưng thường xuyên cư trú tại nước đó thì cũng được
xem như công dân của quốc gia đó và tác phẩm của họ cũng được bảo hộ
theo Công ước Berne. Riêng đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm kiến
trúc sẽ được bảo hộ theo Công ước Berne nếu trụ sở của nhà sản xuất
phim đóng ở nước thành viên công ước, tác phẩm kiến trúc được xây
dựng tại nước đã tham gia công ước cho dù tác giả của chúng không phải
là công dân của nước đã tham gia công ước.
- Thời hạn bảo hộ, được quy định tại Điều 7 và Điều 7 bis của Công
ước Berne là suốt cuộc đời của tác giả và 50 năm tiếp theo, sau khi tác giả
mất. Riêng đối với tác phẩm điện ảnh thì thời hạn bảo hộ là 50 năm sau
khi tác phẩm được phổ biến tới công chúng với sự đồng ý của tác giả
hoặc có thế được tính kể từ khi tác phẩm được thực hiện. Những tác
phẩm khuyết danh hoặc sử dụng bút danh (mà chưa rõ đích danh tác giả)
thì thời hạn bảo hộ cũng là 50 năm kể từ khi tác phẩm được phổ biến tới
công chúng. Riêng đối với tác phẩm sử dụng bút danh sau khi đã rõ tên
thật của tác giả thì sẽ được bảo hộ suốt cả cuộc đời của tác giả và 50 năm
sau khi tác giả mất. Thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm nhiếp ảnh và tác
phẩm mỹ thuật ứng dụng, mỹ thuật tạo hình là 25 năm.
Đối với những tác phẩm có đồng tác giả thì việc bảo hộ sẽ được thực
hiện tương tự như tác phẩm có 1 tác giả. Thời hạn bảo hộ tiếp theo sẽ
được tính kể từ khi đồng tác giả cuối cùng chết.
1.3. Điều kiện được bảo hộ
Quyền tác giả được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp quy định
tại Điều 3 Công ước Berne:
- Tác giả là công dân hoặc cư trú thường xuyên ở một trong những

nước là thành viên của Công ước cho tác phẩm dù đã công bố hay
chưa (điều kiện về quốc tịch của tác giả).
- Tác phẩm của tác giả là công dân của nước chưa tham gia công ước
được công bố đầu tiên tại một trong các quốc gia thành viên của
công ước hoặc được công bố đồng thời ở một nước không phải
thành viên của công ước và một nước là thành viên của công ước
trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày công bố đầu tiên (điều kiện về
nới công bố đầu tiên của tác phẩm)
5


- Tác phẩm điện ảnh mà sản xuất có trụ sở hay thường trú ở một
trong những nước thành viên của công ước.
- Tác phẩm kiến trúc được xây dựng trong một số nước thuộc Liên
hiệp hoặc những tác phẩm tạo hình gắn liền với một tòa nhà được
xây dựng trong một nước thành viên.
2. Những lợi ích khi Việt Nam gia nhập công ước berne:
Viêc tham gia công ước berne sẽ đem lại cho Việt Nam những lợi ích
sau:

Lợi ích về mặt xã hội:
- Môi trường lành mạnh cho sự sáng tạo:
Khi Việt Nam gia nhập Công ước Berne cũng cùng với việc môi
trường văn hóa Việt Nam sẽ được thanh lọc, tình trạng vi phạm bản
quyền,dùng tác phẩm của người khác để khai thác lợi nhuận sẽ bị loại trừ.
Khi công sức của mình được công nhận, quyền lợi chính đáng được bảo
hộ một cách nghiêm túc, các tác giả sẽ có nhiều động lực để thúc đẩy sự
sáng tạo. Tham gia Công ước Berne với những thách thức, khó khăn mới
cũng là một sức ép - một sức ép lành mạnh cho những đối tượng hoạt
động trong lĩnh vực khai thác quyền tác giả.

- Khuyến khích phát triển cơ sở hạ tầng ngành công nghiệp bản
quyền
Việc gia nhập Công ước Berne có thể làm cho vị thế cạnh tranh của
các tác giả tại thị trường nội địa tăng lên, bởi vì các tác phẩm của tác giả
nước ngoài chỉ có thể được đưa vào thị trường các quốc gia thành viên
khi được họ cho phép; mặt khác cũng không thể duy trì được lâu trên thị
trường các tác phẩm nước ngoài với giá thấp hơn giá nội địa bởi những
đòi hỏi của việc uỷ quyền phân phối tác phẩm không cho phép như vậy.
Đây có thể được xem như là một yếu tố quan trọng đối với việc khuyến
khích sáng tạo và phát triển cơ sở hạ tầng của ngành công nghiệp quyền
tác giả trong nền kinh tế thị trường của các quốc gia thành viên.
- Nâng cao chất lượng thị trường sách dịch
Tham gia Công ước Berne, người Việt Nam sẽ được thưởng thức
nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật hay hơn không chỉ vì nguồn lực sáng

6


tạo trong nước được thúc đẩy, mà còn vì chất lượng nguồn tác phẩm nước
ngoài vào Việt Nam sẽ được chọn lọc kỹ càng hơn.
Lợi ích về mặt kinh tế
- Lợi ích kinh tế vĩ mô
Một khi đã gia nhập công ước Berne thì quốc gia đó trở thành một
bộ phận của hệ thống bảo hộ quốc tế về quyền tác giả đối với các sản
phẩm hàng hoá và dịch vụ trong hệ thống thương mại quốc tế. Đây là một
điều hết sức quan trọng đối với quá trình giao lưu văn hoá, trao đổi thông
tin, công nghệ và các sản phẩm công nghiệp giải trí.
II.
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ CÓ

YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI KỂ TỪ KHI VIỆT NAM THAM
GIA CONG ƯỚC BERNE NĂM 1886 VỀ BẢO HỘ
QUYỀN TÁC GIẢ:
1. Thành tựu:
- Sau khi gia nhập Berne, Việt Nam đã từng bước hội nhập quốc tế về bảo
vệ quyền tác giả. Trong vòng chưa đầy 3 năm từ khi gia nhập, Việt nam
đã tham gia hầu hết các Điều ước quốc tế về quyền tác giả như: Công ước
Giơnever, công ước Brussels, Hiệp định TRIPs, công ước Rome … Việc
tham gia điều ước quốc tế cũng là cơ hội để Việt Nam xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật của mình về quyền tác giả phù hợp với pháp luật
quốc tế.
- Sau khi gia nhập Việt Nam đã thành lập những hệ thống tổ chức quản lý
tập thể quyền tác giả bao gồm: Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc
(VCPMC), trung tâm quyền tác giả văn học (VLCC), Hiệp hội công
nghiệp ghi âm Việt Nam (RIAV) … hoạt động rất hiệu quả, góp phần
quan trọng trong việc tự bảo vệ quyền và tạo niềm tin cho các nhà sáng
tác, nhà đầu tư trong lĩnh vực này.
- Nhờ có sự tuyên truyền nội dung và những lợi ích khi áp dụng các quy
định của Công ước Berne, các chủ thể đã chủ động nộp đơn xin đăng ký
quyền tác giả và hoạt động cấp giấy chứng nhận quyền tác giả đã được
thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.

7


- Để đảm bảo cho Berne được thực hiện nghiêm túc tại Việt Nam, các cơ
quan có thẩm quyền tại Việt Nam đã có những kế hoạch phòng chống,
ngăn chặn việc xâm hại đến quyền tác giả. Thanh tra văn hóa, thể thao du
lịch đã kiểm tra nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ liên quan đến quyền tác
giả, phát hiện và xử lý rất nhiều các cơ sở vi phạm. Việc ráo riết kiểm tra

vào xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm bản quyền đã thu được
nhiều thành tựu khả quan, tích cực. Chứng tỏ phần nào về việc đề cao
trách nhiệm của các nhà xuất bản khi phải thực hiện nghĩa vụ thỏa thuận
trước khi xuất bản. Việt Nam đã thoát khỏi TOP 10 thế giới về vi phạm
bản quyền.
- Các hoạt đông kiểm tra, xử lý của các cơ quan thực thi được tăng
cường.
2. Hạn chế:
• Những điểm không tương đồng giữa pháp luật về quyền tác giả theo
pháp luật Việt Nam và các quy định của Công Ước Berne
- Về nội dung quyền tác giả: Sự khác biệt thể hiện ở cách sử dụng các
thuật ngữ: quyền tinh thần, quyền kinh tế trong công ước Berne và quyền
nhân thân, quyền tài sản theo pháp luật Việt Nam. Công ước Berne không
quy định việc công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm là nội
dung quyền tinh thần như pháp luật Việt Nam quy định. Cụ thể Bộ luật
DS 2005 và Luật SHTT 2005 quy định quyền công bố tác phẩm và 1cho
phép người khác công bố tác phẩm là quyền nhân thân. Cũng theo đó
pháp luật Việt Nam quy định quyền nhân thân của quyền tác giả bao gồm
quyền nhân thân có thể chuyển giao (quyền công bố tác phẩm hoặc cho
phép người khác công bố tác phẩm) và quyền nhân thân không thể
chuyển giao (bao gồm quyền đặt tên, quyền đứng tên thật hoặc bút danh;
quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác cắt xén,
xuyên tạc tác phẩm dưới bất cứ hình thức nào gây phương hại tới danh dự
và uy tín của tác giả), trong khi Công ước Berne thì cho rằng quyền này
thuộc vào quyền kinh tế
- Về thời hạn bảo hộ quyền tác giả: Công ước Berne quy định thời
hạn bảo hộ tối thiểu còn pháp luật Việt Nam quy định thời hạn cụ thể.
110.

Theo Tổng kết công tác bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan năm 2010 và giai đoạn 2001-2010

của cục bản quyền tác giả ngày 13/1/2011 (tại Website www.cov.gov.vn

8


Công ước Berne chỉ quy định bảo hộ có thời hạn trong khi Pháp luật Việt
Nam quy định thành hai loại là bảo hộ có thời hạn (đối với các quyền tài
sản và quyền nhân thân gắn với tài sản) và vô thời hạn (đối với quyền
nhân thân không gắn với tài sản). Hay nói cách khác là Công ước Berne
đưa ra thời hạn bảo hộ dựa vào đối tượng được bảo hộ còn luật Việt Nam
lại quy định thời hạn bảo hộ dựa vào loại quyền (quyền nhân thân và
quyền tài sản)
Có thể nhận định rằng sự chưa tương thích trong các quy định của
Việt Nam so với công ước Berne xuất phát từ sự chênh lệch trong kỹ
thuật lập pháp của Việt Nam so với quốc tế. Chính điều này đã gây ra
những trở ngại nhất định cho Việt Nam trong việc đảm bảo hiệu quả thực
thi các cam kết quốc tế về quyền tác giả nói chung và Công ước Berne
nói riêng và thực tế là khiến cho việc thực thi bảo hộ quyền tác giả gặp
nhiều khó khăn.
• Hiệu quả thực thi Công ước chưa cao
Các cơ quan thực thi quyền tác giả còn gặp vướng mắc trong quá
trình hoạt động, trình độ và kinh nghiệm của các cán bộ làm công tác
thực thi còn chưa cao. Vấn đề này đã và đang là một khó khăn với Việt
Nam trong việc thực thi Công ước. Chừng nào hoạt động của các cơ quan
thực thi chưa được nâng cao, hiệu quả hoạt động chưa được đảm bảo thì
sẽ là một yếu tố làm hạn chế hiệu quả thực thi bảo hộ quyền tác giả ở
Việt Nam.
•Ý thức tôn trọng bản quyền và chấp hành pháp luật của người dân chưa
cao
Nhận thức về bản quyền và bảo vệ bản quyền của người dân Việt

Nam nói chung còn hạn chế. Đây là một cản trở rất lớn trong việc thực thi
Công ước Berne ở Việt Nam. Bởi lẽ, dù hệ thống pháp luật có hoàn thiện,
năng lực của cơ quan thực thi được nâng cao, nhưng nếu sự hiểu biết của
toàn xã hội đối với vấn đề bảo hộ quyền tác giả, ý thức tôn trọng pháp
luật không cao thì rất khó để đảm bảo được hiệu quả thực thi. Việc thực
thi chỉ có thể đạt được hiệu quả cao nếu cả 3 yếu tố đảm bảo việc thực thi
nghiêm chỉnh quyền tác giả ở Việt Nam đều đầy đủ gồm: ý thức chủ thể,
hệ thống pháp luật và cơ chế thực thi. Do vậy, nhận thức của cộng đồng
9


về bảo hộ quyền tác giả nếu chưa được nâng cao sẽ là một trở ngại lớn
trong quá trình Việt Nam thực thi Công ước Berne bởi suy cho cùng
quyền tác giả, quyền liên quan vẫn còn mới mẻ và khá phức tạp tại Việt
Nam.
3. Kiến nghị hoàn thiện:
- Vấn đề pháp lý: cần phải hoàn thiện, chỉnh lý toàn bộ các ngành
luật sao cho hợp lý và đồng bộ. Đối với biện pháp dân sự, để đảm bảo
giải quyết tốt hơn tranh chấp về quyền tác giả, cần phải quy định cụ thể
hơn về các vấn đề: Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn thực thi quyền sở
hữu trí tuệ một cách kịp thời và có hiệu quả. Xác định rõ thẩm quyền của
Tòa án trong việc xét xử các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, các chứng cứ
đương sự được sử dụng trong quá trình chứng minh; cơ quan có thẩm
quyền giám định và trình tự, thủ tục giám định; nguyên tắc bồi thường và
xác định mức độ bồi thường khi quyền tác giả bị xâm phạm; Bổ sung
những quy định chi tiết về chế tài đủ mạnh để chống lại các hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ, tham khảo các biện pháp khẩn cấp tạm thời đã
áp dụng giải quyết tranh chấp của một số nước trên thế giới.
Đối với biện pháp hình sự, cần tăng mức chế tài xử lý đối với những
tội xâm phạm quyền tác giả cho phù hợp với sự phát triển của các vụ vi

phạm bản quyền, nhất là trong thời đại hiện nay- thời đại của kỹ thuật số,
khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển. Cần nghiên cứu điều chỉnh
cách tính mức phạt phải cao hơn, nghiêm khắc hơn đối với hành vi vi
phạm, sao cho mức phạt tối thiểu cũng phải cao hơn lợi nhuận xác định
được do hành vi vi phạm bản quyền gây ra. Hơn nữa, cần kiên quyết đưa
những hành vi xâm phạm bản quyền với quy mô thương mại ra truy tố
hình sự.
Xây dựng pháp luật SHTT và thực thi pháp luật SHTT là hai vấn đề
có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau. Muốn thực thi pháp
luật về SHTT có hiệu quả thì phải xây dựng một hệ thống pháp luật chặt
chẽ. Việt Nam hiện đang trong quá trình hoàn thiện cơ sở pháp lý cho
quyền SHTT và đồng thời cũng đang tìm cho mình một cơ chế thực thi
quyền SHTT thật hiệu quả.

10


- Vấn đề quản lý và hoạt động của các cơ quan thực thi: Để nâng
cao hiệu quả thực thi Công ước Berne trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác
giả, quyền liên quan rất cần thiết phải nâng cao năng lực của các cơ quan
chức năng và đội ngũ cán bộ công chức trực tiếp liên quan đến việc xác
lập và triển khai các biện pháp thực thi quyền tác giả, quyền liên quan.
Cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan chức năng và chủ sở hữu, nâng cao sự phối hợp đồng bộ, có hiệu
quả giữa các cơ quan.

11


KẾT LUẬN

Việt Nam đã chính thức gia nhập Công ước Berne về bảo hộ các tác
phẩm văn học nghệ thuật vào ngày 26/10/2004 và là thành viên thứ 156
của Công ước.
Trong 8 năm gia nhập từ đó đến nay, Việt Nam đã triển khai nhiều
hoạt động nhằm đảm bảo hiệu quả thực thi bảo hộ quyền tác giả. Việt
Nam đã điều chỉnh hệ thống luật pháp về bảo hộ quyền tác giả cơ bản
tương đối phù hợp với Công ước Berne. Trên cơ sở đó, cùng với việc thi
hành pháp luật về bảo hộ quyền tác giả, Việt Nam cũng triển khai nhiều
hoạt động quản lý, kiểm tra, tuyên truyền tới cộng đồng, xác lập và thực
thi bảo hộ quyền tác giả nhằm đẩy mạnh hiệu quả thực thi Công ước
Berne.
Tuy nhiên, các quy định pháp luật tốt mới chỉ là tiền đề, là bước đầu.
Điều quan trọng là làm sao phải xây dựng được một cơ chế thực thi hữu
hiệu và đủ mạnh để đưa các quy định pháp luât vào cuộc sống. Và một
thực tế là hiệu quả thực thi Công ước Berne ở Việt Nam chưa cao. Gần 8
năm sau khi Công ước có hiệu lực, tình trạng vi phạm bản quyền vẫn diễn
ra ở mọi lĩnh vực. Điều này xuất phát từ nhiều khó khăn Việt Nam gặp
phải trong quá trình thực thi như hệ thống pháp luật còn đang ở giai đoạn
hoàn thiện nên còn bộc lộ những hạn chế, các cơ quan có thẩm quyền
hoạt động chưa đạt hiệu quả cao, còn gặp nhiều vướng mắc, nhận thức về
quyền tác giả của xã hội còn chưa cao, các chế tài xử phạt vi phạm quyền
tác giả còn chưa đủ mạnh, mạng lưới thông tin bảo hộ quyền tác giả mới
đi vào hoạt động, do tính chất cạnh tranh trong cơ chế thị trường...

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ
thuật

2) Luật SHTT 2005
3) Luận văn thạc sĩ luật học Ngô Ngọc Phương về bảo hộ quyền tác giả tại
Việt Nam với việc gia nhập công ước Berne.
4) 5.Nguyễn Bá Bình, Phạm Thanh Tùng, Công ước Berne 1886 – công cụ
hữu hiệu bảo hộ quyền tác giả, Nhà xuất bản Tư pháp Hà Nội, 2006.
5) Vũ Mạnh Chu, Bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam,
6) Lê Hồng Hạnh, Đinh Thị Mai Phương, Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở
Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2004.
Vũ Thị Phương Lan, Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ
thuật, Tạp chí luật học số 6 năm 2005
7) Lê Nết, Quyền sở hữu trí tuệ, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP Hồ
Chí Minh, 2006.
8) Nguyễn Như Quỳnh, Thực thi quyền tác giả, website Thông tin pháp
luật
dân
sự,
/>9) Một số ý kiến nhằm đẩy mạnh bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam trong
thời gian tới – Nguyễn Lan Nguyên ( Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Luật
học 25(2009) 259 – 264.
10)Bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam với việc Việt Nam gia nhập Công ước
Berne" - Thư viện điện tử www.Kilobooks.com

13



×