Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

.Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.86 KB, 12 trang )

Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước

MỤC LỤC

1

Nguyễn Đức Thắng N09- TL4


Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước

ĐẶT VẤN ĐỀ
Với bản chất dân chủ sâu sắc, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân được Nhà nước xã hội chủ nghĩa ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Để nhân dân lao
động thực sự giữ vai trò là người làm chủ đất nước, việc tạo điều kiện để nhân dân lao
động tham gia vào quản lý hành chính nhà nước đã được ghi nhận vào đảm bảo thực hiện
như một nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước.
Để hiểu sâu hơn về nguyên tắc này cũng như sự vận dụng nguyên tắc này trong
thực tiễn quản lý hành chính Nhà nước hiện nay. Em xin lựa chọn đề tài số 03: “Phân
tích nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính Nhà
nước và đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lý hành chính Nhà nước
hiện nay”.
Trong quá trình làm bài em đã có nhiều cố gắng song do kiến thức về lĩnh vấn đề
này còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được
sự nhận xét của các thầy cô trong tổ bộ môn để bài làm của em được hoàn thiện hơn.

Em xin cảm ơn!

2

Nguyễn Đức Thắng N09- TL4




Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước

Cơ sở lý luận.
1. Khái niệm nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nước.
Cũng giống như bất kỳ hoạt động có mục đích nào, quản lý hành chính Nhà nước
được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đây chính là tư tưởng chủ đạo rất
quan trọng cho các chủ thể quản lý hành chính Nhà nước thực hiện có hiệu quả các công
việc của mình trên các lĩnh vực được phân công. Nguyên tắc được hiểu là những điều cơ bản
nhất thiết phải tuân theo trong một loạt các việc làm.
Các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước được hiểu là tổng thể các quy
phạm pháp luật hành chính có nội dung là những tư tưởng chủ đạo làm cơ sở để tổ chức,
thực hiện hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
2. Đặc điểm của các nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nước.
2.1 Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước có tính tổ chức pháp lý.
Các nguyên tắc này thường được ghi nhận trong các văn pháp luật của nhà nước, từ
Hiến pháp, luật đến văn bản dưới luật. Điều này thể hiện tính chất pháp lý của các nguyên
tắc trong quản lý hành chính nhà nước. Nó tạo ra cơ sở để buộc các chủ thể phải tuân thủ
một cách thống nhất và chính xác các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước. Ví dụ:
Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) xác định: “Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân,…”. Nguyên tắc này đã được nhà nước ghi nhận trong
Hiến pháp - đạo luật cơ bản và quan trong nhất của Nhà nước.
2.2 Các nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nước mang tính khách quan và khoa học.
Ph. Angghen cho rằng: “Nguyên tắc không phải là được ứng dụng vào giới tự nhiên
và lịch sử loài người mà được rút ra trong giới tự nhiên va lịch sử loài người. Không phải
giới tự nhiên và lịch sử loài người thích ứng với các nguyên tắc mà trái lại nguyên tắc chỉ
đúng khi nó phù hợp với giới tự nhiên và lịch sử”. Các nguyên tắc quản lý hành chính Nhà
nước mang tính khách quan và khoa học bởi vì chúng được xây dựng, được rút ra từ thực tế

cuộc sống trên cơ sở nghiên cứu một cách sâu sắc các quy luật phát triển khách quan, cơ bản
của đời sống xã hội. Vì vậy, chúng phản ánh một cách sâu sắc các quy luật đó. Mặc dù
những nội dung phản ánh thực tiễn khách quan của quản lý hành chính Nhà nước, các
nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước lại được ghi nhận thông qua nhận thức chủ
quan của con người. Bởi vậy, chúng bao giờ cũng chịu sự chi phối của những điều kiện về
chính trị, giai cấp và xã hội; hay nói cách khác, các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà
nước phản ánh bản chất giai cấp của hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
2.3 Các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước có tính ổn định.
Do bản thân các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước là sự phản ánh các
quy luật khách quan của quản lý hành chính Nhà nước nên tính ổn định của chúng trong
từng thời kỳ, từng giai đoạn được đảm bảo. Tuy vậy, tính ổn định đó chỉ có ý nghĩa tương
I.

3

Nguyễn Đức Thắng N09- TL4


Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước

đối. Tính ổn định của các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước không loại bỏ việc
không ngừng đổi mới về nội dung, hình thức và phương pháp thực hiện các nguyên tắc để
phù hợp với từng giai đoạn cụ thể.
2.4 Các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước có mối liên hệ với nhau và
tạo thành một hệ thống nguyên tắc.
Mỗi nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước có nội dung riêng, phản ánh
những quy luật khách quan khác nhau trong quản lý hành chính nhà nước. Vì vậy, có nhiều
nguyên tắc khác nhau được đặt ra trong quản lý hành chính Nhà nước. Những nguyên tắc
này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống thống nhất. Việc thực hiện tốt
nguyên tắc này tạo tiền đề cho việc thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc khác.

II.
Giải quyết vấn đề
1. Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính Nhà nước
1.1.
Cơ sở pháp lý:
Xuất phát từ bản chất Nhà nước Xã hội chủ nghĩa là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Nhà nước của nhân dân được hiểu là, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là của
toàn thể nhân dân lao động trong xã hội, nhân dân là chủ của đất nước, có toàn quyền quyết
định các vấn đề trọng đại của đất nước; Nhà nước phải phục tùng ý chí của nhân dân. Nhà
nước do nhân dân có nghĩa là, Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là do thành quả của cuộc
cách mạng do nhân dân lao động tiến hành. Nhân dân thông qua bầu cử trực tiếp hoặc gián
tiếp thành lập ra các cơ quan trong Bộ máy nhà nước. Nhân dân có quyền miễn nhiệm hoặc
bãi nhiệm những người do nhân dân bầu ra nếu thấy khống còn tín nhiệm đối với người đó.
Nhà nước vì dân có nghĩa là, quyền lực Nhà nước do nhân dân tổ chức ra là để phục vụ nhân
dân “Các cơ quan của chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là đầy tớ của nhân dân,
nghĩa là để ghánh vác việc chung cho dân”. Dân là gốc của nước, vì vậy, Nhà nước phải tôn
trọng, bảo đảm, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, nghiêm trị các hành vi xâm
phạm quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân, đồng thời, “Phải khoan thư sức dân để làm kế
sâu rể, bền gốc”. Điều 2 Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định:
“Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là lien minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức…”.
Cụ thể hơn Điều 53 Hiến pháp ghi nhận: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và
xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ
quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Vì vậy, nhân dân tham
gia vào quản lý hành chính nhà nước là một nguyên tắc quan trọng của quản lý hành chính
Nhà nước ta.
1.2.
Biểu hiện của nguyên tắc:
4


Nguyễn Đức Thắng N09- TL4


Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước

Trong quản lý hành chính nhà nước nguyên tắc này được thể hiện ở những hình thức
tham gia vào hoạt động quản lý hành chính của nhân dân lao động.
1.2.1. Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Các cơ quan trong Bộ máy nhà nước là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước. Vì
vậy, tham gia vào các hoạt động của các cơ quan nhà nước là hình thức tham gia tích cực,
trực tiếp và có hiệu quả của nhân dân lao động vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Thứ nhất, nhân dân lao động có thể tham gia vào các cơ quan quyền lực của Nhà nước
với tư cách là thành viên của cơ quan này, những người đại biểu được lựa chọn thông qua
con đường bầu cử. Nhân dân lao động có thể tham gia vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân là
những cơ quan quyền lực của Nhà nước. Điều 83 Hiến pháp 1992 (đã được sữa đổi, bổ sung
năm 2001) quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan
duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về
đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những
nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của Bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và
hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước”. Khi tham gia vào cơ quan quyền lực Nhà nước, nhân dân lao động có
trực tiếp xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; của từng địa phương trong
đó các vấn đề quản lý hành chính Nhà nước. Nhân dân lao động có đủ điều kiện do pháp luật
quy định sẽ có thể tham gia vào các cơ quan quyền lực của Nhà nước. Ví dụ: Điều 3 Luật
bầu cử đại biểu quốc hội quy định tiểu chuẩn của đại biểu Quốc hội: “1.Trung thành với tổ
quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu thực hiện công cuộc
đổi mới, vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh.

2. Có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp
luật; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và
các hành vi vi phạm pháp luật;
3. Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội, tham gia quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước;
4. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm;
5. Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội”. Như vậy, công dân Việt Nam nếu đáp
ứng được đầy đủ các điều kiện trên thì sẽ được tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội.
Thứ hai, nhân dân lao động có thể tham gia vào hoạt động của các cơ quan Nhà nước
khác như các cơ quan hành chính, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử với tư cách là những cán
bộ, công chức của Nhà nước. Ở những cương vị này, nhân dân lao động sẽ sử dụng một cách
trực tiếp quyền lực nhà nước để tiến hành những công việc khác nhau của quản lý hành
chính nhà nước, thể hiện người làm chủ đất nước làm chủ xã hộ của mình. Họ sẽ có đẩy đủ
5

Nguyễn Đức Thắng N09- TL4


Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước

a.
b.
c.
d.
e.
f.
g.

1.2.2.


các điều kiện biến ý chí, nguyện vọng của mình thành hiện thực. Công dân Việt Nam có đủ
điều kiện do pháp luật quy định đều có thể trở thành cán bộ, công chức trong các cơ quan
Nhà nước. Ví dụ: Khoản 1 Điều 36 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định:
“1. Người đủ các điều kiện sau đây không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tôn giáo được đăng ký dự tuyển công chức:
Có một quốc tịch là quốc tịch Việt nam;
Đủ 18 tuổi trở lên;
Có đơn dự tuyển; có lý lịch rõ ràng;
Có văn bằng, chứng chỉ phù hợp;
Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt;
Đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ;
Các điều kiện khác theo yêu cầu của vị trí dự tuyển”.
Thứ ba, nhân dân lao động có thể tham gia gián tiếp vào các cơ quan Nhà nước thông
qua việc thực hiện quyền lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình vào cơ quan
quyền lực nhà nước ở trung ương hay địa phương. Điều 54 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2001) quy định: “Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội,
tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở
lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân theo quy định của pháp luật”. Bầu cử vừa là quyền chính trị cực kỳ quan trọng của
công dân, nhờ quyền bầu cử mà các công dân có thể lựa chọn những người ưu tú nhất, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của mình vào các cơ quan quyền lực của Nhà
nước, giải quyết những vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Chính ở quyền này nhân dân
lao động thực hiện được quyền lực của mình, thực hiện quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã
hội của mình.
Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội.
Tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của công dân tổ chức Việt Nam có chung
mục đích tập hợp, hoạt động theo pháp luật và theo điều lệ không vì lợi nhuận nhằm đáp ứng
những lợi ích chính đáng của các thành viên và tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã
hội. Ví dụ: Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh,… Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động có thể

tham gia một cách tích cực vào hoạt động của các tổ chức xã hội. Điều 9 Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Mặt trận tổ quốc Việt nam và các tổ chức thành
viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn
dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng
cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân,
động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật,
giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà
6

Nguyễn Đức Thắng N09- TL4


Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước

nước”. Ngoài việc ghi nhận địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội trong Hiến pháp, Nhà nước

ta còn ban hành luật về các tổ chức xã hội như: Luật Mặt trận tổ quốc năm 1999, Luật công
đoàn năm 1990. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng giúp đỡ về vật chất và tinh thần để cho các tổ
chức xã hội thực sự trở thành công cụ đăc lực của nhân dân lao động trong việc thực hiện
quyền tham gia quản lý nhà nước của mình. Ví dụ: Điều 15 Luật Mặt trận tổ quốc quy định:
“1. Người đứng đầu các cơ quan tổ chức có trách nhiệm:
a. Tạo điều kiện để cán bộ, công chức làm nhiệm vụ khi họ được cử vào Mặt trận tổ quốc Việt
Nam hoặc được phân công phối hợp công tác với Mặt trận tổ quốc Việt Nam;
b. Cung cấp thông tin cần thiết khi Mặt trận tổ quốc Việt Nam có yêu cầu để Mặt trận tổ quốc thực
hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
2. Các cơ quan tổ chức trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
phối hợp với Mặt trận tổ quốc thực hiện các cuộc vận động do Mặt trận tổ quốc Việt Nam đề
xướng hoặc thực hiện các chương trình, dự án mà Mặt trận được giao”.
Thông qua các hình thức hoạt động của các tổ chức xã hội, vai trò chủ động, sáng tạo
của nhân dân lao động được phát huy trong quản lý hành chính Nhà nước. Trên thực tế, các

tổ chức xã hội đã thu hút một lượng đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia vào
quản lý hành chính nhà nước.
1.2.3. Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở.
Ở nơi cư trú, sinh hoạt, làm việc, nhân dân lao động thường xuyên thực hiện các hoạt
động mang tính chất tự quản. Đây là những hoạt động do chính nhân dân lao động tự thực
hiện nó có mối liên quan chặt chẽ với các công việc khác của quản lý nhà nước, quản lý xã
hội. Các hoạt động tự quản ở cơ sở như: bảo vệ an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, tổ chức
đời sống công cộng,… đều rất gần gủi và thiết thực đối với cuộc sống của mỗi người dân.
Thông qua những hoạt động mang tính chất tự quản mà người dân lao động là những chủ thể
tham gia tích cực, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của người dân mà pháp
luật đã quy định thực sự được tôn trọng và bảo đảm thực hiện.
1.2.4. Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành chính Nhà
nước.
Ngoài việc tham gia vào hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, các
hoạt động tự quản thì việc nghiêm chỉnh thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình cũng là
một hình thức tham gia vào quản lý hành chính Nhà nước của công dân. Điều 53 Hiến pháp
năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định; “Công dân có quyền tham gia
quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chúng của cả nước và địa
phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”.
Để thực hiện các quyền cơ bản này, pháp luật đã quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể
của công dân trong các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành chính Nhà nước. Ví dụ: Điều
74 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan Nhà
7

Nguyễn Đức Thắng N09- TL4


Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước

nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh

tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào”. Khi thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo của mình công dân đấu tranh chống những vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, của tập thể, của công dân góp phần vào việc giám sát các hoạt động của
cơ quan Nhà nước, làm trong sạch và nâng cao hiệu lực quản lý của Bộ máy Nhà nước.
1.3.
Ý nghĩa của nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính
Nhà nước.
Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính Nhà nước là
một nguyên tắc quan trọng trong quản lý hành chính Nhà nước. Việc quy định và thực hiện
nguyên tắc này có ý nghĩa rất lớn.
Nó khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân lao động trong quản lý hành chính
Nhà nước, tuân theo nguyên lý khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin “Nhân dân là cái gốc
của quyền lực Nhà nước” đã được thực tiễn lịch sử chứng minh.
Phát huy dân chủ, mở rộng sự tham gia của người dân vào quản lý hành chính Nhà
nước nhằm bảo đảm cho Nhà nước ta giữ vững bản chất là Nhà nước “của dân, do dân, vì
dân”, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả các chính sách của Đảng, của Nhà nước.
Việc mở rộng hình thức tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý hành chính Nhà
nước không chỉ đòi hỏi từ sự hội nhập mà quan trọng hơn là từ chính yêu cầu của công cuộc
đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, dân chủ hóa đời sống xã hội và của bản than Nhà
nước. Mở rộng sự tham gia mạnh mẽ của người dân vào các quá trình ra quyết định, các hoạt
động quản lý hành chính Nhà nước sẽ góp phần quan trọng cho việc xây dựng một xã hội
công bằng và dân chủ, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay.
“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Do đó, chỉ khi nào người dân thật sự đóng
vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước thì việc xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền mới thành công.
2. Sự vận dụng Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính
Nhà nước hiện nay.
Hiện nay, việc vận dụng nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý
hành chính Nhà nước được thực hiện rộng rãi. Nhà nước ta luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi

để cho nhân dân lao động có thể tham gia tích cực vào hoạt động quản lý hành chính Nhà
nước. Để đảm bảo cho nhân dân lao động được tham gia vào quản lý hành chính Nhà nước,
Nhà nước ta đã ghi nhận nguyên tắc này trong Hiến pháp và các Luật như: Luật bầu cử Quốc
hội và Hội đồng nhân dân, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật khiếu
nại, tố cáo, Luật thanh tra, Luật phòng chống tham nhũng,…trong đó quy định cụ thể các
điều kiện, hình thức, phương thức để nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý hành chính
8

Nguyễn Đức Thắng N09- TL4


Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước

Nhà nước như việc các đại biểu, cơ quan Nhà nước phải tiếp nhận và giải quyết các đề xuất,
kiến nghị, khiếu nại của người dân, tiếp thu các ý kiến đóng góp vào việc ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật, các chương trình kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Các luật về tổ
chức chính trị - xã hội như Luật Mặt trận tổ quốc, Luật công đoàn cụ thể hóa các quy định
của Hiến pháp về vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong quản lý hành chính nhà
nước. Ngoài ra, Nhà nước còn ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện quyền
tham gia vào quản lý hành chính Nhà nước của nhân dân lao động như: Nghị định số
29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã;
Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg ngày 19/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng và
thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, ấp, cụm dân cư; Nghị định số 79/2003/NĐ-CP
ngày 13/2/1999 của Chính phủ ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp Nhà
nước; Nghị định số 87/2007/NĐ-CP ngày 28/5/2007 của Chính phủ ban hành quy chế thực
hiện dân chủ ở công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong thời gian qua việc tham
gia vào hoạt động của các cơ quan Nhà nước của nhân dân được đảm bảo, nhân dân lao động
nếu đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật và có năng lực đều có thể tham
gia vào các cơ quan Nhà nước. Việc bầu cử đại biểu cũng ngày càng thể hiện đúng ý kiến

của người dân, giúp cho hiệu quả làm việc của Quốc hội ngày càng được nâng cao. Để đảm
bảo cho toàn thể cử tri có thể đi bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân thì Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân quy định ngày bầu cử là
ngày chủ nhật.
Tuy nhiên, bên cạnh đó thì việc vận dụng nguyên tắc này còn có một số điểm chưa
hợp lý. Hiến pháp quy định nhân dân có quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước thông qua việc trưng cầu ý dân nhưng hiện nay vấn đề trưng cầu ý dân chưa được triển
khai thực hiện, Luật trưng cầu dân ý vẫn đang chỉ là một dự án. Việc tiếp dân và giải quyết
những thắc mắc cho nhân dân của các đại biểu Quốc hội vẫn còn mang tính hình thức, hiệu
quả của hoạt động này chưa cao. Việc tham gia vào các hoạt động tự quản ở địa phương của
nhân dân thực hiện chưa được đồng bộ, mạnh mẽ mà chỉ lẻ tẻ ở một số đơn vị. Việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo cho người dân chưa được thực hiên tốt. Nhiều đơn thư khiếu nại, tố
cáo của công dân chưa được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết hợp lý gây mất
lòng tin của nhân dân vào chính quyền. Sở dĩ còn có những hạn chế này là do các nguyên
nhân.
Do nhận thức xã hội, nhận thức của những người quản lý. Mặc dù hiện nay tư tưởng
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân đã được phổ biến
trong xã hội nhưng việc nhận thức đúng về tư tưởng này vẫn còn khoảng cách. Những người

9

Nguyễn Đức Thắng N09- TL4


Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước

quản lý vẫn còn thiếu tin tưởng ở người dân. Ngược lại chính người dân cũng coi đó chỉ là
nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước mà không phải là của mình.
Trình độ dân trí nhất là trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn rất hạn chế.
Hiện nay không chỉ kiến thức pháp luật của người dân còn thấp mà ý thức chấp hành pháp

luật của người dân không cao. Chính vì vậy khi tham gia vào công việc quản lý hành chính
Nhà nước người dân vẫn còn đang rất lung túng.
Việc tổ chức các hình thức, phương thức tham gia của người dân được các cơ quan
Nhà nước thực hiện cũng chưa thật khoa học. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật được tổ
chức lấy ý kiến của người dân chưa thật sự hướng vào các đối tượng bị điều chỉnh. Việc tiếp
thu giải quyết các vấn đề mà nhân dân đưa ra chậm và luôn bị tránh né làm giảm long tin và
nhiệt tình của nhân dân.
Trình độ sử dụng công nghệ thông tin để tham gia đóng góp ý kiến cho các văn bản
pháp luật của người dân còn thấp. Sự phổ cập bào chí điện tử mới chỉ giới hạn ở các thành
phố và một số đối tượng.
3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện nguyên tắc nhân dân lao
động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính Nhà nước.
Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, sửa đổi cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội
đồng nhân dân sao cho những người được bầu phải gắn bó với người dân, phản ánh được ý
chí, nguyện vọng của người dân không còn đại diện chung chung, hình thức.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách nên hành chính Nhà nước, đổi mới cơ cấu tổ chức và
phương thức hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Mở rộng sự công khai, minh bạch, tạo cơ
hội để người dân nằm bắt được các công việc của Nhà nước một cách chủ động, thiết thực
và hiệu quả. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, công chức trong việc tiếp thu
ý kiến và nguyện vọng của nhân dân.
Tiếp tục có các biện pháp giáo dục, nâng cao trình độ nhất là ý thức chính trị, tinh
thần pháp luật của người dân, làm cho người dân tự giác và có ý thức hơn nữa trong việc
tham gia vào công việc xã hội và hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
Nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng trong việc tuyên truyền, giáo dục và tổ
chức tham gia của người dân đối với việc xây dựng chính sách, pháp luật.
Sử dụng tốt hơn các phương tiện thông tin đại chúng. Mở rộng việc sử dụng các bào
điện tử trong việc tuyên truyền các chính sách, pháp luật của Nhà nước và thu thập, phản ánh
các ý kiến đóng góp, tham gia của nhân dân.
III.


Kết Luận
Như vậy, nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính
nhà nước là một nguyên tắc quan trọng và vô cùng thiết thực trong quản lý hành chính nhà
nước. Nó góp phần không nhỏ trong việc vận hành bộ máy quản lý của nhà nước ta, thúc đẩy
10

Nguyễn Đức Thắng N09- TL4


Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước

các quá trình khác hoạt động hiệu quả hơn. Đánh giá đúng đắn vai trò của nguyên tắc này,
Đảng và Nhà nước ta cần phải nhìn đươc những hạn chế, những tích cực trong quá trình thực
hiện nguyên tắc và đề ra những biện pháp tích cực đê vận dụng nó ngày một tốt hơn.

11

Nguyễn Đức Thắng N09- TL4


Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. CAND, Hà
Nội 2011. “Chương III Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước “
2.
3.
4.

5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội.
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Luật Mặt trận tổ quốc Việt nam.
Luật cán bộ, công chức.
Luật tổ chức Chính phủ.
http:// www.tapchicongsan. Org.vn.
http:// www.Nhandan.com.vn



12

Nguyễn Đức Thắng N09- TL4



×