Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

VẤN ĐỀ NÂNG CAO PHÁP LUẬT ĐỂ ĐẢM BẢO NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG ĐẢO VÀO QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.42 KB, 12 trang )

Luật hành chính Việt Nam

MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................................................................................................................................1
C- KẾT LUẬN 11.....................................................................................................................................1
BÀI LÀM....................................................................................................................................................1
A- ĐẶT VẤN ĐỀ......................................................................................................................................1
B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ........................................................................................................................1
I. NGUYÊN TẮC NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG ĐẢO VÀO QUẢN LÝ HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC.................................................................................................................................2
1, Cơ sở pháp lý.................................................................................................................................2
2, Biểu hiện của nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà
nước....................................................................................................................................................2
II- VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG ĐẢO VÀO
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.................................................................................................4
1. Mặt tích cực....................................................................................................................................4
2. Mặt hạn chế. .................................................................................................................................8
III- NGUYÊN NHÂN DẪN TỚI HẠN CHẾ TRONG VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NHÂN DÂN
LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG ĐẢO VÀO QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.....................9
IV- VẤN ĐỀ NÂNG CAO PHÁP LUẬT ĐỂ ĐẢM BẢO NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA
ĐƠNG ĐẢO VÀO QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC..............................................................10
1. Về vấn đề pháp luật......................................................................................................................10

C- KẾT LUẬN ...........................................................................................................11

BÀI LÀM
A- ĐẶT VẤN ĐỀ
Với bản chất nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt
Nam phải thể hiện được quyền làm chủ của nhân dân đối với quyền lực nhà nước,
thơng qua nhiều hình thức khác nhau. Trong đó, nhà nước đã tạo những điều kiện


quan trọng để nhân dân có thể tham gia vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước.

B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

Khoa pháp luật kinh tế- Trường đại học Luật Hà Nội

1


Luật hành chính Việt Nam
I. NGUYÊN TẮC NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐƠNG ĐẢO VÀO
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.

1, Cơ sở pháp lý.
Với bản chất dân chủ sâu sắc, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân được nhà nước xã hội chủ nghĩa ghi nhận và đảm bảo thực hiện. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa do chính nhân dân lao động tự tổ chức để thực hiện quyền lực của mình.
Nó là một tổ chức được lập ra nhằm phát huy tài năng, sức lực của người lao công
trong việc gánh vác các công việc của Nhà nước và xã hội nhằm phục vụ lợi ích của
chính họ. Ghi nhận nội dung này, Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm
2001) nêu rõ: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với gia cấp
nơng dân và tầng lớp trí thức”.
Để nhân dân lao động thực sự giữ vai trò là người làm chủ đất nước, việc tạo điều
kiện để nhân dân lao động tham gia vào quản lý hành chính nhà nước phải được ghi
nhận và đảm bảo thực hiện như là một nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính
nhà nước. Điều 3 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định:
“Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân
dân”. Quyền được tham gia vào quản lý các công việc của Nhà nước và xã hội là

quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận và trên thực tế nó đã bảo đảm
thực hiện thơng qua hàng loạt các hoạt động cụ thể.
Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào hoạt động quản lý hành
chính nhà nước khẳng định vai trị quan trọng của nhân dân lao động trong quản lý
hành chính nhà nước, đúng như nguyên lý khoa học “Nhân dân là gốc của quyền lực
nhà nước” mà chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra và thực tiện lịch sử đã chứng minh.
Mặt khác, nó cũng xác định những nhiệm vụ mà nhà nước phải thực hiện trong việc
đảm bảo những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động tham gia vào quản lý hành
chính nhà nước.
2, Biểu hiện của nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo

vào quản lý hành chính nhà nước.

Trong quản lý hành chính nhà nước, nguyên tắc này thể hiện ở những hình thức
tham gia vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước của nhân dân lao động. Đây là
những hình thức được pháp luật ghi nhân và đảm bảo thực hiện bằng các phương tiện
của nhà nước.Các hình thức tham gia vào quản lý hành chính nhà nước của nhân dân
lao động bao gồm:
a. Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Các cơ quan trong bộ máy nhà nước là cơng cụ để thực hiện quyền lực nhà nước.
Vì vậy, tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước là hình thực tham gia tích

Khoa pháp luật kinh tế- Trường đại học Luật Hà Nội

2


Luật hành chính Việt Nam
cực, trực tiếp và có hiệu quả của người lao động vào hoạt động quản lý hành chính
nhà nước. Người lao động nếu đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu mà pháp luật quy

định đều có thể tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước để trực tiếp hay
gián tiếp thực hiện công việc quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trước hết, người lao động có thể tham gia vào cơ quan quyền lực nhà nước với tư
cách là thành viên của cơ quan này- những đại biểu được lựa chọn thông qua con
đường bầu cử. Ở cương vị này, người lao động trực tiếp xam xét và quyết định các
vấn đề quan trọng của nhà nước, của từng địa phương, trong đó có các vấn đề về quản
lý hành chính nhà nước.
Bên cạnh đó, nhân dân lao động có thể tham gia vào hoạt dộng của các cơ quan
nhà nước khác (cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử) với
tư cách là những cán bộ, công chức. Là cán bộ, công chức của Nhà nước, nhân dân
lao động sẽ sử dụng một cách trực tiếp quyền lực nhà nước để tiến hành những công
việc khác nhau của quản lý hành chính nhà nước, thể hiện vai trị người làm chủ đất
nước, làm chủ xã hội của mình. Họ sẽ có đầy đủ các điều kiện để biến ý chí, nguyện
vọng của mình thành hiện thực nhằm “Xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công
bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện” (Điều 3 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)).
Ngoài ra, những người lao động có thể gián tiếp tham gia vào vào hoạt động của
các cơ quan nhà nước thông qua việc thực hiện lựa chọn những đại biểu xứng đáng
thay mặt mình vào cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương hay địa phương. Đây là
cách thức rộng rãi nhất để nhân dân lao động có thể tham gia vào quản lý các công
việc của Nhà nước.
b. Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội.
Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động có thể tham gia một cách
tích cực vào hoạt động của các tổ chức xã hội. Nhà nước ban hành nhiều quy định liên
quan tới vị trí, vai trị, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức xã hội trong quản lý hành
chính nhà nước nói riêng và của quản lý nhà nước nói chung. Điều 9 Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”. Bên cạnh đó, nhà nước cũng
giúp đỡ về vật chất, và tinh thần để cho các tổ chức xã hội thực sự trở thành công cụ
đắc lực của nhân dân lao động trong việc thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước

của mình. Thơng qua các hình thức hoạt động của các tổ chức xã hội, vai trò chủ động
sáng tạo của nhân dân lao động được phát huy trong quản lý hành chính nhà nước.
Trên thực tế, các tổ chức xã hội đã thu hút một lượng đông đảo quần chúng nhân dân
lao động tham gia vào quản lý hành chính nhà nước. Vì vậy, đây là một hình thực
hoạt động rất có ý nghĩa đối với việc thúc đẩy và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.

Khoa pháp luật kinh tế- Trường đại học Luật Hà Nội

3


Luật hành chính Việt Nam
c. Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở.
Ở nơi cư trú, sinh hoạt, làm việc, nhân dân lao động thường xuyên thực hiện các
hoạt động mang tính chất tự quản. Đây là những hoạt động do chính nhân dân lao
động tự thực hiện và chúng có mối liên quan chặt chẽ với các công việc khác nhau
của quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Các hoạt động tự quản ở cơ sở như an ninh trật
tự, vệ sinh môi trường, tổ chức đời sống công cộng…. đều rất gần gũi và thiết thực
đối với cuộc sống của mỗi người dân. Thông qua những hoạt động mang tính chất tự
quản mà người dân lao động là những chủ thể tham gia tích cực, quyền tham gia quản
lý nhà nước, quản lý xã hội của người dân là pháp luật đã quy định thực sự được tôn
trọng và đảm bảo thực hiện. Nhà nước đã tạo những điều liện cần thiết về vật chất và
tinh thần để phát huy vai trị chủ động, tích cực của nhân dân lao động trong việc
tham gia những hoạt động mang tính tự quản nêu trên.
d. Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý
hành chính nhà nước.
Điều 53 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) đã quy định cơng dân có
quyền “Tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung
của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước

tổ chức trưng cầu ý dân”. Để thực hiện quyền cơ bản này, pháp luật đã quy định các
quyền và nghĩa vụ cụ thể của công dân trong các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành
chính nhà nước. Những quyền, nghĩa vụ này của cơng dân có thể thực hiện thơng qua
hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội (như đã phân tích ở phần
trên) hoặc cũng có thể được chính người dân trực tiếp thực hiện. Việc trực tiếp thực
hiện các quyền và nghĩa vụ này cũng chính là một hình thức tham gia vào quản lý
hành chính nhà nước của nhân dân lao động. Cùng với sự phát triển của xã hội, các
quyền và nghĩa vụ của công dân ngày càng được tôn trọng và đảm bảo thực hiện một
cách đầy đủ hơn. Do vậy, đây là một hình thức có ý nghĩa quan trọng để nhân dân lao
động phát huy vai trò làm chủ của mình.
II- VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐƠNG
ĐẢO VÀO QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
1. Mặt tích cực.
a. Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước.
 Nhân dân trực tiếp tham gia vào quản lý nhà nước chủ yếu với tư cách là cán
bộ, cơng chức. Do đó, để đáp ứng cho nhân dân có thể tham gia vào quản lý nhà nước
với tư cách này, nhà nước đã đưa ra luật cán bộ công chức, nêu ra rõ nhiệm vụ, chức
năng của cán bộ, cơng chức trong quản lý hành chính nhà nước. Luật Cán bộ, cơng
chức (CB-CC) có hiệu lực từ ngày 01/01/2010. Theo những quy định của luật
này, thì làm một người CB-CC sẽ không hề đơn giản. Để tham gia vào hoạt động

Khoa pháp luật kinh tế- Trường đại học Luật Hà Nội

4


Luật hành chính Việt Nam
quản lý hành chính nhà nước được tốt, nhà nước cũng yêu cầu cán bộ, công chức phải
là những người có cả phẩm chất đạo đức tốt và năng lực làm việc cao.
Nếu như trước đây, vấn đề đạo đức và văn hóa giao tiếp của CB-CC chủ yếu

được quy định dựa trên quy chế của cơ quan, đơn vị, thì với Luật CB-CC nhằm thực
hiện chủ trương xây dựng và quản lý đội ngũ công chức có đủ phẩm chất, năng lực,
trình độ vấn đề đạo đức và văn hóa giao tiếp đã được đưa thẳng vào luật (Điều 15,
16,17 Luật CB-CC). Ví dụ như với nhân dân, theo Luật CB-CC phải gần gũi, có tác
phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ
ràng, mạch lạc và tuyệt đối khơng được hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà
cho nhân dân khi thi hành công vụ. Trong tình trạng cán bộ cơng chức “đánh mất nụ
cười” khi tiếp dân như hiện nay thì những quy định này có thể nói là tương đối cần
thiết và sát thực.
Và tất nhiên, nếu CB-CC vi phạm các quy định này thì sẽ bị xử lý bằng pháp
luật. Có thể nói, Luật đã khá “mạnh tay” xử lý CB-CC kém đạo đức, văn hóa thơng
qua việc phân định lại hình thức kỷ luật áp dụng cho từng đối tượng Bên cạnh những
hình thức xử lý kỷ luật cũ như: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, cách chức, buộc
thôi việc, thì có bổ sung thêm hình thức giáng chức. Tuy nhiên, việc giáng chức, cách
chức chỉ áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. Mặt khác, luật có
quy định thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng, kể từ thời điểm có hành vi vi phạm (trước
đây là 03 tháng). Với việc kéo dài thời hiệu như vậy, vấn đề xử lý kỷ luật CB-CC vi
phạm sẽ được tiến hành triệt để và nghiêm minh hơn.
Việc tuyển dụng CB-CC vào của nước ta hiện nay cịn khá nhiều bất cập và kẽ
hở vì nhiều lý do khách quan, chủ quan nên đã tạo ra ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng của đội ngũ CB-CC. Có thế nói, khơng có một cơ quan, tổ chức nào hiện nay
có may mắn sở hữu được một đội ngũ công chức vừa hồng lại vừa chuyên, và ở đâu
đó vẫn cịn những “con sâu làm rầu nồi canh”. Thực trạng này đặt ra yêu cầu phải
đánh giá công chức và quan trọng hơn là kết quả đánh giá phải được phục vụ cho
chính cơng cuộc cải tổ đội ngũ công chức.
Theo Luật CB-CC, công chức được đánh giá 6 tiêu chí như: chấp hành đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc; năng lực, trình độ chun mơn, nghiệp
vụ; tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ… Ngoài ra, cơng chức lãnh đạo, quản lý
cịn được đánh giá theo kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao lãnh

đạo, quản lý; năng lực lãnh đạo, quản lý; năng lực tập hợp, đồn kết cơng chức. Việc
đánh giá công chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên quản lý trực
tiếp thực hiện và nhất thiết phải được tiến hành hàng năm, trước khi bổ nhiệm, quy
hoạch, điều động, đào tạo, bồi dưỡng, khi kết thúc thời gian luân chuyển, biệt phái.
Kết quả đánh giá công chức (xếp theo các mức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; hoàn
thành tốt nhiệm vụ; hồn thành nhiệm vụ nhưng cịn hạn chế về năng lực; khơng hồn

Khoa pháp luật kinh tế- Trường đại học Luật Hà Nội

5


Luật hành chính Việt Nam
thành nhiệm vụ) được lưu vào hồ sơ công chức và thông báo đến công chức được
đánh giá.
Đáng chú ý sẽ là yếu tố năng lực rất được xem trọng trong hoạt động đánh giá
công chức. Vì vậy, từ kết quả đánh giá, nếu cơng chức có 2 năm liên tiếp hồn thành
nhiệm vụ nhưng cịn hạn chế về năng lực hoặc có 2 năm liên tiếp, trong đó 1 năm
hồn thành nhiệm vụ nhưng hạn chế về năng lực và 1 năm khơng hồn thành nhiệm
vụ thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền bố trí cơng tác khác. Cịn cơng chức 2
năm liên tiếp khơng hồn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền
giải quyết thơi việc.
 Người lao động có thể gián tiếp tham gia hoạt động vào cơ quan nhà nước
thông qua thực hiện quyền lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình vào cơ
quan quyền lực nhà nước ở trung ương hay địa phương. Vì vậy, nhân dân đã tích cực
thực hiện quyền bầu cử của mình. Đã có tới 95% cử tri đi bỏ phiếu để bầu ra người
xứng đáng thay mặt mình vào cơ quan quyền lực nhà nước.
b. Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của các tổ chức xã hội có ý nghĩa quan trọng trong
đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Là bộ phận của hệ thống chính trị, các

tổ chức xã hội đã góp phần to lớn vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Các tổ chức xã hội rất đa dạng về hình
thức và tên gọi như: Liên hiệp hội, tổng hội, liên đồn, hiệp hội. Ví dụ, Hội liên hiệp
phụ nữ Việt Nam, hội cựu chiến binh, Hội nhà văn, Hội nhà báo… Các tổ chức xã hội
này đã thu hút được số lượng lớn nhân dân tham gia. Chúng ta có lấy ví dụ như ở Hội
liên hiệp phụ nữ đã thu hút được gần 11 triệu hội viên. Các tổ chức xã hội có vai trò
quan trọng trong việc giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, trước hết là các thành
viên trong đó. Thông qua những quy định trong điều lệ hoạt động của tổ chức xã hội,
thông qua hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật thường xuyên đối với các thành
viên, các tổ chức xã hội luôn hướng tới nâng cao ý thức cho nhân dân. Đồng thời hoạt
động của các tổ chức này cịn nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
các thành viên.
c. Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở.
Trong các phong trào hoạt động tự quản của nhân dân ở cơ sở, chúng ta phải kể tới
phong trào toàn dân tham gia phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật ở cơ sở.
Phong trào tồn dân tham gia phịng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật đã thu
được những kết quả tốt. Thực tế những năm qua cho thấy, nhiều vụ việc tiêu cực,
tham nhũng trong bộ máy nhà nước cũng như các vụ án nghiêm trọng đã kịp thời
được phát hiện và xử lý từ nguồn tin được quần chúng cấp báo.
Chúng ta có thể kể ra được một số mơ hình nhân dân tham gia phịng, chống tội
phạm đạt được kết quả tốt như: "Thơn, xóm, bản, làng, khu dân cư khơng có tội phạm
và tệ nạn xã hội” ở Thanh Hóa; "Hộ tự quản, số nhà tự phòng", "Ba quản, bốn giữ" ở

Khoa pháp luật kinh tế- Trường đại học Luật Hà Nội

6


Luật hành chính Việt Nam
thành phố Hà Nội; "thanh niên tình nguyện phịng chống tội phạm ma túy", "phường,

xã, ấp, tổ dân phố khơng có tội phạm ẩn nấp" ở TP.HCM; "Giáo xứ, họ giáo khơng có
tội phạm, khơng ma túy, không tệ nạn xã hội" ở Nam Định...
d. Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành
chính nhà nước.
 Hoạt động kiểm tra, giám sát trực tiếp của nhân dân đối với bộ máy nhà nước,
đặc biệt ở các cấp cơ sở đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Quyền kiểm tra, giám sát trực tiếp đối với hoạt động của mọi cơ quan và nhân
viên trong bộ máy nhà nước là một quyền hiến định của công dân. Mặc dù cho đến
nay vẫn chưa có được một cơ chế pháp lý hiệu quả để nhân dân thực hiện rộng rãi và
đầy đủ quyền này nhưng trong thời gian qua việc kiểm tra, giám sát của nhân dân đối
với cán bộ, công chức nhà nước, đặc biệt là tại các cấp cơ sở đã có nhiều hình thức
hợp lý và đã đạt được những kết quả nhất định. Thông qua việc kiểm tra, giám sát
nhiều người dân đã mạnh dạn tố cáo khi phát hiện thấy những hành vi vi phạm pháp
luật cũng như đạo đức công vụ của các cán bộ, công chức nhà nước trong các cơ quan
thẩm quyền.
Ngoài ra để tăng cường hiệu lực kiểm tra giám sát của nhân dân đối với cán bộ,
công chức nhà nước tại cơ sở, thực hiện nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003
của chính phủ, nhiều địa phương đã tổ chức rộng rãi việc lấy phiếu tín nhiệm đối với
chức danh chủ tịch hội đồng nhân dân và chủ tịch ủy ban nhân dân tại các xã, phường,
thị trấn. Thông qua hoạt động này, người dân đã có nhiều cơ hội hơn để góp ý, phê
bình, chất vấn và thực hiện sự tín nhiệm của mình đối với các chức danh chủ chốt của
chính quyền cơ sở. Thơng qua việc bỏ phiếu tín nhiệm của cử tri, các chức danh chủ
chốt của chính quyền xã có tỉ lệ số phiếu tín nhiệm thấp dưới 50% số người tham gia
thì sẽ bị hội đồng nhân dân xã đưa ra bãi nhiệm theo quy định của pháp luật.
Nền dân chủ trong nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải thiết lập được cơ chế giám
sát hữu hiệu từ bên ngoài bộ máy nhà nước, trước hết là cơ chế giám sát thường xuyên,
thực chất và có hiệu quả từ phía nhân dân - chủ thể quyền lực nhà nước đối với các cơ
quan và cán bộ thực thi quyền lực nhà nước, kể cả đối với cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất do nhân dân trực tiếp bầu ra. Giám sát xã hội đối với tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước có tác dụng hỗ trợ cho giám sát mang tính quyền lực nhà nước.

Cùng với xu hướng dân chủ hóa đời sống xã hội, giám sát xã hội đối với tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước ngày càng được tăng cường và mở rộng, bảo đảm sự vận
hành của tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước có hiệu quả, khoa học, nhằm mục
đích xây dựng và hồn thiện pháp quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Quan hệ đa chiều thể hiện ở việc chủ thể quyền lực nhà nước quản lý tác động
đến khách thể là nhân dân, các tổ chức trong xã hội. Nhưng với bản chất dân chủ xã
hội chủ nghĩa, nhân dân, các tổ chức có quyền giám sát, kiểm tra, kiểm soát chủ thể

Khoa pháp luật kinh tế- Trường đại học Luật Hà Nội

7


Luật hành chính Việt Nam
trong việc thực hiện pháp luật, khách thể tác động trở lại đối với chủ thể quyền lực
nhà nước thông qua giám sát, chế ước, phản hồi đối với tổ chức và thực thi quyền lực
nhà nước. Pháp luật dân chủ không quy định cho nhà nước quyền cho hay không cho,
hoặc buộc khách thể cầu xin những quyền được hưởng, mà chủ yếu là chứng nhận,
xác nhận về mặt nhà nước - nghĩa là xác nhận vốn được ủy quyền từ phía nhân dân,
nhằm bảo đảm trật tự, ổn định và phát triển xã hội, đồng thời, pháp luật dân chủ phải
quy định quyền hạn của công dân chế ước quyền lực nhà nước theo ngun tắc cơng
dân có thể làm tất cả những gì mà luật khơng cấm, nhà nước chỉ làm những gì mà luật
cho phép và quyền lực nhà nước phải được chế ước và giám sát bởi chủ thể đích thực
của nó là nhân dân.
Việc giám sát xã hội đối với tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước đã hình
thành và phát triển từ khi nhà nước dân chủ nhân dân được thiết lập cho đến nay. Hệ
thống giám sát đó với nhiều hình thức, cơng cụ và khơng ngừng được củng cố, hoàn
thiện nhằm tạo điều kiện để nhân dân có khả năng giám sát một cách có hiệu quả,
khoa học đối với tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước.

 Ngoài ra, người dân cũng đã mạnh dạn đề xuất các kiến nghị, và đồng thời
cũng đã đưa ra các giải pháp góp phần đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt
động của bộ máy hành chính nhà nước.
Khi được nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý, người dân đã tham gia nhiệt tình
tham gia, đóng góp ý kiến xây dựng nhà nước.

2. Mặt hạn chế.
 Ý thức, thái độ của nhiều người dân trong việc thực hiện quyền khiếu nại, tố
cáo còn nhiều bất cập.
Trong những người tham gia khiếu nại, tố cáo cịn nhiều trường hợp vì thiếu
hiểu biết hoặc cố chấp mà cố tình khiếu nại kéo dài, vượt cấp, tố cáo sai sự thật…
thậm chí, một số phần tử quá khích coi thường pháp luật, ngang nhiên thách đố, xâm
phạm trụ sở cơ quan công quyền, xúc phạm, đe dọa và hành hung những người thi
hành công vụ.
 Về phía nhà nước, cơ quan, cơng chức nhà nước cịn thiếu trách nhiệm trong
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Thậm chí cịn có tình trạng cố tình bao
che, dây dưa kéo dài trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo gây bất bình trong dư
luận và làm giảm sút niền tin và tâm huyết của nhân dân đối với việc tham gia quản lý
hành chính nhà nước.
 Việc đóng góp ý kiến, đề xuất kiến nghị của nhân dân đối với cơ quan nhà
nước trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật vẫn cịn hạn chế. Trong nhiều năm
qua, số lượng các kiến nghị, ý kiến từ phía nhân dân đối với cơ quan nhà nước từ
trung ương đến địa phương vẫn cịn rất ít. Tâm lý chung của người dân nước ta vẫn
còn ỷ lại, trơng chờ, phó mặc những cơng việc chung cho nhà nước.

Khoa pháp luật kinh tế- Trường đại học Luật Hà Nội

8



Luật hành chính Việt Nam
 Hệ thống văn bản pháp luật về sự tham gia trực tiếp của nhân dân và quản lý
nhà nước cịn chưa hồn thiện và thiếu đồng bộ, đặc biệt là các quy phạm pháp luật
quy định về cách thức, trình tự, thủ tục để cơng dân thực hiện được các quyền và
nghĩa vụ của mình đã được hiến pháp và luật quy định.
III- NGUYÊN NHÂN DẪN TỚI HẠN CHẾ TRONG VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC
NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐƠNG ĐẢO VÀO QUẢN LÝ HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC.
 Trước hết, là từ nhận thức của xã hội, của những người quản lý. Mặc dù hiện
nay tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân đã được phổ biến trong xã hội, nhưng việc nhận thức đúng về tư tưởng này vẫn
còn khoảng cách. Những người quản lý vẫn còn thiếu tin tưởng ở người dân, vẫn coi
việc quản lý nhà nước là cơng việc riêng vốn có của Nhà nước mà khơng phải là
nhiệm vụ của chính nhân dân trong việc quản lý xã hội.
Ngược lại, ý thức một bộ phận không nhỏ nhân dân vẫn là “Đèn nhà ai, nhà nấy
sáng”, thờ ơ với các công việc xã hội, chưa thấy sự gắn kết giữa lợi ích của bản thân
và gia đình mình với lợi ích của nhà nước và cộng đồng xã hội. Chính người dân cũng
coi đó là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, mà khơng phải là của mình. Vì lẽ đó, đã
làm hạn chế sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước.
 Thứ hai, quy định pháp lý chưa đủ mạnh và rõ để các cơ quan nhà nước, nhất
là các cơ quan đại biểu phải thực hiện các nhiệm vụ mà nhân dân ủy quyền và để nhân
dân kiểm soát sự ủy quyền của mình, cũng như để nhân dân tham gia trực tiếp nhiều
hơn vào các công việc của Nhà nước. Cơ chế đại biểu phải gắn với cử tri bầu ra mình,
cơ chế bắt buộc phải tiếp nhận và phản ánh các ý kiến, nguyện vọng của cử tri, hoặc
cơ chế cơng khai, minh bạch... vẫn cịn chưa được quy định đủ rõ, đủ mạnh.
 Thứ ba, ảnh hưởng của văn hóa hành chính cũ cịn khá nặng. Đã có một thời
gian dài ở Việt Nam, bộ máy nhà nước được xây dựng và hoạt động theo cơ chế tập
trung, bao cấp. Các cơ quan nhà nước được xây dựng theo một mơ hình thống nhất
chung, đứng ra làm tất cả mọi việc cho nhân dân theo sự chỉ huy tập trung từ bên trên
và đã mang lại nhiều kết quả cho người dân, vì thế nhân dân tin tưởng vào Nhà nước.

Nhưng cũng từ thực tế đó, lâu dần đã hình thành nên tâm lý và văn hóa hành chính mà
theo đó, các cơ quan, cơng chức coi việc xây dựng luật pháp, chính sách như là đặc
quyền riêng của mình và vì thế các cơng việc của Nhà nước ln khép kín, cịn nhân
dân ỷ lại, coi đó là cơng việc của Nhà nước, ít có quan tâm chung tới hoạt động của
Nhà nước và các chính sách, nếu khơng có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích cá nhân.
 Thứ tư, trình độ dân trí, nhất là trình độ về pháp luật, của người dân cịn rất hạn
chế. Hiện nay không chỉ kiến thức pháp luật của người dân còn thấp mà sự chấp hành,
ý thức, tinh thần pháp luật của người dân khơng cao. Chính vì vậy, khi tham gia vào
các công việc quản lý nhà nước, người dân rất lúng túng.

Khoa pháp luật kinh tế- Trường đại học Luật Hà Nội

9


Luật hành chính Việt Nam
 Thứ năm, việc tổ chức các hình thức, phương thức tham gia của người dân
được các cơ quan nhà nước thực hiện cũng chưa thật sự khoa học. Nhiều văn bản quy
phạm pháp luật được tổ chức xin ý kiến của người dân chưa thật sự hướng vào các đối
tượng bị điều chỉnh. Việc tiếp thu giải quyết các vấn đề mà nhân dân nêu ra chậm và
ln bị tránh, né làm giảm lịng tin và nhiệt tình của người dân.
 Thứ sáu, trình độ sử dụng cơng nghệ thơng tin để tham gia góp ý cho các văn
bản pháp luật của nhân dân còn thấp. Sự phổ cập báo chí điện tử mới giới hạn ở các
thành phố và một số đối tượng - thường đã là cán bộ, công chức nhà nước.
IV- VẤN ĐỀ NÂNG CAO PHÁP LUẬT ĐỂ ĐẢM BẢO NHÂN DÂN LAO ĐỘNG
THAM GIA ĐƠNG ĐẢO VÀO QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
1. Về vấn đề pháp luật.
Cần có một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật một cách đầy đủ, hợp lý và
thiết thực về sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý hành chính nhà nước.
Trước hết, cấn phải có đầy đủ, đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật quy định

về các nội dung và hình thức tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý hành chính
nhà nước. Các văn bản cần quy định một cách đầy đủ và cụ thể hóa một cách hợp lý
về các quyền và nghĩa vụ, phạm vi, giới hạn và các hình thức tham gia trực tiếp của
nhân dân vào quản lý hành chính nhà nước. Ngồi ra, cũng cần phải có các văn bản
quy phạm pháp luật quy định một cách rõ ràng, hợp lý về cách thức, trình tự, thủ tục
và các điều kiện bảo đảm khác để nhân dân có thể thực hiện việc tham gia một cách
trực tiếp vào quản lý hành chính nhà nước có hiệu quả trên thực tế. Nói cách khác,
phải có một hệ thống pháp luật hồn thiện cả về nội dung và hình thức, quy định sự
tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý hành chính nhà nước.
2. Vấn đề thực hiện tổ chức có hiệu quả các quy định của pháp luật trong việc
đảm bảo tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý hành chính nhà nước.
 Tiếp tục hồn thiện hệ thống thể chế, có cơ chế huy động người dân tham gia
vào quá trình quản lý của Nhà nước. Cần sửa đổi cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội và
Hội đồng nhân dân sao cho những người được bầu phải gắn bó với người dân, phản
ánh được ý chí nguyện vọng của người dân, khơng cịn đại diện chung chung, hình
thức. Họ phải chịu sự giám sát của nhân dân, gắn trách nhiệm, lợi ích với sự tín nhiệm
của nhân dân, khi khơng hồn thành được vai trò đại diện quyền lợi và nguyện vọng
của cử tri bầu cho thì họ phải bị bãi miễn. Nói một cách ngắn gọn, để sự tham gia
quản lý nhà nước qua các cơ quan đại diện của dân có hiệu quả, cần chuyển các đại
biểu được bầu của dân sang chế độ hoạt động chính trị chun nghiệp. Tách bạch,
khơng để vai trò lập pháp, đại biểu nhân dân và vai trị hành chính do cùng một cá
nhân thực hiện. Mở rộng hình thức quyết định trực tiếp - trưng cầu dân ý, để tồn dân
có quyền tham gia vào các công việc trọng đại của đất nước, của địa phương.

Khoa pháp luật kinh tế- Trường đại học Luật Hà Nội

10


Luật hành chính Việt Nam

 Tiếp tục đẩy mạnh cơng cuộc cải cách nền hành chính nhà nước. Đổi mới cơ
cấu tổ chức, phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước, mở rộng sự công khai,
minh bạch, tạo cơ hội để người dân nắm được công việc của Nhà nước để tham gia
một cách chủ động, thiết thực, hiệu quả. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước và của công chức trong việc tiếp thu các ý kiến và nguyện vọng của nhân dân.
 Để nâng cao hơn vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo sự tham gia trực tiếp
của nhân dân vào quản lý hành chính nhà nước cịn cần chứ trọng nâng cao hiệu quả
của công tác tổ chức thực hiện pháp luật. Trên thực tế, dù các quy định của pháp luật
có hồn thiện đến mấy mà cơng tác tổ chức thực hiện pháp luật khơng tốt thì hiệu quả
của pháp luật cũng sẽ không cao. Để nâng cao hiệu quả của công tác tổ chức thực hiện
pháp luật cần phải tiến hành một cách đồng bộ nhiều hoạt động như đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, giải thích pháp luật, khơng ngừng nâng cao ý
thức pháp luật cho cán bộ công chức cũng như ý thức về quyền làm chủ cũng như ý
thức về nghĩa vụ công dân, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện
pháp luật về sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý hành chính nhà nước.
Sử dụng tốt hơn các phương tiện thông tin đại chúng. Mở rộng việc sử dụng các
báo điện tử trong việc tuyên truyền các chính sách, pháp luật của Nhà nước và thu
thập, phản ánh các ý kiến đóng góp, tham gia của nhân dân.

C- KẾT LUẬN
Qua tìm hiểu những biểu hiện của nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông
đảo vào quản lý hành chính nhà nước chúng ta có thể thấy được ý nghĩa vô cùng to
lớn của nguyên tắc này. Do vậy chúng ta cần phát huy hơn nữa để nhân dân có thể
tham gia vào quản lý nhà nước một cách tốt nhất.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb.CAND, Hà Nội, 2008.
2. Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội,
Nxb.CTQG, Hà Nội, 2007.


Khoa pháp luật kinh tế- Trường đại học Luật Hà Nội

11


Luật hành chính Việt Nam
3. Luật hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001)
4. Http://tapchicongsan.org.vn

Khoa pháp luật kinh tế- Trường đại học Luật Hà Nội

12



×