Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.68 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
Trang
A.ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………………………………………….2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ………………………………………………………………2
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN………………………………….2
1. Khái niệm ……………………………………………………………..........................2
2. Đặc điểm……………………………………………………………….........................3
3. Nhận xét:………………………………………………………………........................3
II. TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN…………………........................4
1. Cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý công ty cổ phần:…………………………………...4
2. Thẩm quyền và thể thức hoạt động của các cơ quan trong bộ
máy tổ chức và quản lý công ty cổ phần……………………………………………….4
a. Đại hội đồng cổ đông:…………………………………………………………………5
b. Hội đồng quản trị……………………………………………………………………...8
c. Giám đốc (tổng giám đốc)……………………………………………………………
10
d. Ban kiểm soát………………………………………………………………………...12
3. Nghĩa vụ của người quản lý trong công ty cổ phần………………………………..12
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN……..13
1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức quản
lý công ty cổ phần……………………………………………………………………….13
2. Những định hướng cơ bản vào việc hoàn thiện các quy định pháp luật
về tổ chức quản lý công ty cổ phần…………………………………………………….14
3. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
về tổ chức quản lý công ty cổ phần…………………………………………………….15
C. KẾT LUẬN…………………………………………………………………………..16

1



A.ĐẶT VẤN ĐỀ
Khi có một tổ chức quản lý hợp lý thì mới cho phép sử dụng tốt các nguồn lực, giúp cho
việc ra các quyết định đúng đắn và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quyết định đó, điều hoà
phối hợp các hoạt động nhằm đạt được mục đích chung đề ra. Chính vì vậy bài viết dưới đây
với đề tài: “tổ chức và quản lý công ty Cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện hành” sẽ phần
nào giúp chúng ta hiểu hơn về tầm quan trọng của việc tổ chức và quản lý đối với các doanh
nghiệp, tổ chức kinh doanh mà cụ thể trong tình huống này là Công ty cổ phần.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Khái niệm:
Công ty cố phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của công ty được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu.
Theo điều 77 Luật Doanh Nghiệp 2005 có quy định:
“Điều 77: Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó:
Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số
lượng tối đa;
Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường
hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh.
Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn.”
2. Đặc điểm
Như đã nêu ở trên thì công ty Cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của
công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là
cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà

họ sở hữu. Như vậy công ty cổ phần có những đặc điểm cơ bản dựa vào đó chúng ta phân
biệt với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh. Những đặc điểm đó là:
- Về thành viên công ty: trong suốt quá trình hoạt động ít nhất phải có 3 thành viên tham
gia công ty cổ phần. Là loại công ty đặc trưng cho công ty đối vốn, cho nên có sự liên kết
của nhiều thành viên và vì vậy, việc quy định số thành viên tối thiểu phải có đã trở thành
2


thông lệ quốc tế trong mấy trăm năm tồn tại của công ty cổ phần. Ở hầu hết các nước đều có
quy định số thành viên tối thiểu của công ty cổ phần.
- Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị
mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong cổ phiếu. Một cổ phiếu có thể
phản ánh mệnh giá của một hoặc nhiều cổ phần. Việc góp vốn vào công ty được thực hiện
bằng cách mua cổ phần, mỗi cổ đông có thể mua nhiều cổ phần. Luật không hạn chế mỗi
thành viên được mua tối đa bao nhiêu phần trăm vốn điều lệ nhưng các thành viên có thể
thỏa thuận trong điều lệ giới hạn tối đa số cổ phần mà một thành viên có thể mua nhằm
chống lại việc một thành viên nào đó có thể nắm quyền kiểm soát công ty.
- Tính tự do chuyển nhượng phần vốn góp (cổ phần) của các thành viên được thể hiện
dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do công ty phát hành là một loại hàng hóa. Người có
cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.
- Về chế độ trách nhiệm: công ty cổ phần chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
bằng tài sản của công ty. Các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty (tức là đến hết giá trị cổ phần mà họ
sở hữu).
- Trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán (như cổ
phiếu, trái phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán để huy động
vốn. Điều này thể hiện khả năng huy động vốn lớn của công ty cổ phần.
- Công ty cổ phần là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Công ty có tư cách pháp nhân
kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
3. Nhận xét:

Qua những đặc điểm về công ty cổ phần thì ta nhận thấy được những ưu điểm và hạn chế
của công ty cổ phần:
- Những ưu điểm cơ bản của công ty cổ phần là khả năng huy động vốn cao, nhanh chóng
đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Kinh tế càng phát triển, càng thay đổi thì sự rủi ro càng cao và
hình thức công ty cổ phần là hình thức giúp nhà kinh doanh hạn chế rủi ro, tránh được rủi ro
bằng cách cùng một lúc đầu tư vào nhiều công ty khác nhau vì công ty cổ phần là công ty
của nhiều người và chế độ trách nhiệm là hữu hạn. Tổ chức công ty cổ phần có tinh thần
dân chủ cao nên phát huy được trí tuệ của nhiều người và kinh tế càng phát triển thì lợi thế
này lại càng trở lên quan trọng.
- Công ty cổ phần có những hạn chế nhất định như: công ty cổ phần với chế độ trách
nhiệm hữu hạn đem lại nhiều lợi nhuận cho công ty tuy nhiên phần rủi ro các chủ nợ, các cổ
đông tham gia gánh chịu. Mặt khác, các chủ cổ phần không quen biết nhau và nhiều người
trong họ không hiểu kinh doanh, mức độ tham gia góp vốn vào công ty có sự khác nhau do
đó mức độ ảnh hưởng của các cổ đông đối với công ty là không giống nhau, điều đó có thể
3


dẫn đến việc lợi dụng, lạm dụng hoặc nảy sinh tranh chấp và phân hoá lợi ích giữa các
nhóm cổ đông khác nhau. Công ty cổ phần tuy có sự tổ chức chặt chẽ nhưng sự phân công
về quyền lực và chức năng của từng bộ phận cho hoạt động của công ty rất phức tạp. Hoạt
động kinh doanh phụ thuộc vào tỉ lệ góp vốn tất yếu quyền kiểm soát công ty vẫn trong tay
các cổ đông lớn. Việc khắc phục những hạn chế này phụ thuộc vào trình độ phát triển chung
của nền kinh tế, trình độ dân trí, trình độ điều hành quản lý của nhà nước và của hệ thống
pháp luật hoàn thiện về vốn, có khả năng huy động về vốn lớn và sự điều chuyển vốn linh
hoạt giữa các nhà đầu tư, thích hợp cho hoạt động kinh doanh trên quy mô lớn.
II. TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý công ty cổ phần:
Theo luật Doanh nghiệp cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần được thiết kế theo hai
mô hình khác nhau tuỳ thuộc vào số lượng cổ đông của công ty. Đối với những công ty cổ
phần có trên 11 cổ đông trở lên là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng

số cổ phần của công ty thì cơ cấu tổ chức quản lý bắt buộc phải có: Đại Hội Đồng Cổ Đông;
Hội Đồng Quản Trị; Giám Đốc (hoặc Tổng Giám Đốc) và Ban kiểm soát. Đây là mô hình tổ
chức quản lý truyền thống và điển hình của công ty cổ phần. Với mô hình này, việc tổ chức
quản lý công ty phải có sự phân công, phân nhiệm và chế ngự lẫn nhau giữa các cơ quan
quản lý, điều hành và kiểm soát công ty. Như vậy thì công ty cổ phần có dưới 11 cổ đông
đến 3 cổ đông thì cơ cấu tổ chức quản lý công ty không nhất thiết phải có ban kiểm soát.
Tuy nhiên thì những công ty này vẫn có quyền thành lập ban kiểm soát trong bộ máy tổ
chức quản lý của mình.
2. Thẩm quyền và thể thức hoạt động của các cơ quan trong bộ máy tổ chức và
quản lý công ty cổ phần.
Công ty cổ phần được tổ chức quản lý theo cơ chế có sự tách biệt khá rõ ràng giữa quyền
sở hữu và quyền quản lý công ty cổ phần. Quyền quản lý công ty được tập trung ở bộ máy
quản lý có tính chuyên nghiệp và các cổ đông nắm quyền sở hữu công ty có quyền bầu ra
bộ máy quản lý công ty. Trên phương diện khoa học thì quyền quản lý công ty có thể được
chia thành ba nhóm cơ bản sau đây:
- Quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến sự tồn tại của công ty.
- Quyền xây dựng chiến lược, kế hoạch hoạt động kinh doanh và hoạt động điều hành
hoạt động kinh doanh của công ty.
- Quyền kiểm tra giám sát hoạt động của công ty.
Theo luật doanh nghiệp các quyền quản lý công ty cổ phần được phân chia cho các cơ
quan khác nhau là: ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ (TGĐ), BKS (nếu có).
Sự phân chia thẩm quyền cụ thể được xác định trong điều lệ của công ty trên cơ sở quy
định của pháp luật. Về nguyên tắc công ty cổ phần được tổ chức quản lý tập trung thông
4


qua cơ chế hội đồng. Theo đó đại hội đồng cô đông là cơ quan có thẩm quyền quyết định
cao nhất của công ty, tuy nhiên quyền tự quyết định trong tổ chức quản lý công ty phải tuân
thủ khuôn khổ pháp luật. Những ràng buộc của pháp luật về nhiệm vụ quyền hạn và thể
thức hoạt động của các cơ quan trong bộ máy tổ chức quản lý công ty chính là khuôn khổ

pháp luật đó. Những quy định ràng buộc này có tính chất là điều khoản thường lệ điều lệ
công ty. Nếu điều lệ công ty không quy định thì mặc nhiên công ty phải tuân thủ theo quy
định của pháp luật. Mặt khác nếu điều lệ công ty có quy định cụ thể hoá cho phù hợp với
mỗi công ty thì không được trái với quy định của pháp luật. Đây là cơ sở lý luận quan trọng
để giải thích và áp dụng các quy định trong luật doanh nghiệp về quyền hạn, nhiệm vụ, thể
thức hoạt động của ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ, BKS trong bộ máy tổ chức quản lý công ty cổ
phần.
a. Đại hội đồng cổ đông:
* Thành phần tham gia họp:
ĐHĐCĐ là cơ quan có thẩm quyền quyết định cao nhất trong công ty cổ phần, bao gồm
tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết. Trong trường hợp cổ đông là tổ chức thì cổ đông có
quyền đề cử một hoặc một số người đại diện theo uỷ quyền thực hiện các quyền cổ đông
của mình theo quy định của pháp luật. Nếu có nhiều hơn một người đại diện theo uỷ quyền
được cử thì phải xác định cụ thể số cổ phần và số phiếu bầu của mỗi người đại diện. Việc
cử, chấm dứt hoặc thay đổi người đại diện theo uỷ quyền đều phải được thông báo bằng văn
bản tới công ty trong thời hạn sớm nhất. Thông báo phải có các nội dung chủ yếu như: tên,
địa chỉ, thường trú, quốc tịch, số và ngày quyết định thành lập hoặc đăng kí kinh doanh của
cổ đông; số lượng cổ phần, loại cổ phần và ngày đăng kí cổ phần tại công ty, họ, tên, địa chỉ
thường trú, quốc tịch, số chứng minh nhân dân, hộ chiếu hay chứng thực cá nhân hợp pháp
khác của người đại diện theo uỷ quyền, số cổ phần được uỷ quyền đại diện theo uỷ quyền,
họ tên, chữ kí của người đại diện theo uỷ quyền và người đại diện theo pháp luật của cổ
đông. Trường hợp có sự thay đổi về người đại diện theo uỷ quyền của cổ đông là tổ chức thì
công ty phải gửi thông báo về người đại diện theo uỷ quyền đến cơ quan đăng kí kinh
doanh trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày thông báo.
*Nhiệm vụ, quyền hạn và hoạt động của đại hội đồng cổ đông.
Với tư cách là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của công ty cổ phần, được hợp
thành bởi tất cả những người chủ thực sự của công ty, ĐHĐCĐ có quyền xem xét và quyết
định những vấn đề chủ yếu quan trọng nhất của công ty cổ phần như cổ phần và tổng số cổ
phần của từng loại được quyền chào bán, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên hội đồng quản
trị, thành viên ban kiểm soát (nếu có); quyết định sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty, quyết

định tổ chức lại, giải thể công ty… các quyền và nghĩa vụ cụ thể của ĐHĐCĐ được quy
định tại luật doanh nghiệp 2005 và điều lệ công ty. Là cơ quan tập thể, ĐHĐCĐ không làm
5


việc thường xuyên mà chỉ tồn tại trong thời gian họp và ra quyết định trên cơ sở biểu quyết
tại cuộc họp và lấy ý kiến của các cổ đông có quyền biểu quyết bằng văn bản.
ĐHĐCĐ họp ít nhất mỗi năm 1 lần và được triệu tập bởi HĐQT, Chủ tịch HĐQT chủ toạ
cuộc họp ĐHĐCĐ, điều kiện, thể thức tiến hành họp và ra quyết định của ĐHĐCĐ được
thực hiện theo quy định tại các điều từ điều 97 đến điều 106 luật doanh nghiệp 2005.
So với Luật doanh nghiệp năm 1999, Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định cụ thể hơn
về hình thức, thời gian, địa điểm họp ĐHĐCĐ. HĐQT phải triệu tập họp bất thường
ĐHĐCĐ trong các trường hợp sau đây – HĐQT xét thấy cần thiết vì lợi ích của công ty:
- Số thành viên HĐQT còn lại ít hơn số thành viên theo quy định của pháp luật.
- Theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ
thông trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng hoặc một tỉ lệ nhỏ hơn quy định tại điều lệ công
ty.
- Theo yêu cầu của ban kiểm soát.
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về điều lệ công ty.
Điểm mới cần chú ý tới về thẩm quyền triệu tập họp ĐHĐCĐ là trong trường hợp HĐQT
không triệu tập ĐHĐCĐ như quy định thì chủ tịch hội đồng quản trị phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại phát sinh với công ty. Tương tự như vậy trong
trường hợp BKS không triệu tập họp ĐHĐCĐ như quy định thì trưởng BKS phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại phát sinh với công ty. Việc bổ sung quy
định mới này nhằm đề cao vai trò trách nhiệm của cá nhân người có thẩm quyền.
Chủ tịch HĐQT và trưởng BKS là những người giữ trọng trách trong hoạt động của công
ty cổ phần, vì vậy việc đề cao trách nhiệm của họ là cần thiết, nhằm đảm bảo cho việc triệu
tập họp ĐHĐCĐ diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Ngoài ra thì luật
cũng bổ sung quy định cổ đông hoặc nhóm cổ đông triệu tập họp ĐHĐCĐ trong trường hợp
BKS không triệu tập họp ĐHĐCĐ có thể đề nghị cơ quan đăng kí kinh doanh giám sát việc

triệu tập và tiến hành họp nếu xét thấy cần thiết.
Về điều kiện thể thức tiến hành họp ĐHĐCĐ, điều 76 Luật Doanh nghiệp năm 1999 quy
định chủ yếu về điều kiện tiến hành họp ĐHĐCĐ mà chưa đề cập cụ thể đến thể thức họp
và biểu quyết tại cuộc họp ĐHĐCĐ mà chưa đề cập cụ thể đến thể thức họp và biểu quyết
tại cuộc họp ĐHĐCĐ. Nhằm bổ sung những khiếm khuyết này Luật Doanh nghiệp 2005 đã
có Điều102 quy định về điều kiện tiến hành họp ĐHCĐ; Điều 103 quy định về thể thức tiến
hành họp và biểu quyết tại ĐHĐCĐ. Thay đổi đáng kể nhất trong điều kiện tiến hành họp
ĐHĐCĐ là cuộc họp ĐHĐCĐ chỉ được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất
65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết. Cuộc họp ĐHĐCĐ triệu tập lần thứ hai được tiến
hành khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết, tỉ
lệ cụ thể là do điều lệ công ty quy định. Trước đây tỉ lệ này một mặt nhằm đảm bảo sự phù
6


hợp với pháp luật quốc tế, mặt khác cũng đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả,
tránh việc lạm dụng quyền hạn của nhóm cổ đông.
Quy định về việc thông qua quyết định của ĐHĐCĐ có nhiều điểm mới, Luật Doanh
nghiệp 2005 quy định cụ thể về các quyết định phải được thông qua bằng biểu quyết tại
cuộc họp ĐHĐCĐ như: sửa đổi bổ sung điều lệ công ty, thông qua định hướng phát triển
công ty, quyết định loại và tổng số cổ phần từng loại được quyền chào hoặc bán số tài sản
có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần
nhất của công ty nếu điều lệ công ty không quy định một tỉ lệ khác, thông qua báo cáo tài
chính hàng năm tổ chức lại; giải thể công ty.
Quyết định của ĐHĐCĐ được thông qua khi được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng
số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận. Đối với các vấn đề quan trọng
như quyết định về loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán; sửa
đổi bổ sung điều lệ công ty, tổ chức lại, giải thể công ty, quyết định đầu tư hoặc bán số tài
sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất
của công ty nếu điều lệ công ty không quy định một tỉ lệ khác thì phải được số cổ đông đại
diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp nhận. Việc quy

định tỉ lệ tăng lên từ 51% lên 65%; 75% như trong Luật Doanh nghiệp 2005 nhằm bảo đảm
sự thống nhất ý chí, nguyện vọng của các cổ đông trong công ty. Việc thông qua quyết định
của ĐHĐCĐ, bên cạnh hình thức họp truyền thống, Luật Doanh nghiệp 2005 còn bổ xung
một hình thức mới là lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản (Điều 105). Theo đó HĐQT có quyền
lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản để thông qua quyết định của ĐHĐCĐ bất cứ lúc nào nếu
xét thấy cần thiết vì lợi ích của công ty. HĐQT phải chuẩn bị để lấy phiếu ý kiến, dự thảo
quyết định của ĐHĐCĐ và các tài liệu giải trình dự thảo quyết định. Phiếu lấy ý kiến kèm
theo dự thảo quyết định và tài liệu giải trình phải được gửi bằng phương thức bảo đảm đến
được địa chỉ thường trú của từng cổ đông. Đối với trường hợp này sau khi kiểm tra phiếu thì
quyết định của ĐHĐCĐ được thông qua nếu được số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số
cổ phiếu chấp thuận.
b. Hội đồng quản trị
Để có được những lợi ích như TNHH, thời gian hoạt động lâu dài và khả năng chuyển
nhượng cổ phiếu, nhà đầu tư trao quyền quản lý công ty cổ phần cho một nhóm người được
uỷ thác nhiệm vụ ra những quyết định vì lợi ích cao nhất của mọi nhà đầu tư vào công ty
chứ không vì một bộ phận nhà đầu tư nào đó. Nhóm người được uỷ thác này được các cổ
đông bầu chọn, được gọi là HĐQT. Những lợi ích của cổ đông, thành viên HĐQT và người
quản lý đôi khi có thể xung đột. Chẳng hạn một số cổ đông có thể muốn nhận cổ tức trong
khi các cổ đông khác và những người điều hành lại muốn tái đầu tư lợi nhuận và thúc đẩy
sự tăng trưởng của doanh nghiệp. HĐQT phải giải quyết những lợi ích xung đột này thông
7


qua những quyết định về lợi ích cao nhất cho công ty và mọi cổ đông của công ty. Do đó
quy định về quản lý công ty phải đảm bảo HĐQT có vai trò lãnh đạo chiến lược trong công
ty và giám sát có hiệu quả đối với công tác quản lý công ty cũng như trách nhiệm của
HĐQT trước công ty và các cổ đông. Luật doanh nghiệp 2005 quy định về HĐQT như sau:
*Nhiệm vụ và quyền hạn:
HĐQT là cơ quan quản lý của công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định
mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty trừ những vấn đề thuộc thẩm

quyền của ĐHĐCĐ bầu ra, HĐQT có thể hiểu là cơ quan đại diện chủ sở hữu, thay mặt chủ
sở hữu thực hiện chức năng quản trị điều hành công ty. Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy
định nhiệm vụ, quyền hạn của HĐQT tại Điều108. So với Luật Doanh nghiệp 1999 thì Luật
Doanh nghiệp 2005 quy định HĐQT được bổ xung một quyền mới là giám sát, chỉ đạo
Giám đốc (tổng Giám đốc) và người quản lý khác trong điều hành công việc kinh doanh
hàng ngày của công ty. Việc bổ sung quy định này nhằm giám sát chặt chẽ hơn nữa hoạt
động quản lý của những người quản lý công ty, tránh tình trạng lạm dụng quyền hậnhy thực
hiện giao dịch trái pháp luật, điều lệ công ty và quyết định của ĐHĐCĐ.
Trong trường hợp quyết định của HĐQT thông qua trái với quy định của pháp luật hoặc
điều lệ công ty gây thiệt hại cho công ty thì các thành viên chấp thuận thông qua, quyết định
đó phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về quyết định đó và phải đền bù thiệt hại cho công
ty; thành viên phản đối không thông qua quyết định nói trên được miễn trừ trách nhiệm
(Điều 108).
*Thành viên HĐQT
Thành viên HĐQT do ĐHĐCĐ bầu ra, gồm 3 đến 11 thành viên trong đó số thành viên
phải cư trú ở Việt Nam do điều lệ công ty quy định. Nhiệm kì của thành viên HĐQT là
nhiệm kì HĐQT nhưng thành viên HĐQT có thể được bầu lại với số nhiệm kì không hạn
chế. Trong trường hợp có thành viên được bầu bổ sung để thay thế thành viên bị miễn
nhiệm hoặc bãi nhiệm thì nhiệm kì của thành viên đó là thời gian còn lại của nhiệm kì
HĐQT. Thành viên của HĐQT có thể bị bãi nhiệm, miễn nhiệm bởi quyết định của
ĐHĐCĐ. Thành viên HĐQT có thể là cổ đông hay cũng có thể không phải là cổ đông của
công ty. Luật Doanh nghiệp 2005 quy định cụ thể về thành viên HĐQT tại Điều 109, 110,
114 và 115.
Nhằm tạo lập khung pháp lý cho việc tổ chức hoạt động của doanh nghiệp, Luật Doanh
nghiệp 2005 quy định HĐQT có ít nhất 3 thành viên và không quá 11 thành viên nếu điều lệ
công ty công có quy định khác; nhiệm kì của HĐQT là 5 năm. Nhiệm kì của thành viên
HĐQT không quá 5 năm và thành viên HĐQT có thể được bầu lại với số nhiệm kì không
hạn chế. Thành viên HĐQT không nhất thiết phải là cổ đông của công ty.
8



Thành viên của HĐQT phải là người có đủ năng lực hành vi dân sự, không thuộc đối
tượng bị cấm quản lý doanh nghiệp và là cổ đông cá nhân sở hữu ít nhất 5% tổng số cổ
phần phổ thông hoặc người khác có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm quản lý kinh doanh
hoặc ngành nghề kinh doanh chủ yếu của công ty hoặc tiêu chuẩn, điều kiện khác theo quy
định của điều lệ công ty đối với công ty con là công ty mà nhà nước sở hữu cổ phần trên
50% vốn điều lệ thì thành viên hội đồng quản trị không được là người liên quan của người
quản lý, người có thẩm quyền bổ nhiệm quản lý công ty mẹ.
Đối với chủ tịch HĐQT, theo quy định của Luật Doanh nghiệp 1999 (Điều 81) thì chủ
tịch HĐQT do HĐQT bầu trong số thành viên HĐQT còn theo quy định của Luật Doanh
nghiệp 2005 (điều 111) thì việc bầu chủ tịch HĐQT quy định theo hướng mở, giao quyền tự
chủ cho doanh nghiệp quyết định tại ĐHĐCĐ hoặc HĐQT nhưng phải được thể hiện rõ
trong điều lệ công ty.
Liên quan đến việc miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên HĐQT, ngoài trường hợp không
đủ điều kiện và tiêu chuẩn làm thành viên HĐQT, ngoài trường hợp không đủ điều kiện và
tiêu chuẩn làm thành viên, có đơn xin từ chức hay các trường hợp do Điều lệ công ty quy
định, Luật Doanh nghiệp 2005 bổ xung 1 trường hợp miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên
HĐQT trong 6 tháng liên tục, trừ trường hợp bất khả kháng. Việc bổ sung quy định này có
ý nghĩa nhằm nâng cao trách nhiệm của thành viên HĐQT trong việc điều hành hoạt động
của công ty. Ngoài các trường hợp trên thành viên HĐQT có thể bị miễn nhiệm, bãi nhiệm
bất cứ lúc nào theo quyết định của ĐHĐCĐ.
*Cuộc họp HĐQT
Họp HĐQT là một nội dung quan trọng trong hoạt động của HĐQT. HĐQT họp định kì
hoặc bất thường nhưng phải họp ít nhất 1 quý 1 lần tại trụ sở chính hoặc nơi khác. Cuộc họp
HĐQT được Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định cụ thể tại Điều 112.
Các quy định về họp HĐQT trong Luật Doanh nghiệp 2005 cũng có nhiều thay đổi so với
Luật Doanh nghiệp năm 1999. Điều 112 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định cụ thể các
trường hợp chủ tịch HĐQT có quyền triệu tập họp HĐQT mà không quy định chung chung
như Luật Doanh nghiệp 1999. Theo đó chủ tịch HĐQT phải triệu tập họp HĐQT khi có đề
nghị của BKS; của GĐ(tổng GĐ) hoặc ít nhất 5 người quản lý khác của ít nhất 2 thành viên

HĐQT hoặc trường hợp khác theo quy định của điều lệ công ty đề nghị triệu tập họp HĐQT
phải được lập thành văn bản, trong đó nêu rõ mục đích vấn đề cần thảo luận và quyết định
thuộc thẩm quyền của HĐQT. Cuộc họp HĐQT được tiến hành khi có 3/4 tổng số thành
viên trở lên dự họp(trước đây là 2/3). Quyết định của HĐQT được thông qua nếu được đa
số thành viên dự họp chấp thuận. Trường hợp số phiếu ngang nhau thì quyết định cuối cùng
thuộc về phía có ý kiến của chủ tịch HĐQT.
9


Trong các cuộc họp HĐQT, việc ghi biên bản vào sổ biên bản là vấn đề quan trọng. Vậy
nên Luật Doanh Nghiệp năm 2005 đã dùng Điều 113 để quy định về biên bản họp HĐQT.
Biên bản phải có đầy đủ nội dung sau: tên, địa chỉ trụ sở chính, số và ngày cấp giấy chứng
nhận đăng kí kinh doanh, nơi đăng kí kinh doanh, mục đích, chương trình và nội dung họp,
thời gian địa điểm họp, họ tên từng thành viên họp hoặc người được quyền dự họp, họ tên
các thành viên không dự họp và lý do; các vấn đề được thảo luậnvà biểu quyết tại cuộc họp,
tóm tắt phat biểu ý kiến của từng thành viên dự họp theo trình tự, diễn biến của cuộc họp,
kết quả biểu quyết trong đó ghi rõ những thành viên tán thành, không tán thành và có ý
kiến; các quyết định đã được thông qua, họ tên, chữ kí của tất cả các thành viên hoặc người
đại diện theo uỷ quyền dự họp. Chủ toạ và thư kí phải chịu trách nhiệm về tính chính xác và
trung thực của biên bản họp HĐQT. Biên bản họp HĐQT lập bằng tiếng Việt và có thể
bằng cả tiếng nước ngoài, giá trị ngang nhau.
c. Giám đốc (tổng giám đốc)
Cũng giống như Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp 2005 tiếp tục quy định
GĐ(TGĐ) là người điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty, chịu sự giám
sát của HĐQT và chịu trách nhiệm trước HĐQT và trước pháp luật về việc thực hiện các
quyền và nhiệm vụ được giao. HĐQT bổ nhiệm một người trong số các thành viên hoặc
thuê người khác làm GĐ (TGĐ) nếu điều lệ công ty không có quy định khác. Nhiệm vụ
quyền hạn và các quy định cụ thể khác về GĐ (TGĐ) được quy định tại Điều 116 và 117
Luật Doanh nghiệp 2005. So với Luật Doanh nghiệp 1999 thì Luật Doanh nghiệp 2005 quy
định một số vấn đề liên quan đến nhiệm kì, chế độ trách nhiệm,quyền và nghĩa vụ tiền

lương, tiền thưởng của GĐ (TGĐ) đầy đủ hơn, cụ thể: Nhiệm kì của GĐ (TGĐ) là không
quá 5 năm và có thể được bổ nhiệm lại với số nhiệm kì không hạn chế. GĐ (TGĐ) công ty
không đồng thời là GĐ (TGĐ) của công ty khác. GĐ (TGĐ) do HĐQT quyết định. GĐ
(TGĐ) được bổ sung thêm 2 quyền mới so với Luật Doanh nghiệp 1999 đó là quyền tuyển
dụng lao động và quyền kiến nghị phương án trả cổ tức hoặc sử lý lỗ trong kinh doanh.
Đồng thời luật cũng bổ xung quy định GĐ (TGĐ) có trách nhiệm điều hành công việc kinh
doanh hàng ngày theo đúng quy định của pháp luật, điều lệ công ty, hợp đồng lao động kí
với công ty và quyết định của HĐQT; nếu điều hành trái với quy định này mà gây thiệt hại
cho công ty thì GĐ (TGĐ) phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và bồi thường thiệt hại cho
công ty.
d. Ban kiểm soát
Hoạt động của công ty luôn tiểm ẩn nguy cơ xuất hiện những giao dịch bất minh do sự
lạm dụng quyền lực của những nhà quản lý, lãnh đạo công ty. Do đó BKS ra đời để hạn chế
tình trạng này. Luật Doanh nghiệp 2005 quy định về thành viên, quyền hạn và nhiệm vụ và
một số vấn đề khác về BKS khá cụ thể từ Điều 121 đến Điều 127.
10


Trong CTCP, BKS có chức năng giám sát HĐQT, GĐ (TGĐ) trong việc quản lý điều
hành công ty. BKS chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
được giao. So với Luật Doanh nghiệp 1999 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định về BKS đầy
đủ và cụ thể hơn đó là:
Về nhiệm kì: BKS có nhiệm kì không quá 5 năm , các thành viên BKS có thể được bầu
lại với số nhiệm kì không hạn chế (Điều 121).
Về tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên BKS: thành viên BKS phải từ 21 tuổi trở lên,
đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm thành lập và quản lý doanh
nghiệp, không phải vợ, chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột
của thành viên HĐQT, GĐ (TGĐ) và người quản lý khác của công ty. Thành viên BKS
không được giữ chức vụ quản lý công ty và không nhất thiết phải là cổ đông hay người lao
động của công ty (Điều 122).

Về nhiệm vụ và quyền hạn của BKS: BKS có quyền và nhiệm vụ xem xét sổ kế toán và
các tài liệu khác của công ty, các công việc quản lý và điều hành hoạt động của công ty bất
cứ lúc nào nếu xét thấy cần thiết hoặc theo quyết định của ĐHĐCĐ hoặc theo yêu cầu của
cổ đông hoặc nhóm cổ đông. Khi có yêu cầu của cổ đông hay nhóm cổ đông sở hữu trên
10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng hoặc một tỉ lệ khác
nhỏ hơn quy định trong điều lệ công ty thì BKS có trách nhiệm thực hiện kiểm tra trong
thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc điều tra, BKS phải báo cáo giải trình về
nhưũng vấn đề được yêu cầu kiểm tra đến HĐQT và cổ đông, nhóm cổ đông có yêu cầu.
Việc kiểm tra của BKS không được làm cản trở tới hoạt động bình thường HĐQT, không
gây gián đoạn điều hành hoạt động của công ty. Khi phát hiện có thành viên HĐQT, GĐ
(TGĐ) vi phạm nghĩa vụ của người có quyền quản lý công ty thì phải thông báo ngay bằng
văn bản với HĐQT, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt ngay hành vi vi phạm và
có giải pháp khắc phục hậu quả. BKS có quyền sử dụng tư vấn độc lập để thực hiện các
nghĩa vụ được giao. Việc mở rộng quyền hạn của BKS là nhằm nâng cao vai trò của BKS
đối với hoạt động của công ty, đảm bảo cho công ty hoạt động hiệu quả, đặc biệt tránh tình
trạng gian lận trong tài chính (Điều 123).
Về thù lao và các lợi ích khác của thành viên BKS: thành viên BKS được trả thù lao theo
công việc và được hưởng các lợi ích khác theo quyết định của ĐHĐCĐ quyết định tổng
mức thù lao và ngân sách hàng năm của BKS căn cứ vào số ngày làm việc dự tính, số lượng
và tính chất công việc và mức thù lao bình quân hàng ngày của thành viên. Thành viên BKS
được thanh toán chi phí ăn, đi lại, ở, chi phí sử dụng dịch vụ tư vấn độc lập với mức hợp lý.
Tổng mức thù lao và chi phí này không được vượt quá tổng ngân sách hoạt động hàng năm
của BKS đã được ĐHĐCĐ chấp thuận, trừ trường hợp ĐHĐCĐ có quyết định khác. Thù
lao và chi phí hoạt động của BKS được tính vào chi phí kinh doanh theo quy định của pháp
11


luật về thuế thu nhập doanh nghiệp, pháp luật có liên quan và phải thành mục riêng trong
báo cáo tài chính hàng năm của công ty.
3.Về nghĩa vụ của người quản lý trong doanh nghiệp.

So với Luật doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp 2005 có quy định rõ ràng hơn, cụ thể
hơn về nghĩa vụ của thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người
quản lý khác, những trường hợp này phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao theo đúng quy định của Luật Doanh
nghiệp, pháp luật có liên quan, Điều lệ công ty, quyết định của Đại hội đồng cổ đông;
b) Thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất
nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa của công ty và cổ đông của công ty; c) Trung thành
với lợi ích của công ty và cổ đông của công ty; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội
kinh doanh của công ty, lạm dụng địa vị, chức vụ và tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục
vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác; d) Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho công ty
về các doanh nghiệp mà họ và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có phần vốn góp, cổ
phần chi phối; thông báo này được niêm yết tại trụ sở chính và chi nhánh của công ty.
Ngoài các quy định trên, những người quản lý công ty cổ phần không được tăng lương, trả
thưởng khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợ đến hạn và phải thực hiện các nghĩa
vụ khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 và điều lệ công ty
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN.
1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức quản lý công
ty cổ phần.
Về khía cạnh tổ chức quản lý công ty cổ phần, luật doanh nghiệp 2005 đã xác định nền
tảng cho cơ chế điều hành hoạt động giữa các bộ phận ttrong công ty. So với các luật trước
đó thì luật doanh ngiệp 2005 đã quy định đầy đủ hơn góp phần tạo lập một khung pháp lý,
hình thành cơ cấu quản lý có hiệu quả cho các công ty cổ phần hiện nay. Mặc dù vậy thì
nhìn chung, kiến thức về tổ chức quản lý công ty cổ phần cũng như thực tế triển khai vẫn
còn nhiều điều mới mẻ. Nhiều công ty cổ phần đã và đang gặp phải các vấn đề liên quan
đến quản lý công ty. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy các công ty cổ phần cần nghiên cứu và
tiến tới áp dụng những chuẩn mực về quản lý nội bộ trong hoạt động của mình. Chính vì thế
mà đặt ra vấn đề cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức quản lý
công ty cổ phần.
Thứ nhất: Hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm hạn chế sự thiếu đồng bộ và bất

cập của hệ thống phàp luật kinh tế.Thực tế cho thấy hệ thống pháp luật kinh tế nói riêng và
hệ thống pháp luật nói chung thiếu sự đồng bộ và chứa đựng khá nhiều bất cập. có những
văn bản pháp luật hiện hành vẫn chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ thiếu thống nhất, còn
12


chung chung, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật… Chính những hạn chế này đã hạn chế
quyền chủ động và khiến cho các chủ thể kinh doanh không phát huy hết tiềm năng của
mình chưa đáp ứng được những yêu cầu to lớn của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Mặt khác thì hệ thống pháp luật nước ta còn có nhiều quy định chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế, đã làm ảnh hưởng xấu đến quá trình hội nhập quốc tế và khu vực của nhà
nước ta. Nhà nước bất cập này đã hạn chế khả năng điều tiết của nhà nước đối với nền kinh
tế và tác động xấu tới sự phát triển lành mạnh của các quan hệ kinh tế thị trường. Vậy nên
cần có những đổi mới và sửa đổi một cách căn bản và có hệ thống các văn bản pháp luật
kinh tế hiện hành, làm cho các văn bản này thực sự đóng vai trò là cơ sở pháp lý cần thiết
để khuyến khích sức sáng tạo của hoạt động pháp lý trong các công ty cổ phần ở Việt Nam.
Thứ hai: hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của
các công ty cổ phần trong nước. Hiện nay, các công ty không những cạnh tranh về chất
lượng sản phẩm, dịch vụ, tăng cường khả năng chiếm lĩnh thị trường… mà còn cạnh tranh
bằng chính chất lượng quản lý công ty. Một hệ thống pháp lý tốt sẽ giúp công ty cổ phần tạo
dựng được một nền tảng vững chắc để pháp triển. Sự phát triển này giúp cân bằng giữa lợi
ích của công ty với lợi ích chung của xã hội cũng như của các bên tham gia vào hoạt động
quản lý. Và hệ thống quản lý tốt sẽ tạo được sức mạnh của bản thân công ty cùng với niềm
tin đối với các nhà đầu tư. Dẫn đến tăng cường được khả năng thu hút các nguồn vốn trên
thị trường vốn và tạo ra sức hấp dẫn với thị trường lao động.
Thứ ba: hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm tăng cường năng lực hội nhập với
kinh tế quốc tế..Hiện nay trên thế giới, toàn cầu hóa về kinh tế đã làm cho các công ty ở
nhiều quốc gia khác nhau xích lại gần hơn trong nhiều lĩnh vực hoạt động. Vậy nên muốn
hoạt động trên thương trường quốc tế đòi hỏi các quốc gia phải có một hệ thống pháp luật
hoàn thiện phù hợp với thông lệ quốc tế. Và Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập quốc

tế sâu sắc trong nhiều lĩnh vực. Chính quá trình này đã đặt các doanh nghiệp trong nước
trước nhiều thách thức to lớn về sự tồn tại. Đó là sự mở rộng cạnh tranh từ thị trường nội
địa sang thị trường khu vực quốc tế. Đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần phải thể hiện được khả
năng và sức mạnh của mình. Vậy nên công ty cổ phần ở Việt Nam phải chuẩn bị cac điều
kiện cần thiết cho việc hội nhập, trong đó có hội nhập về quản lý công ty. Việc sửa đổi bổ
sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế nói chung, các quy định về pháp luật doanh
nghiệp nói riêng là cần thiết. Trong quá trình sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản
pháp luật về tổ chức, quản lý và hoạt động của công ty cổ phần cần quán triệt nguyên tắc
đảm bảo sự tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật các nước trong khu vực và
trên thế giới, bởi không thể tạo ra các “ốc đảo” riêng biệt cho mình mà phải hội nhập một
cách bình đẳng vào “sân chơi” chung của khu vực và thế giới.
13


2. Những định hướng cơ bản vào việc hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức
quản lý công ty cổ phần.
Thứ nhất: đảm bảo đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường.
Đảm bảo cho các yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường được phát huy tác dụng là một
trong những đòi hỏi cơ bản và có tính nguyên tắc khi xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật kinh tế của nước ta, xây dựng nền pháp trị trong lĩnh vực kinh tế. Xây dựng được các
yêu cầu của nền kinh tế thị trường, thể chế hóa chúng không chỉ trong các nguyên tắc chung
và trong mỗi chế định và quy phạm cụ thể là một yêu cầu quan trọng của hệ thống pháp luật
kinh tế. Không thể có phát triển kinh tế thị trường thực sự nếu không đảm bảo quyền tự do
sử hữu, tự do kinh doanh, quyền bình đẳng và tính tự chủ của các chủ thể kinh tế thị trường.
Thứ hai: đảm bảo sự quản lý vĩ mô của nhà nước đối với toàn bộ hoạt động kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước không can thiệp sâu vào hoạt động của doanh
nghiệp. Với các quy luật cung cầu của nó thì thị trường trở thành công cụ điều tiết chủ yếu
nền kinh tế. Thị trường tác động trực tiếp lên lợi ích cụ thể của doanh nghiệp nhà nước – đại
diện cho lợi ích công cộng can thiệp thông qua các biện pháp mang tính vĩ mô khác nhau và
để có được sự ổn định trong quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thì tất cả các biện pháp

tác dụng vĩ mô đến nền kinh tế phải được thể chế hóa thành luật.
Thứ ba: đảm bảo tối đatính khách quan của việc xây dựng pháp luật.
Thực tế cho thấy cơ chế xác định pháp luật hiện nay chưa cho phép đảm bảo sự thống
nhất cần thiết. Hiện tại dự thảo các văn bản pháp luật kinh tế đều do các bộ có sáng kiến
pháp luật tự xây dựng, tình trạng này sẽ tạo ra các văn bản mang tính chất “cục bộ”. Dẫn
đến việc có nhiều trường hợp nội dung ko phản ánh được lợi ích tổng thể. Phần lớn các văn
bản pháp luật kinh tế ít khi được đưa ra tham khảo ý kiến của các nhà khoa học hay các
doanh nhân. Vì vậy có chăng nên thành lập một tiểu ban soạn văn bản luật hay nghị định
độc lập với bộ ngành liên quan. Chuyên gia tham gia dự thảo phải là người có chuyên môn
thực sự. Ngoài ra cần khắc phục tình trạng dùng quá nhiều văn bản có hiệu lực thấp để giải
thích, hướng dẫn thực hiện văn bản có hiệu lực cao hơn, khiến cho hệ thống pháp luật cũng
trở nên thêm cồng kềnh, phức tạp.
Thứ tư: đảm bảo quyền lợi của các cổ đông, đặc biệt là các cổ đông thiểu số.
Công ty cổ phần bao gồm nhiều cổ đông, họ không phải lúc nào cũng có thể tham gia
trực tiếp vào quản lý điều hành hoạt động của công ty. Các cổ đông bầu ra các cơ quan thay
mình thực hiện việc tổ chức hoạt động công ty và mỗi cổ đông đều mong muốn bộ máy này
đảm bảo các quyền và lợi ích của mình. Đặc biệt cổ đông thiểu số sở hữu ít cổ phần nhưng
lại là lực lượng khá đông đảo. Tạo sự tin tưởng cho họ là cần thiết để giữ cho cơ cấu cổ
đông ổn định. Vậy nên tổ chức quản lý cũng cần quan tâm và đảm bảo quyền lợi của các cổ
đông, đặc biệt là các cổ đông thiểu số.
14


3. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức
quản lý công ty cổ phần.
Thứ nhất: hoàn thiện quy định về mở rộng công khai thông tin về công ty cổ phần. Thông
tin đầy đủ, minh bạch là một yếu tố đánh giá sức mạnh quản lý của công ty cổ phần. Đây là
nền tảng quan trọng để các nhà quản lý đề ra kế hoạch hoạt động cho công ty, đồng thời
cũng là cơ sở để các nhà đầu tư và đối tác có quyết định đúng đắn. Trong luật doanh nghiệp
có quy định về công khai thông tin về công ty cổ phần, nhưng ở nơi đây mới chỉ quy định

về loại thông tin và quyền xem xét hoặc sao chép thông tin của mọi cá nhân, tổ chức. Vấn
đề đặt ra là thông tin được công khai nhưng đó phải là những thông tin chính xác, phản ánh
đúng thực trạng và năng lực của công ty. Có một số trường hợp thông tin không chính xác
vì nhiều mục đích khác nhau. Cho nên, để thông tin được minh bạch và chính xác, chúng ta
cần bổ sung các quy định về giám sát lập bản báo cáo tài chính… buộc doanh nghiệp cam
kết về tính chính xác và có những chế tài xử phạt nếu vi phạm, quy định cụ thể hơn và trình
tự, yêu cầu về lưu trữ thông tin tại doanh nghiệp.
Thứ hai: cần phải có những quy định hạn chế giám đốc (tổng giám đốc) kiêm nhiệm vị trí
giám đốc (tổng giám đốc) ở một công ty khác. Giám đốc cần phải có thời gian và khả năng
để giải quyết công việc. Việc kiêm nhiệm quá nhiều làm giảm năng suất và hiệu quả làm
việc của giám đốc (tổng giám đốc) và gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của doanh nhân.
Thứ ba: về quy định giám đốc hay tổng giám đốc có thể là người được thuê. Về nguyên
tắc pháp luật lao động sẽ điều chỉnh những quan hệ hợp đồng này. Tuy nhiên bởi vai trò và
tầm ảnh hưởng của giám đốc ( tổng giám đốc) là rất lớn, nếu một quyết định sai có thể sẽ
gây hại đến toàn thể công ty, nên chăng cần đặt ra các quy định cụ thể về giám đốc làm
thuê. Ví dụ như về trách nhiệm của giám đốc làm thuê. Mặt khác, thực tế cho thấy hoạt
động của giám đốc (tổng giám đốc) được thuê còn phụ thuộc vào các cơ quan quản lý khác
của công ty, do đó không đảm bảo được vai trò điều hành thống nhất của giám đốc ( tổng
giám đốc) đặc biệt là trong các công ty cổ phần có vốn nhà nước trên 51%. Do đó quy định
thêm về quyền hạn trách nhiệm của giám đốc ( tổng giám đốc) nhằm nâng cao tính độc lập
của họ trong quản lý điều hành công ty cổ phần, tránh sự phụ thuộc là điều khá cần thiết.
Thứ tư, cần quy định về việc chuyển cổ phần cho người thừa kế và chia tài sản ly hôn.
Quy định cụ thể vấn đề này giúp tránh xung đột pháp luật (bộ luật dân sự 2005 cũng quy
định về vấn đề này) đồng thời tạo điều kiện để giải quyết các vụ việc trên thực tế.
Thứ năm, cần phải có những quy định nhằm hạn chế sự chi phối cổ phần nhà nước trong
các công ty cổ phần mà nhà nước cũng nắm giữu cổ phần. Thực tế cho thấy, nhiều chỉ định
của nhà nước trong việc tổ chức quản lý nội bộ công ty đã làm hạn chế quyền và tính chủ
động của đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc).
15



Thứ sáu là việc cử đại diện của cổ đông là tổ chức vào hội đồng quản trị. Đây cũng là
điều cần bổ sung trong quy định pháp luật về tổ chức quản lý công ty cổ phần. ví dụ: cần
quy định cụ thể về điều kiện tổ chức được cử người đại diện vào hội đồng quản trị, điều
kiện người đại diện, nội dung quyền đại diện… sẽ giúp tăng cường quyền bình đẳng giữa cổ
đông là cá nhân với cổ đông là tổ chức.
Thứ bảy là cần phải bổ sung quyền của đại hội đồng cổ đông về việc phê chuẩn tiền
lương của các thành viên hội đồng quản trị và giám đốc ( tổng giám đốc) công ty. Trên thực
tế, tình trạng các thành viên hội đồng quản trị tự quyết định tiền lương cho mình khá phổ
biến. Tiền lương của hội đồng quản trị và các chức danh quản lý cao cấp trong công ty chưa
xác định dựa theo thị trường và kết quả hoạt động của công ty. Chế độ thù lao dựa theo thị
trường là một trong những yêu cầu để hoàn thiện mô hình quản trị công ty ưu việt.
C. KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, bất kì một
doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh nào đều phải lựa chọn cho doanh nghiệp, tổ chức kinh
doanh của mình một cơ cấu tổ chức quản lý riêng. Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp tổ
chức làm ăn thua lỗ, phá sản, phát triển chậm phần lớn là do cơ cấu tổ chức quản lý chưa
hợp lý, chưa phù hợp với thực tiễn. Vì vậy vấn đề cần đặt ra cho các doanh nghiệp tổ chức
là làm sao tìm cho mình một cơ cấu tổ chức quản lý tối ưu

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Luật doanh nghiệp đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009
2, Giáo trình luật thương mại tập 1. trường đại học Luật Hà Nội, nxb. Công an nhân dân,
2006.
3. http:// google.com.vn

16




×