Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bài tập học kỳ - Môn Luật tài chính Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.67 KB, 16 trang )

Bài tập học kỳ - Môn Luật tài chính Việt Nam

A. MỞ ĐẦU.
Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính quan trọng được nhà nước sử
dụng để phân phối thu nhập quốc dân. Chức năng phân phối của ngân sách nhà
nước được thể hiện trong quá trình huy động và sử dụng các nguồn tài chính để
hình thành nên các khoản thu và chi của ngân sách. Ngân sách nhà nước được sử
dụng để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, huy động nguồn
tài chính, điều tiết vĩ mô nền kinh tế cũng nhu điều tiết thu nhập nhằm đảm bảo
công bằng xã hội. Những việc đó được thực hiện thông qua hoạt động thu và chi
ngân sách nhà nước. Thu để định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất
kinh doanh; chi để nâng cao chất lượng ý tế, giáo dục, nâng cao đời sống nhân
dân. Về nội dung, các khoản thu và chi này có quan hệ hữu cơ với nhau và dựa
trên nguyên tắc hai bộ phận này phải được cân đối. Trong điều kiện ngân sách
nhà nước còn eo hẹp thì việc cân đối giữa thu và chi làm sao để tránh được tình
trạng thất thoát, thâm hụt ngân sách luôn là vấn đề được đặt ra.
B. NỘI DUNG.
I. Khái quát về ngân sách nhà nước và nguyên tắc cân đối trong hoạt động
ngân sách nhà nước.
1. Khái niệm ngân sách nhà nước.
Khái niệm ngân sách nhà nước được hiểu theo hai phương diện:
• Phương diện kinh tế: Xét từ góc độ này, ngân sách nhà nước được hiểu là
bản dự toán các khoản thu và chi tiền tệ của một quốc gia, được cơ quan
có thẩm quyền của nhà nước quyết định để thực hiện trong thời hạn nhất
định, thường là một năm.
Định nghĩa này có hai yếu tố:
Một là, ngân sách nhà nước là bản dự toán thu và chi tiền tệ của quốc gia.
Do đó phải được quốc hội, với tư cách là người đại diện cho toàn thể nhân dân
trong quốc gia đó quyết định trước khi chính phủ đem ra thi hành trên thực tế.
1



Bài tập học kỳ - Môn Luật tài chính Việt Nam
Hai là, ngân sách nhà nước chỉ có giá trị thực hiện trong thời hạn một
năm, tính từ ngày 01 tháng 01 cho đến ngày 31 tháng 12 hàng năm. Khoảng thời
gian này được pháp luật quy định nhằm giới hạn rõ thời gian thực hiện bản dự
toán ngân sách nhà nước và được gọi là “năm ngân sách” hay “tài khóa”, thực
chất là niên độ ngân sách.
• Phương diện pháp lý: Trong pháp luật thực định Việt Nam, khái niệm
ngân sách nhà nước được đề cập tại Điều 1 Luật ngân sách nhà nước năm
2002, theo đó “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà
nước trong dự toán đã được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước quyết
định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Trong khoa học pháp lý, quan niệm về ngân sách nhà nước có phần khác
biệt đáng kể so với định nghĩa ngân sách nhà nước về phương diện kinh tế. Sự
khác biệt này thể hiện ở chỗ nếu các nhà kinh tế quan niệm ngân sách nhà nước
là một kế hoạch tài chính khổng lồ của quốc gia thì các nhà luật học lại quan
niệm ngân sách nhà nước là một đạo luật đặc biệt. Tính chất đặc biệt của đạo luật
này được thể hiện ở hai khía cạnh:
Thứ nhất, ngân sách nhà nước là đạo luật được cơ quan lập pháp làm ra
theo một trình tự riêng, không hoàn toàn giống với trình tự lập pháp thông
thường.
Thứ hai, hiệu lực về thời gian của đạo luật ngân sách bao giờ cũng được
xác định rõ là một năm, trong khi hiệu lực của các đạo luật thông thường là vô
thời hạn. Thuộc tính này khiến cho ngân sách nhà nước được gọi là “đạo luật
ngân sách thường niên” để phân biệt với một đạo luật khác về ngân sách, đó là
Luật ngân sách nhà nước năm 2002.
2. Khái niệm cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính của một quốc gia
trong đó dự trù các khoản thu và chi được thực hiện trong một năm. Trên thực tế,

quá trình thu, chi ngân sách nhà nước luôn trong trạng thái biến đổi không
ngừng, nó bị ảnh hưởng bởi sự vận động của nền kinh tế quốc gia, có khi những
2


Bài tập học kỳ - Môn Luật tài chính Việt Nam
khoản thu dự kiến không đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu trong năm đó hoặc có khi
mức thu lại vượt xa những khoản chi. Do vậy, các khoản chi tiêu và thu ngân
sách nhà nước phải được tính toán chính xác và phù hợp với thực tế để đảm bảo
cho ngân sách nhà nước trong trạng thái cân bằng, ổn định. Thu và chi ngân sách
là hai vấn đề quan trọng để đảm bảo cho ngân sách nhà nước được cân đối, hai
vấn đề này lại nằm trong mối tương quan giữa tài chính và kinh tế, vì kinh tế có
phát triển thì Nhà nước mới huy động được nguồn thu vào ngân sách nhà nước
còn kinh tế không ổn định, kém phát triển thì nguồn thu vào ngân sách nhà nước
giảm và còn phải chi nhiều để hổ trợ. Điều đó dễ dẫn đến ngân sách nhà nước bị
mất cân đối. Xét về bản chất, cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa các
nguồn thu mà Nhà nước huy động được tập trung vào ngân sách nhà nước trong
một năm và sự phân phối, sử dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của
Nhà nước. Xét về góc độ tổng thể, cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối
tương quan giữa thu và chi trong một năm ngân sách, nó không chỉ là sự tương
quan giữa tổng thu và tổng chi mà còn thể hiện sự phân bổ hợp lý giữa cơ cấu
các khoản thu và cơ cấu các khoản chi của ngân sách nhà nước.
Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối ngân sách nhà
nước là cân đối về phân bố và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp ngân sách,
giữa trung ương và địa phương, giữa các địa phương với nhau để thực hiện chức
năng và nhiệm vụ được giao. Cân đối ngân sách nhà nước không chỉ đơn thuần
là sự cân bằng về số lượng biểu hiện qua các con số giữa tổng thu và tổng chi mà
nó còn biểu hiện qua các khía cạnh khác nhau.
II. Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật ngân
sách nhà nước.

1. Nội dung nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo
Luật ngân sách nhà nước.
Nội dung nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước được
quy định tại Điều 8 Luật ngân sách nhà nước 2002:
“1. Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế,
phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày
3


Bài tập học kỳ - Môn Luật tài chính Việt Nam
càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải
nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách.
2. Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước
và ngoài nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên
tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và
bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn.
3. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi
không vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách
cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân
sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động vốn trong nước và phải cân
đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ
từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong
nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.
4. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở
trung ương, Uỷ ban nhân dân các cấp, các tổ chức và đơn vị chịu trách nhiệm tổ
chức thực hiện dự toán ngân sách trong phạm vi được giao; nghiêm cấm các
trường hợp vay, cho vay và sử dụng ngân sách nhà nước trái với quy định của pháp
luật.”

Như vậy nội dung của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước chính là tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường
xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển, trường hợp
còn bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng
thu, chi ngân sách. Nội dung này của nguyên tắc cân đối đã phân định ranh giới
giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, thể hiện sự thận trọng trong chính
sách tài khóa của Việt Nam. Theo đó, các khoản thu thường xuyên được sử dụng
để trang trải chi thường xuyên và một phần thu thường xuyên cùng với thu bù
đắp được sử dụng để chi đầu tư phát triển, trong đó chi đầu tư phát triển được
chú trọng hơn vì nó có thể làm tăng khả năng thu hồi vốn cho ngân sách nhà
4


Bài tập học kỳ - Môn Luật tài chính Việt Nam
nước nhưng phải đảm bảo được sự cân đối giữa chi đầu tư phát triển và chi
thường xuyên, bởi lẽ giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong chi tiêu
công của Nhà nước. Chi đầu tư phát triển là hoạt động cần thiết đối với sự phát
triển kinh tế, xã hội của một quốc gia, nó tạo ra những điều kiện cở sở vật chất
kỹ thuật cần thiết cho nền kinh tế, cũng từ đó kéo theo sự phát triển của nhiều
lĩnh vực khác và đảm bảo các vấn đề xã hội của đất nước, giúp nhà nước thực
hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Vì vậy, chi đầu tư phát triển là vấn đề
được Nhà nước ưu tiên trong xây dựng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước.
Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và
nước ngoài. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc
không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo
đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Trong điều kiện kinh tế
thị trường như hiện nay thì vấn đề bội chi ngân sách là không thể tránh khỏi đối
với một quốc gia nhưng chưa hẳn bội chi ngân sách nhà nước là biểu hiện của sự
yếu kém của nền kinh tế mà nó còn là một trong các cách thức tạo ra sự cân đối

của hoạt động ngân sách nhà nước trong dài hạn, đảm bảo cho nền kinh tế- xã
hội phát triển và ổn định. Nguyên tắc vay bù đắp bội chi nên dành cho mục đích
phát triển và đảm bảo bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn là rất
cần thiết để đảm bảo ngân sách nhà nước được cân đối, tận dụng được nguồn
vốn vay một cách có hiệu quả. Chi cho tiêu dùng là hoạt động chi không mang
tính chất thu hồi vốn và không tạo ra thặng dư, do đó nguồn vay bù đắp bội chi
chỉ được để dành cho mục đích phát triển. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương
được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh thành
phố trực thuộc trung ương có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng
thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế
hoạch 5 năm đã được hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định nhưng vượt quá khả
năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán thì được phép huy động vốn
không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân
sách cấp tỉnh.
5


Bài tập học kỳ - Môn Luật tài chính Việt Nam
Nguyên tắc cân đối này đã tạo cho chính quyền địa phương có được nhiều
ưu thế hơn trong việc quyết định ngân sách cấp mình. Vấn đề cho phép cấp tỉnh
vay nợ là cần thiết, giúp cho chính quyền địa phương có thể chủ động hơn trong
việc tạo ra những điều kiện về cơ sở vật chất hạ tầng để phát triển kinh tế và đảm
bảo các vấn đề xã hội của địa phương mình. Tuy nhiên, khoản vay nợ này lại
được tính vào thu trong cân đối ngân sách địa phương, do vậy nhìn một cách
tổng thể thì ngân sách địa phương tôn trọng nguyên tắc phải cân bằng thu, chi
theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 song thực chất ngân sách
địa phương có bội chi và khoản bội chi này lại không tính vào trong bội chi ngân
sách nhà nước. Điều này dẫn đến sự thiếu minh bạch trong cân đối ngân sách
nhà nước ở Việt Nam. Ngoài ra, việc quy định tỷ lệ tối đa chung cho mọi địa
phương là 30%( trừ Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) là chưa hợp lý vì mỗi địa

phương có điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau nên nhu cầu vay nợ, khả năng
quản lý nợ và hoàn trả nợ là khác nhau.
Đối với một nền kinh tế, do nguồn lực tài chính là có giới hạn, cho nên sau
khi đã thiết lập kỷ luật tài chính tổng thể, vấn đề quan trọng là khi cân đối ngân
sách nhà nước là phải phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính hiệu quả. Muốn
vậy, khi lập kế hoạch ngân sách chính phủ cần phải đánh đổi và lựa chọn giữa
các mục tiêu chiến lược trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội.
Trên góc độ hệ thống ngân sách nhà nước, phạm vi cân đối ngân sách nhà
nước bao gồm cân đối ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trong đó
ngân sách trung ương đóng vai trò rất quan trọng. Bởi lẽ trong hệ thống, ngân
sách trung ương thường tập trung đại bộ phận những nguồn thu lớn, qua đó đảm
nhận những khoản chi gắn liền với việc thực hiện các dự án có tầm chiến lược
của quốc gia. Thông qua đó, ngân sách trung ương không những định hướng
phát triển kinh tế - xã hội nói chung mà còn định hướng sự phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương. Ngân sách trung ương đảm trách vai trò điều phối nguồn lực
tài chính giữa các cấp ngân sách trong hệ thống ngân sách nhà nước và cân đối
ngân sách nhà nước. Còn cân đối ngân sách địa phương phải gắn liền với việc
đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ tổ chức quản lý kinh tế xã hội của các cấp chính
6


Bài tập học kỳ - Môn Luật tài chính Việt Nam
quyền địa phương. Với vai trò thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, cân đối
ngân sách địa phương sẽ tạo ảnh hưởng nhất định đến các hoạt động kinh tế - xã
hội trong phạm vi vùng và trên cả nước. Như vậy cân đối ngân sách trung ương
và cân đối ngân sách địa phương có sự tương tác lẫn nhau trong quá trình thu,
chi ngân sách nhà nước. Cả hệ thống ngân sách nhà nước được cân đối tốt vừa là
kết quả vừa là nguyên nhân của một nền kinh tế - xã hội ổn định. Một cấp ngân
sách được điều hành tốt không chỉ liên quan đến việc ổn định, thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội trong phạm vi của cấp chính quyền địa phương tương ứng quản

lý, mà còn có thể góp phần vào việc điều hành ngân sách cấp khác, địa phương
khác thuận lợi hơn và ngược lại. Do vậy phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là
một vấn đề quan trọng trong cân đối ngân sách nhà nước.
Khi cân đối ngân sách nhà nước cần phải có cơ chế điều hòa, chuyển giao
nguồn lực giữa các cấp ngân sách một cách hợp lý, điều hòa nguồn thu giữa
chính quyền nhà nước trung ương và chính quyền nhà nước địa phương để mỗi
cấp đều có thể thực hiện nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó cũng cần điều hòa
nguồn lực tài chính giữa các vùng, các địa phương để đảm bảo tính công bằng.
2. Đặc điểm của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước.
- Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật Ngân
sách phản ánh mối quan hệ tương tác giữa các khoản thu và nhiệm vụ chi ngân
sách nhà nước trong năm ngân sách nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Việc
cân đối trong hoạt động ngân sách không phải chỉ là thu, chi cân đối hoặc chỉ là
cân đối về mặt lượng mà còn nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế- xã
hội của đất nước, đồng thời các chỉ tiêu kinh tế- xã hội này cũng quyết định sự
hình thành về thu, chi ngân sách nhà nước. Nguyên tắc cân đối trong hoạt động
ngân sách nhà nước với những đặc thù của nó được nhà nước xây dựng trong
luật nhằm làm ổn định chính sách tài chính tiền tệ của đất nước, bởi lẽ nó có tác
động làm thay đổi hoặc điều chỉnh một cách hợp lý các chỉ tiêu kinh tế- xã hội.
- Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước tham gia điều
chỉnh sự cân đối giữa tổng thu và tổng chi, giữa các khoản thu và các khoản chi,
tham gia cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp trong hệ
7


Bài tập học kỳ - Môn Luật tài chính Việt Nam
thống ngân sách nhà nước, đồng thời nguyên tắc này còn có đặc điểm kiểm soát
tình trạng ngân sách nhà nước đặc biệt là tình trạng bội chi ngân sách nhà nước
với đòi hỏi của nó là nếu có bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát
triển tiến tới cân bằng thu, chi trong ngân sách.

Để thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô và
trong từng lĩnh vực, địa bàn cụ thể thì cân đối ngân sách nhà nước không chỉ bao
gồm cân đối giữa tổng thu và tổng chi, cân đối giữa các khoản thu và khoản chi
ngân sách nhà nước mà còn phải đảm bảo cân đối về phân bổ chuyển giao nguồn
lực giữa các cấp trong hệ thống ngân sách, đồng thời phải kiểm soát được tình
trạng ngân sách nhà nước. Trong đó, bội chi ngân sách nhà nước là tình trạng
cần được quan tâm đặc biệt. Bởi vì, nó biểu hiện cho sự thiếu hụt nguồn lực so
với nhu cầu, có tác động đa chiều đối với nền kinh tế và chứa đựng nhiều mâu
thuẫn nội tại. Chẳng hạn, chính sách chủ động bội chi trong phạm vi kiểm soát
được có thể đưa nền kinh tế thoát khỏi giai đoạn suy thoải. Song, bội chi kéo dài
sẽ làm cho nợ công gia tăng, kết quả là tạo sức ép đối với chính sách quản lý nợ
và chèn ép đầu tư đối với khu vực tư, áp lực gia tăng lạm phát.
- Mang tính định lượng và tiên liệu: Trong quá trình cân đối ngân sách nhà
nước, người quản lí cần phải tính toán cụ thể về mặt định lượng các con số thu,
chi của ngân sách nhà nước; cân đối ngân sách nhà nước là cân đối mang tính kế
hoạch, có tính chỉ đạo và tiên liệu về kinh tế vĩ mô, phản ánh quan hệ cân đối
phân bổ nguồn lực.
- Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước còn là sự bình
ổn nguồn ngân sách, làm cho số bội chi ngân sách nhà nước được cân bằng so
với các nguồn thu để hoàn thiện các nhiệm vụ chi đó. Điều này có nghĩa là, đặc
điểm nổi bật của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
(nguyên tắc ngân sách thăng bằng) chính là sự định hướng được cho ngân sách
nhà nước nếu có bội chi thì sẽ có cách giải quyết, bình ổn tối ưu, được thể hiện
rõ trong khoản 2 Điều 8 Luật Ngân sách Nhà nước: “Bội chi ngân sách nhà nước
được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và ngoài nước. Vay bù đắp bội chi
ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ
8


Bài tập học kỳ - Môn Luật tài chính Việt Nam

được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động
trả hết nợ khi đến hạn”.
3. Tác động của nguyên tắc cân đối đối với hoạt động ngân sách nhà
nước
Trước hết, nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN có tác động làm cho
hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước của các cơ quan nhà nước được ổn định.
Sự tác động này thể hiện: để thực hiện nhiệm vụ thu và chi ngân sách thì các cơ
quan có thẩm quyền buộc phải áp dụng sự cân đối được pháp luật quy định nhằm
đảm bảo cho kế hoạch của cơ quan nhà nước cấp trên được thực hiện triệt để, do
có những ưu điểm nhất định và được thực tiễn kiểm định thông qua quá trình sử
dụng lâu dài nguyên tắc cân đối khi các cơ quan khác nhau trong những giai
đoạn khác nhau đã sử dụng nó cho hoạt động cụ thể của mình và dành những
thắng lợi nhất định. Do vậy, nguyên tắc này vẫn có tác dụng làm ổn định hoạt
động thu, chi ngân sách đến giai đoạn hiện nay nên vẫn được sử dụng.
Hai là, nguyên tắc cân đối cũng có tác động làm cho hoạt động thu, chi
NSNN không những ổn định mà còn phát triển bền vững. Điều này có nghĩa là,
khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành hoạt động thu và chi NSNN
mà áp dụng đúng nguyên tắc này cho hoạt động của mình thì khả năng thu và
nhiêm vụ chi ngân sách được tiến hành suôn sẻ không những đã đáp ứng yêu cầu
đặt ra mà còn có khả năng vượt yêu cầu đặt ra, có nghĩa là khả năng thu và
nhiệm vụ chi được tiến hành suôn sẻ không những chỉ trong một năm ngân sách
nhất định mà còn có khả năng được tiến hành suôn sẻ ở những năm ngân sách
tiếp theo đó nhờ áp dụng đúng nguyên tắc cân đối này.
Ba là, nguyên tắc cân đối không chỉ có tác động tích cực tới hoạt động
NSNN mà nó còn có tác động tiêu cực đến hoạt động này, đó là nó có khả năng
kiềm chế, làm chậm đi quá trình thu, chi NSNN của Việt Nam khi các cơ quan
có thẩm quyền tiến hành hoạt động thu, chi ngân sách mà không có sự áp dụng
hoặc áp dụng sai bản chất của nguyên tắc này thì khi đó hoạt động NSNN sẽ
không những bị chậm đi mà còn có khả năng mất ổn định, ảnh hưởng đến việc
thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội đã có định hướng cụ thể của cơ

9


Bài tập học kỳ - Môn Luật tài chính Việt Nam
quan nhà nước có thẩm quyền phân bổ ngân sách nhà nước từ các nguồn thu đó.
Hậu quả cuối cùng tất yếu xảy ra khi áp dụng sai nguyên tắc cân đối sẽ là sự mất
định hướng cho việc phân bổ NSNN, các cơ quan có thẩm quyền sẽ không định
ra được kế hoạch sẽ sử dụng nguồn thu này cho những nhiệm vụ chi cụ thể nào.
Đây là sự tác động bất lợi cho sự giàu mạnh của một quốc gia khi nguyên tắc cân
đối trong hoạt động NSNN không được quan tâm chú trọng.
III. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách ở Việt
Nam.
Kể từ khi Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 có hiệu lực thi hành thì
hoạt động ngân sách nhà nước (hoạt động thu, chi ngân sách) đã có những
chuyển biến theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực, đặc biệt là việc áp dụng
nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN theo quy định của luật vào hoạt động
thu, chi ngân sách bên cạnh việc đạt được những thành tựu cụ thể cũng không ít
những vấn đề tiêu cực nảy sinh. Cụ thể:
Thứ nhất, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực thu, chi
ngân sách nhà nước trong hoạt động của mình đã triệt để áp dụng nguyên tắc cân
đối theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước để tạo ra sự cân bằng, ổn định
cho NSNN nhằm phục vụ tốt nhất cho những nhiệm vụ quan trọng của đất nước.
Thứ hai, để cho việc thu, chi ngân sách được cân đối cũng như bắt buộc
các cơ quan có thẩm quyền trực tiếp thực hiện nhiệm vụ thu, chi ngân sách để
tập trung nguồn thu về NSNN tuân thủ triệt để nguyên tắc cân đối trong hoạt
động NSNN thì từ khâu dự toán- khâu đầu tiên trước khi bắt tay trực tiếp vào
hoạt động thu, chi cụ thể thì các cơ quan có thẩm quyền trong việc dự toán
NSNN cũng đã tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc này để đảm bảo cho nguồn
ngân sách thực sự cân đối, ổn định tạo cơ sở cho việc thực hiện tốt những nhiệm
vụ cụ thể về các lĩnh vực khác nhau của đất nước phải sử dụng đến ngân sách

nhà nước.
Thứ ba, mặc dù việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN
đã được tuân thủ triệt để trong hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trong lĩnh vực thu, chi và phân bổ ngân sách nhưng việc áp dụng nguyên
10


Bài tập học kỳ - Môn Luật tài chính Việt Nam
tắc này thật sự không đơn giản mà vẫn có những vướng mắc trong quá trình áp
dụng nguyên tắc đó vào thực tiễn hoạt động. Cụ thể: “việc thực hiện nguyên tắc
cân đối trong Luật Ngân sách Nhà nước đã xuất hiện một số vướng mắc, tồn tại,
trong đó vấn đề về phạm vi cân đối và cách tính bội chi NSNN còn có một số
điểm chưa rõ ràng, chưa đúng với quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, chưa
phù hợp với thông lệ quốc tế. Số thu về phí, lệ phí hiện nay chưa được quy định
rõ ràng, khoản nào trong cân đối, khoản nào ngoài cân đối NSNN, khoản nào
hạch toán trong NSNN” (theo GS-TSKH Tào Hữu Phùng, Phó Chủ nhiệm Uỷ
ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội). Nếu như vậy thì vấn đề cân đối trong
ngân sách hoàn toàn chưa đạt được, do vậy nguyên tắc cân đối trong trường hợp
nêu trên hoàn toàn chưa được tuân thủ, áp dụng triệt để, điều này một phần do
trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, phần nữa do đặc thù
của hoạt động thu, chi ngân sách ở Việt Nam (thu từ nhiều nguồn và chi cho quá
nhiều nhu cầu khác nhau) tạo nên, chúng ta khó có thể cân đối trong mọi năm
ngân sách.
Thứ tư, một điểm vướng mắc nữa về thực tế áp dụng nguyên tắc cân đối
trong hoạt động NSNN của Việt Nam là khi thực hiện việc cân đối NSNN (cân
đối các nguồn thu với nhiệm vụ chi cụ thể của đất nước) thì chúng ta phải quán
triệt nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường
xuyên; nếu bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển. Nhưng qua kết quả kiểm
toán cho thấy một số khoản thu nêu trên không được tính toán cân đối NSNN mà
để lại đơn vị chi tiêu, khi quyết toán sẽ thực hiện ghi thu, ghi chi vào NSNN. Kết

quả kiểm toán cho thấy khoản phí, lệ phí là con số không nhỏ (ước tính hàng
ngàn tỷ đồng) và đây là nguồn thu ngân sách nhà nước cần phải được đưa vào
cân đối, bố trí trong dự toán hàng năm. Nếu thực tế đó không nhanh chóng được
khắc phục thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình lên kế hoạch cho việc
phân bổ nguồn NSNN của những năm tiếp theo và như vậy việc cân đối trong
ngân sách trong các năm sau đó là không thể đạt được mà tình trạng đó nếu tiếp
tục diễn ra sẽ làm cho nguồn thu và nhiệm vụ chi của nước ta bị xáo trộn.

11


Bài tập học kỳ - Môn Luật tài chính Việt Nam
IV. Những thành tựu và hạn chế khi áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt
động ngân sách nhà nước ở Việt Nam.
• Thành tựu đạt được: Quá trình áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động
ngân sách nhà nước từ khi có Luật Ngân sách Nhà nước 2002 đã làm cho
nguồn ngân sách nước ta đạt được ổn định và không ngừng tăng lượng dự
trữ qua các năm bởi do có sự cân đối trong ngân sách nhà nước cho nên
những nhiệm vụ chi cụ thể đã được thực hiện đến cùng bởi sự bảo đảm từ
nguồn vật chất đầu tư trong ngân sách. Quá trình áp dụng nguyên tắc cân
đối trong hoạt động ngân sách nhà nước ở Việt Nam đã làm cho GDP của
Việt Nam đạt được sự tăng trưởng từ năm 2002 là 7%, năm 2003: 7,3%,
năm 2004: 7,7%, năm 2005: 7,5%, năm 2006: 8,2% và năm 2007: 8,5%.
So với các nước trong khu vực, Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có
tốc độ tăng trưởng rất cao. Trong những năm qua do việc áp dụng nguyên
tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước được các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quán triệt triệt để cho nên nước ta đã kiểm soát được
mức bội chi ngân sách nhà nước ở giới hạn cho phép (không quá 5%
GDP/ năm) và nguồn vay chủ yếu chi cho đầu tư phát triển. Đây là một
thành công đáng ghi nhận trong việc kiểm soát bội chi NSNN ở nước ta

khi có sự áp dụng triệt để nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách
nhà nước, mặc dù chịu sự tác động nghiêm trọng từ những cuộc khủng
hoảng kinh tế tài chính từ nền kinh tế thế giới nhưng do có sự triệt để áp
dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước cho
nên tình hình thu, chi ngân sách nhà nước của Việt Nam vẫn chuyển biến
theo chiều hướng tích cực, thu không những đủ chi cho thường xuyên mà
còn dành được một phần cho đầu tư phát triển
• Hạn chế: trong khi áp dụng nguyên tắc cân đối thì tính minh bạch trong
cân đối NSNN chưa được vân dụng triệt để khi xác định tỷ lệ bội chi
NSNN. Bên cạnh đó, vấn đề bội chi NSNN trong thời gian qua cũng tồn
đọng một số vấn đề mà chính phủ ta cần phải xem xét, cân nhắc để có
những giải pháp tốt hơn khi xử lý bội chi NSNN trong những năm sắp tới
như: số tiền vay, đặc biệt là vay nước ngoài cho đầu tư phát triển chưa
12


Bài tập học kỳ - Môn Luật tài chính Việt Nam
được quản lý chặt chẽ, chưa chú trọng đến mối quan hệ giữa chi đầu tư
phát triển và chi thường xuyên nên tạo ra áp lực bội chi ngân sách nhà
nước (nhất là ngân sách địa phương), ngân sách địa phương vẫn có bội chi
nhưng mức bội chi này lại không được tính vào bội chi NSNN. Do tính
minh bạch trong cân đối ngân sách không được vận dụng triệt để nên mặc
dù nguyên tắc cân đối này có được áp dụng trong quá trình thu, chi NSNN
nhưng vẫn không thể phát huy được tác dụng làm cân bằng cho ngân sách
để thực hiện những công việc phát sinh trước đất nước, do vậy, không thể
định hướng, lên kế hoạch cho quá trình thu, chi ngân sách nhà nước cho
những năm ngân sách sau đó. Bên cạnh đó năng lực của những cán bộ
thực hiện nhiệm vụ dự toán, quyết toán, thu, chi NSNN của Việt Nam hiện
nay vẫn còn những hạn chế nhất định cho nên khi trực tiếp vận dụng
nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN thuộc nhiệm vụ của mình để

làm cho nguồn thu, nhiệm vụ chi của đất nước được bảo đảm ổn định
NSNN thì vẫn còn lung túng, chưa thật sự hiểu bản chất của nguyên tắc
này. Do vậy, không thể khai thác lợi thế của nguyên tắc này để cân đối
NSNN là điều không thể tránh khỏi, hơn nữa nguyên tắc này tương đối là
khó khi vận dụng vào thực tiễn cho nên nguồn thu, nhiệm vụ chi không
bảo đảm cân đối.
V. Giải pháp nhằm phát huy vai trò của nguyên tắc cân đối trong hoạt động
ngân sách nhà nước ở Việt Nam.
Để có thể phát huy nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN ở Việt Nam
thì điều quan trọng nhất là các cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành hướng dẫn
cụ thể nguyên tắc này thông qua việc ban hành những văn bản pháp luật thuộc
thẩm quyền của mình để cho các cơ quan trực tiếp thực hiện thu, chi NSNN ở
trung ương và địa phương hiểu đúng bản chất từ đó áp dụng đúng và hợp lý
nguyên tắc này trong hoạt động của mình thì mới thu được sự cân đối trong
NSNN.
Cần phải tiếp tục nâng cao năng lực của cán bộ, công chức thông qua
những lớp tổ chức nghiên cứu về nguyên tắc cân đối để cho cán bộ, công chức
13


Bài tập học kỳ - Môn Luật tài chính Việt Nam
thật sự hiểu bản chất của nó và tiến hành áp dụng trong thực tế nguyên tắc này
thật sự phù hợp với bản chất của nguyên tắc nhằm thu được kết quả cân đối tốt
nhất.
Tăng cường rà soát, cắt giảm những khoản chi tiêu NSNN chưa thật cần
thiết và kém hiệu quả, từ đó có sự chuyển đổi linh hoạt trong chi tiêu NSNN để
không làm mất cân đối NSNN, không lãng phí nguồn thu NSNN vào những hoạt
động chi không cần thiết, không hiệu quả. Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ
ngay từ khâu vay vốn để bù đắp bội chi và sử dụng cho đầu tư phát triển, duy trì
mức bội chi cho phép hàng năm do Quốc hội quyết định. Bên cạnh đó, Nhà nước

cần tạo điều kiện cho người dân tham gia giám sát, theo dõi quá trình thực hiện
nhiệm vụ ngân sách của các cấp, các ngành bằng cách Nhà nước phải cung cấp
những thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời cho người dân biết qua các phương
tiện truyền thanh, báo chí.
C. KẾT LUẬN.
Nguyên tắc cân đối đóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt động ngân
sách nhà nước, nhờ áp dụng nguyên tắc này mà trong những năm qua hoạt động
thu, chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam luôn được giữ ổn định, nguồn dự trữ
ngân sách không bị thâm hụt nhờ việc chúng ta chủ động dự toán được nguồn
thu cụ thể sẽ đầu tư chi cho nhiệm vụ cụ thể nên mức bội chi luôn được kiểm
soát. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì việc áp dụng nguyên tắc cân đối
trong hoạt động ngân sách vẫn còn rất nhiều hạn chế, vướng mắc. Trong thời
gian tới Nhà nước cần có những biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế đó để
có được một nền tài chính vững mạnh.

14


Bài tập học kỳ - Môn Luật tài chính Việt Nam

MỤC LỤC

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật ngân sách nhà nước – Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB
CAND – 2008.
2. Luận án tiến sĩ kinh tế: Cân đối ngân sách nhà nước Việt Nam trong nền
kinh tế thị trường - Bùi Thị Mai Hoài, Trường Đại học kinh tế TP. Hồ Chí
Minh.
3. Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002.

4. Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002.
5. Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002
6. Thông tư số 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 hướng dẫn thực hiện Nghị
định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách Nhà nước.
7. Website: www.tailieu.vn



×