Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bài tập học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.45 KB, 14 trang )

Bài tập học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự Việt Nam
A. MỞ ĐẦU.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được tiến hành sau khi tòa án nhận được cáo
trạng quyết định truy tố bị can và hồ sơ vụ án do viện kiểm sát chuyển đến. Do
vậy, mọi chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án chỉ là tài liệu để tòa án xem xét, kiểm
tra nhằm đưa ra những phán quyết khách quan phù hợp với quy định của pháp
luật. Tất cả những thông tin, tài liệu, đồ vật thu thập được trong giai đoạn điều
tra, truy tố đều được đưa ra xem xét công khai tại phiên tòa thông qua việc xét
hỏi và tranh luận. Xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu nên trong giai đoạn này tòa
án phải giải quyết mọi vấn đề của vụ án trên cơ sở cáo trạng mà viện kiểm sát
truy tố. Xét xử sơ thẩm có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân, góp phần đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm. Việc xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự phải dựa trên thẩm
quyền của các cấp tòa án, không phải bất kì cấp nào cũng có thể xét xử một vụ
án cụ thể. Việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án có ý nghĩa rất
quan trọng và là cơ sở để xác định thẩm quyền xét xử của tòa án trong các giai
đoạn tiếp theo.
B. NỘI DUNG.
I. Khái niệm thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Thẩm quyền của tòa án theo nghĩa chung nhất được hiểu là quyền xem xét
và giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, tòa án ra bản án
nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản án của tòa cụ thể hóa
đường lối, chính sách, quan điểm của Nhà nước đối với việc xử lí người có hành
vi phạm tội.
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm là quyền mà pháp luật quy định cho phép tòa
án được xét xử sơ thẩm vụ án hình sự căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm

1


Bài tập học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự Việt Nam


của hành vi phạm tội; đối tượng phạm tội; nơi thực hiện tội phạm hoặc nơi khác
theo quy định của pháp luật.
II. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.
1. Thẩm quyền xét xử theo sự việc.
Thẩm quyền xét xử theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa
các toà án các cấp với nhau căn cứ vào tính chất của tội phạm. Việc xác định
thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc các vụ án hình sự là rất quan trọng vì nó
gắn liền với sự trưởng thành và hoàn thiện của tòa án các cấp.


Thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực:
Trong hệ thống tòa án, tòa án nhân dân cấp huyện đóng vai trò là một mắt

xích vô cùng quan trọng đã góp phần cùng với các cấp tòa án hoàn thành nhiệm
vụ xét xử. Khi xác định thẩm quyền xét xử cho các cấp tòa án bao giờ cũng phải
xác định trước tiên thẩm quyền xét xử theo sự việc cho tòa án nhân dân cấp
huyện vì đây là cấp xét xử thấp nhất. Đồng thời thẩm quyền xét xử các vụ án
hình sự còn gắn liền với thẩm quyền điều tra, truy tố của cơ quan điều tra và viện
kiểm sát. Do vậy việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân
cấp huyện có ý nghĩa vô cùng lớn.
Nếu thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực
được quy định hợp lý, chặt chẽ thì phần lớn tội phạm xảy ra sẽ được xử lý kịp
thời, phát huy được tác dụng giáo dục, răn đe và góp phần bảo vệ trật tự xã hội.
Việc phân định thẩm quyền xét xử cho tòa án cấp huyện không thể không tính
đến trình độ chuyên môn của thẩm phán, đồng thời cũng cần tính đến điều kiện
về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật của tòa án. Nếu phân định thẩm quyền
cho tòa án cấp huyện giải quyết những vụ án mà tính chất của những vụ án đó
vượt quá khả năng trình độ của thẩm phán thì sẽ không đảm bảo tính khách
quan, đúng đắn của hoạt động xét xử. Tuy nhiên nếu phân định thẩm quyền một
2



Bài tập học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự Việt Nam
cách dè dặt, đánh giá thấp khả năng trình độ của thẩm phán thì sẽ dẫn đến tình
trạng tòa án cấp trên phải xét xử quá nhiều, án tồn đọng với số lượng lớn.
Thực tiễn xét xử ở nước ta cho thấy, hiện nay trình độ của đội ngũ thẩm
phán, hội thẩm nhân dân ngày càng được nâng cao và có khả năng xét xử được
những vụ án mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là mười lăm
năm tù trở xuống, bên cạnh đó số lượng biên chế của tòa án cấp huyện và cơ sở
vật chất đã tương đối ổn định. Vì vậy thẩm quyền xét xử của tòa án cấp huyện
ngày càng được mở rộng hơn so với trước đây, cụ thể:
Khoản 1 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về thẩm
quyền xét xử của tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực: Tòa án
nhân dân cấp huyện và toà án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về
những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm
trọng, trừ những tội phạm sau đây:
a)
b)

Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến

c)

tranh;
Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219,
222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của
Bộ luật hình sự năm 1999.

Như vậy Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đã xác định thẩm quyền của tòa án

nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực rộng hơn và quy định một cách
cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ hơn so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988.
Việc tăng thẩm quyền xét xử cho tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án
quân sự khu vực sẽ giải quyết được tồn đọng án ở cấp tỉnh, dành thời gian cho
tòa án cấp tỉnh tập trung xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Ngoài ra
việc xét xử ở tòa án cấp huyện có hiệu quả kinh tế hơn vì người làm chứng nơi

3


Bài tập học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự Việt Nam
xảy ra vụ án sẽ không phải đi xa, tòa án không phải thanh toàn tiền phương tiện
đi lại, tiền lưu trí, tiền ở trong trường hợp vụ án phải được xét xử nhiều ngày.


Thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp quân khu
Tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền

xét xử sơ thẩm hai loại việc sau:
- Những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của
tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực.
- Những vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để
xét xử.
Bộ luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể những vụ án nào thuộc
thẩm quyền của tòa án cấp huyện nhưng tòa án cấp tỉnh lấy lên để xét xử. Do đó,
chánh án tòa án, viện trưởng viện kiểm sát và thủ trưởng cơ quan điều tra cấp
tỉnh cần căn cứ vào khả năng thực tế của các thẩm phán, kiểm sát viên và điều
tra viên ở cấp huyện mà xác định những loại vụ án nào cần lấy lên để điều tra,
truy tố và xét xử ở cấp tỉnh. Cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án cấp tỉnh
cần lấy lên để điều tra, truy tố và xét xử các vụ án sau:

- Vụ án phức tạp (có nhiều tình tiết khó đánh giá thống nhất về tính chất
vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành).
- Vụ án mà bị cáo là thẩm phán, kiểm sát viên, sĩ quan Công an, cán bộ
lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín
cao trong dân tộc ít người.
2. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng.
Thẩm quyền xét xử theo đối tượng là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa
tòa án nhân dân và tòa án quân sự căn cứ vào đối tượng phạm tội.
Điều 3 Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự năm 2002 quy định các tòa án
quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự như sau:
4


Bài tập học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự Việt Nam
“Các tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo
là:
1.

Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự
bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn
sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ phối thuộc với quân đội trong chiến
đấu, phục vụ chiến đấu và những người được trưng tập làm nhiệm vụ

2.

quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lí;
Những người không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này
mà phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho
quân đội”.


Bí mật quân sự là bí mật của quân đội, bí mật về an ninh quốc phòng được
xác định là bí mật quân sự và được quy định trong các văn bản do các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành. Gây thiệt hại cho quân đội mà cụ thể là gây
thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm của những người
được quy định tại khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự hoặc tài sản
của những người này được quân đội cấp phát để thực hiện nhiệm vụ quân sự thì
đó là gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của quân đội. Tài sản của quân đội
là tài sản do quân đội quản lí, sử dụng, kể cả trường hợp quân đội giao tài sản
cho dân quân, tự vệ hoặc bất kì người nào khác quản lí, sử dụng để chiến đấu
hoặc phục vụ quân đội. Các trường hợp phạm tội trong khu vực có bảo vệ của
quân đội, trong khu vực cấm, khu vực bảo vệ các công trình quan trọng về an
ninh quốc phòng do quân đội quản lí cũng được coi là gây thiệt hại cho quân đội.
Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự quy định: Quân nhân tại ngũ phạm tội
trong quân đội và ngoài xã hội đều thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự.
Trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của tòa
án quân sự, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án
nhân dân thì toàn án quân sự xét xử toàn bộ vụ án. Nếu có thể tách ra để xét xử
5


Bài tập học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự Việt Nam
riêng thì tòa án quân sự và tòa án nhân dân xét xử những bị cáo thuộc thẩm
quyền của mình. Những người không còn phục vụ trong quân đội mà phát hiện
tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ quân đội; hoặc những
người bị phát hiện là phạm tội trước khi nhập ngũ thì thuộc thẩm quyền xét xử
của toàn án quân sự về những tội phạm liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây
thiệt hại cho quân đội. Những tội phạm khác do tòa án nhân dân xét xử.
Thẩm quyền xét xử đối với thường dân phạm tội có liên quan đến bí mật
quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội được xác định tùy từng trường hợp cụ
thể. Nếu vụ án có những tình tiết cần điều tra liên quan đến bí mật quốc phòng

như địa điểm, thiết bị, kế hoạch quân sự… thì tòa án quân sự xét xử. Những việc
phạm tội khác, tòa án quân sự có thể chuyển vụ án cho tòa án nhân dân. Nếu có
tranh chấp về thẩm quyền giữa tòa án nhân dân và tòa án quân sự thì chánh án
Tòa án nhân dân tối cao xem xét và quyết định.
3. Thẩm quyền theo lãnh thổ.
Thẩm quyền theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền xét xử căn cứ vào
nơi tội phạm được thực hiện và nơi kết thúc điều tra.
Thông thường, vụ án hình sự được xét xử ở tòa án nơi tội phạm thực hiện.
Trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi khác nhau hoặc không
xác định được nơi thực hiện tội phạm thì tòa án có thẩm quyền xét xử là tòa án
nơi kết thúc việc điều tra.
Trường hợp bị cáo phạm tội ở nước ngoài thì thẩm quyền xét xử của tòa
án nhân dân được xác định như sau: Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở
Việt Nam thì tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị
cáo xét xử. Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị
cáo thì tùy trường hợp chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh xét xử. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự thì do tòa
6


Bài tập học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự Việt Nam
án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của chánh án Tòa án
quân sự trung ương.
Đối với những vụ án xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ở nước ngoài thì tòa án nhân dân ở
Việt Nam nơi có sân bay, bến cảng mà tàu bay, tàu biển đó trở về đầu tiên trên
lãnh thổ Việt Nam hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng kí có thẩm quyền xét
xử.
4. Thẩm quyền chuyển vụ án.

Tòa án có quyền chuyển vụ án cho tòa án có thẩm quyền xét xử, nếu nhận
thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình. Việc chuyển vụ án cho tòa
án trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc trong phạm vi quân
khu do tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự cấp khu vực quyết định.
Việc chuyển vụ án cho tòa án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương hoặc ngoài phạm vi quân khu do tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án quân
sự cấp quân khu quyết định.
Tòa án chỉ được quyền chuyển vụ án cho tòa án có thẩm quyền khi vụ án
chưa được xét xử. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do chánh án tòa án
quyết định. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án quân sự hoặc tòa án cấp trên
thì vụ án dù đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho tòa án có thẩm quyền.
Trường hợp này, việc chuyển vụ án do hội đồng xét xử quyết định.
Thời hạn chuyển vụ án phải tuân thủ quy định tại Điều 174 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003.
III. Một số bất cập, hạn chế về vấn đề thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Thực tiễn xét xử cho thấy nhiều vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà
án cấp huyện, nhưng lại do Cơ quan điều tra cấp tỉnh khởi tố, điều tra, kết luận
và Viện kiểm sát cấp tỉnh cũng truy tố ra Toà án cấp tỉnh, Toà án cấp tỉnh cũng
7


Bài tập học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự Việt Nam
thụ lý và đưa ra xét xử. Tình trạng này tương đối phổ biến, nhưng lại được giải
thích rằng, Cơ quan điều tra cấp huyện khởi tố điều tra, kết thúc điều tra, Viện
kiểm sát cấp huyện đã truy tố, Toà án cấp tỉnh còn lấy lên để xét xử được huống
chi vụ án đã do Cơ quan điều tra cáp tỉnh khởi tố điều tra, Viện kiểm sát cấp tỉnh
đã truy tố thì không có lý gì Toà án cấp tỉnh lại không xét xử sơ thẩm.
Bộ luật tố tụng hình sự không có quy định phân biệt thẩm quyền xét xử
giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự. Việc quy định này chỉ quy định trong
Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự, là văn bản có hiệu lực pháp lí thấp hơn Bộ

luật tố tụng hình sự. Như vậy, rõ ràng đây là điều chưa phù hợp của pháp luật tố
tụng hình sự.
Pháp luật tố tụng hình sự chưa quy định rõ ràng về việc giải quyết tranh
chấp về thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
thì việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử do Chánh án Tòa án cấp trên
trực tiếp quyết định, việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa Tòa
án nhân dân và Tòa án quân sự do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định.
Bộ luật tố tụng hình sự có quy định “Khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền
giải quyết của mình thì Tòa án chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền giải
quyết”. Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng hình sự chỉ mới quy định chung chung như
vậy mà không quy định thủ tục chuyển vụ án. Chính vì quy định như trên mà
trên thực tế, gặp rất nhiều trường hợp Tòa án chuyển trả hồ sơ vụ án cho Viện
kiểm sát để Viện kiểm sát chuyển cho cấp có thẩm quyền truy tố; có Tòa lại
chuyển cho Tòa án cấp có thẩm quyền để cho Viện kiểm sát cùng cấp truy tố
lại… việc này làm mất rất nhiều thời gian và tốn kém chi phí xét xử và còn làm
chậm cho tiến độ xét xử vụ án.
Việc xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo đối tượng
cũng đang còn gặp nhiều vướng mắc trong thực tiễn, bởi theo lẽ thông thường
Tòa án nhân dân cấp tỉnh quyết định lấy các vụ án mà người phạm tội là cán bộ
8


Bài tập học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự Việt Nam
chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện, cấp trung ương, người người có chức sắc tôn giáo,
địa vị lớn trong xã hội…lên để xét xử. Chính điều này, không có một văn bản
nào quy định cụ thể, đã gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Việc quy
định như thế này còn dễ dẫn đến tùy tiện trong áp dụng và trong thực tế sẽ gây
khó khăn cho việc giải quyết vụ án do khi chuyển vụ án từ cấp dưới lên sẽ phải
làm lại cáo trạng truy tố vì Viện kiểm sát cấp dưới không thể ủy nhiệm cho Viện
kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử được, do đó hồ sơ

vụ án sẽ phải chuyển qua lại nhiều lần giữa Tòa án và Viện kiểm sát , mất nhiều
thời gian không cần thiết. Mặt khác do không có quy định cụ thể và cũng không
quy định cụ thể và cũng chưa có sự giải thích , hướng dẫ về vấn đề này nên cũng
khiến cho việc nhận thức và áp dụng trong thực tiễn sẽ không có sự thống nhất
và không thể chánh khỏi tình trạng mỗi nơi sẽ có cách vận dụng riêng của mình ,
có thể ảnh hưởng đến việc giải quyết nhanh chóng và vụ án
Thực tiễn xét xử, thường xảy ra tranh chấp giữa Toà án quân sự với Toà
án nhân dân trong trường hợp dân thường phạm tội mà hành vi của họ có liên
quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội. Bí mật quân sự đã có
quy định nhưng “gây thiệt hại cho quân đội” bao gồm những thiệt hại nào thì
chưa có quy định.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì việc giải quyết tranh chấp về
thẩm quyền, chỉ do Chánh án Toà án quyết định. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử vấn
đề tranh chấp về thẩm quyền không chỉ xảy ra giữa các Toà án với nhau mà còn
xảy ra giữa Toà án với Viện kiểm sát nhưng Bộ luật tố tụng hình sự không có
quy định ai chịu trách nhiệm giải quyết.
Đối với những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án quân sự nhưng bản án
không chỉ có các quyết định về hình sự mà còn có cả các quyết định về dân sự.
Nếu phần dân sự trong vụ án hình sự bị Toà án cấp phúc thẩm hoặc Toà án cấp
giám đốc thẩm huỷ để giải quyết lại, nếu đúng theo quy định của pháp luật thì
9


Bài tập học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Toà án quân sự không có thẩm quyền xét xử lại phần dân sự trong vụ án hình sự
đó nữa mà phải thuộc Toà án nhân dân. Tuy nhiên, nếu giao cho Toà án nhân
dân giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự mà vụ án hình sự đó lại do Toà
án quân sự đã xét xử thì không phù hợp, việc chuyển giao hồ sơ vụ án cũng rất
phức tạp. Để khắc phục tình trạng này, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao lại hướng dẫn, nếu phần dân sự trong vụ án hình sự bị huỷ để giải quyết lại

thì dù vụ án đó do Toà án nhân dân xét xử hay Toà án quân sự xét xử thì bản án
xét xử lại phần dân sự trong vụ án hình sự vẫn là “bản án hình sự”, trong khi đó
những người tham gia tố tụng tố tụng được ghi trong bản án không phải là bị
cáo, người bị hại, mà là nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự dân sự.
Theo quy định của pháp luật thì Toà án có thẩm quyền xét xử vụ án hình
sự là Toà án nơi tội phạm được thực hiện. Trong trường hợp tội phạm được thực
hiện ở nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì
Toà án có thẩm quyền xét xử là Toà án nơi kết thúc việc điều tra. Hiện nay có
nhiều trường hợp tội phạm được thực hiện ở một nơi hoặc nhiều nơi nhưng
không do Cơ quan điều tra địa phương khởi tố, kết thúc điều tra, mà do Cơ quan
điều tra Bộ Công an khởi tố, kết thúc điều tra, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ra
bản cáo trạng và uỷ quyền cho Viện kiểm sát địa phương nơi Toà án có thẩm
quyền xét xử vụ án tham gia phiên toà sơ thẩm để bảo vệ bản cáo trạng của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Đây cũng là vấn đề thực tiễn xét xử gặp nhiều vướng
mắc, nhất là đối với Kiểm sát viên tham gia phiên toà; nhiều trường hợp không
bảo vệ được cáo trạng vì không có thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án. Bởi lẽ, theo
quy định tại khoản 3 Điều 166 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong thời hạn ba ngày,
kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải gửi hồ sơ
và bản cáo trạng đến Toà án. Nếu bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao thì chỉ có 3 ngày, Viện kiểm sát phải chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm vụ án đó, Kiểm sát viên được uỷ quyền tham gia phiên toà
10


Bài tập học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự Việt Nam
không có thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án, nhiều vụ án, do không có thời gian
nghiên cứu hồ sơ vụ án, nên tại phiên toà Kiểm sát viên lúng túng không chỉ khi
xét hỏi mà khi luận tội cũng như tranh luận với người bào chữa gặp rất nhiều khó
khăn; có trường hợp Kiểm sát viên phải đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà.
IV. Giải pháp nhằm hoàn thiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

Muốn thực hiện được tốt thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trước
hết cần một bộ máy các cơ quan tư pháp tương ứng và đồng bộ từ trung ương
đến địa phương. Trước yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp cần có sự đổi mới đồng bộ về pháp luật để tạo cơ sở pháp lý cho việc hoàn
thiện thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân các cấp.
Hiện nay nước ta đang trong quá trình cải cách tư pháp với trọng tâm là
việc xây dựng một hệ thống tòa án không phụ thuộc vào đơn vị hành chính lãnh
thổ. Tòa án nhân dân được phân thành tòa án sơ thẩm khu vực, tòa án phúc thẩm,
tòa thượng thẩm và tòa án nhân dân tối cao. Hoàn thiện các quy định về thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của tòa án trước hết là phải phân định hợp lý thẩm quyền
xét xử sơ thẩm của tòa án gắn với tổ chức tòa án sơ thẩm. Theo phương hướng
xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa án được đề cập trong Nghị
quyết 49 – NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì tổ chức hệ
thống tòa án sẽ có mô hình khác với hệ thống tòa án hiện hành và việc xây dựng
hệ thống tòa án với mô hình mới đặt ra nhiều vấn đề quan trọng cần phải xử lý,
nhất là đối với việc thành lập tòa án sơ thẩm khu vực. Việc xây dựng mô hình
tòa án mới đòi hỏi phải giải quyết các vấn đề đặt ra một cách toàn diện như: mục
tiêu, quan điểm chỉ đạo, yêu cầu đối với việc thành lập tòa án sơ thẩm khu vực,
chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền của tòa án sơ thẩm khu vực, tên gọi chung và
tên gọi cụ thể của tòa án sơ thẩm khu vực, số lượng các tòa án sơ thẩm khu vực,
cơ cấu tổ chức và biên chế, tính đồng bộ về tổ chức và hoạt động của cơ quan
điều tra, viện kiểm sát và tòa án sơ thẩm khu vực.
11


Bài tập học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Tòa án sơ thẩm khu vực sẽ được hình thành trên cơ sở đội ngũ thẩm phán,
cán bộ, cơ sở vật chất hiện có của tòa án nhân dân cấp huyện là chủ yếu. Cùng
với việc tăng thẩm quyền xét xử cho tòa án nhân dân cấp huyện, số lượng các vụ
án mà tòa án nhân dân cấp huyện phải xét xử tăng lên rất lớn nên các tòa sơ thẩm

khu vực phải tiếp tục nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ và tăng cường cơ sở vật
chất trong thời gian nhất định để đủ điều kiện khả năng xét xử sơ thẩm đa số các
vụ án hình sự trong đó có các vụ án hiện nay đang thuộc thẩm quyền của tòa án
nhân dân cấp tỉnh.
Cần tăng cường công tác tổng kết áp dụng thống nhất pháp luật, nâng cao
nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của xét xử sơ thẩm. Tiếp tục hoàn
thiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán, tăng cường phối hợp giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự ở cấp
sơ thẩm.
C. KẾT LUẬN.
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án có ý nghĩa rất quan trọng đối với
việc tổ chức hệ thống các cơ quan tố tụng nhằm giải quyết vụ án một cách khách
quan và đầy đủ, đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử. Cách phân định thẩm quyền
xét xử sơ thẩm của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 là khá hợp lý, phù hợp với
thực trạng xét xử ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định và cần được giải quyết trong thời
gian tới nhằm đảm bảo cho hoạt động xét xử sơ thẩm của các tòa án diễn ra
thuận lợi và hiệu quả.

12


Bài tập học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự Việt Nam

MỤC LỤC


Bài tập học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự Việt Nam

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Giáo trình Luật tố tụng hình sự - Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB

2.

CAND – 2008.
Bài viết “Phương hướng hoàn thiện các quy định của bộ luật tố tụng hình

3.
4.

sự về xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự” – Đinh Văn Quế
Phân định hợp lý thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân các cấp – một
trong những giải pháp khắc phục án hình sự tồn đọng.
Website: www.luathinhsu.wordpress.com



×