Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

hợp đồng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.41 KB, 20 trang )

Bài làm:

Mở đầu
Hợp đồng dân sự là một mảng quan hệ pháp luật vô cùng quan trọng, là
một trong những chế định pháp lí cổ xưa nhất, xuất hiện sớm nhất trong nội
dung luật dân sự. Hợp đồng dân sự là sự khái quát một cách toàn diện các
hình thức giao dịch dân sự phong phú của con người, là một trong những
phương thức hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân
sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Từ những năm đầu của thời kì đổi
mới một loạt các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng đã ra đời
như: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (1989); Pháp lệnh hợp đồng dân sự (1991)
và trong 2 pháp lệnh về chuyển giao công nghệ và sở hữu trí tuệ cũng có phần
quy định về vấn đề hợp đồng. Đến khi Bộ luật dân sự 1995 ra đời và được sửa
đổi, bổ sung tại Bộ luật dân sự 2005 thì hợp đồng dân sự đã được xem xét,
quy định một cách đầy đủ, toàn diện hơn. Bộ luật dân sự 2005 được Quốc hội
thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực ngày 01/01/2006 tạo ra một hành lang
pháp lí quan trọng cho giao lưu dân sự, thể hiện một bước tiến cao hơn trong
tư duy lập pháp, hành pháp và tư pháp của những nhà làm luật. Việt nam đang
trên đà phát triển đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tê,.. Các tranh chấp về hợp
đồng dân sự cũng ngày một gia tăng và mức độ phức tạp ngày càng cao đòi
hỏi pháp luật về hợp đồng dân sự phải hoàn thiện hơn để giải quyết một cách
triệt để. Khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp
đồng dân sự là do các bên không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng. Để giải quyết được các tranh chấp đó một câu hỏi đặt ra: “Liệu có tồn
tại hợp đồng hay không?” và “Hợp đồng có hiệu lực hay không?” để từ đó
xác định các bên có quyền và nghĩa vụ gì. Vì vậy, những quy định về điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh
những quan hệ giao lưu dân sự của nền kinh tế thị trường. Các quy định này
không tồn tại độc lập mà có sự liên hệ chặt chẽ với các quy định khác trong
1



Bộ luật dân sự 2005. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng góp phần nâng
cao ý thức cuả các chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng, giải quyết các
mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng
cũng như bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng và
tạo nên sự bình đẳng trong giao dịch dân sự. Vì những lí do trên mà em đã lựa
chọn đề tài:
“Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự” nhằm góp phần làm
sáng tỏ những quy định của Bộ luật dân sự 2005 về những điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng và đưa ra một số phân tích, bình luận về vấn đề này.

***
Nội dung chính:
A. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ:
I. KHÁI NIỆM:
Khái niệm về hợp đồng dân sự cần phải được xem xét ở nhiều phương
diện khác nhau. Theo phương diện khách quan thì hợp đồng dân sự là do các
quy phạm pháp luật của Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể
với nhau.
Theo phương diện chủ quan, hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự mà
trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thoả thuận để cùng
nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định. Theo phương
diện này, hợp đồng dân sự vừa được xem xét ở dạng cụ thể vừa được xem xét
ở dạng khái quát. Nếu định nghĩa dưới dạng cụ thể thì "hợp đồng dân sự là sự
thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng, cho tài sản, làm
một việc hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các thoả thuận khác mà
trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng" (Điều


2


1 Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991). Sự liệt kê cụ thể bao giờ cũng rơi
vào tình trạng không đầy đủ và để quy định của pháp luật có thể bao trùm
được toàn bộ các hợp đồng dân sự xảy ra trong thực tế, BLDS đã định nghĩa
nó ở dạng khái quát hơn: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự" (Điều 388
BLDS).
1. Hợp đồng dân sự là hành vi pháp lý song phương :
Trong quan hệ giao lưu dân sự nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của
mình mà không được bên kia chấp nhận cũng không thể hình thành một quan
hệ để qua đó thực hiện việc chuyển giao tài sản hoặc làm một công việc đối
với nhau được. Do đó, chỉ khi nào có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các
bên thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành. Quan hệ đó
được gọi là hợp đồng dân sự. Như vậy, cơ sở đầu tiên để hình thành một hợp
đồng dân sự là việc thoả thuận bằng ý chí tự nguyện của các bên. Tuy nhiên,
hợp đồng đó chỉ có hiệu lực pháp luật (chỉ được pháp luật công nhận và bảo
vệ) khi ý chí của các bên phù hợp với ý chí của Nhà nước. Các bên được tự
do thoả thuận để thiết lập hợp đồng nhưng sự "tự do" ấy phải được đặt trong
giới hạn bởi lợi ích của người khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công
cộng. Nếu để các bên tự do vô hạn thì hợp đồng dân sự sẽ trở thành phương
tiện để kẻ giàu bóc lột người nghèo và sẽ là nguy cơ đối với lợi ích chung của
xã hội. Vì vậy, phải đi xa hơn nữa trong vấn đề tăng cường sự can thiệp của
nhà nước vào các "quan hệ pháp luật tư", các việc dân sự... không được bỏ
qua một khả năng tối thiểu nào để mở rộng sự can thiệp của nhà nước vào
những quan hệ dân luật".(1)
2. Hợp đồng dân sự là nguồn phát sinh nghĩa vụ:
Khi ý chí của các bên trong hợp đồng phù hợp với ý chí của Nhà nước
thì hợp đồng dân sự có hiệu lực như pháp luật đối với các bên giao kết. Nghĩa

là, từ lúc đó, các bên đã tự nhận về mình những nghĩa vụ pháp lí nhất định. Sự
(1.

). V.I.Lênin toàn tập, tập 36, Nxb. Sự thật, 1989, tr. 577.

3


"can thiệp" của nhà nước không những là việc buộc các bên phải giao kết hợp
đồng phù hợp với lợi ích chung và đạo đức xã hội mà còn buộc các bên phải
thực hiện hợp đồng đúng với những cam kết mà họ đã thoả thuận. Theo nội
dung đã cam kết, dưới sự hỗ trợ của pháp luật, các bên phải thực hiện đối với
nhau các quyền và nghĩa vụ dân sự.
Như vậy, hợp đồng dân sự không chỉ là sự thoả thuận để một bên chuyển
giao tài sản, thực hiện một công việc cho bên kia mà có thể còn là sự thoả
thuận để thay đổi hay chấm dứt các nghĩa vụ đó. Hợp đồng dân sự (nghĩa chủ
quan) và pháp luật về hợp đồng dân sự (nghĩa khách quan) là hai khái niệm
không đồng nhất với nhau. Hợp đồng dân sự theo nghĩa chủ quan là một quan
hệ xã hội được hình thành từ sự thoả thuận của các bên để thoả mãn nhu cầu
trao đổi trong giao lưu dân sự. Còn pháp luật về hợp đồng dân sự là sự thừa
nhận, là yêu cầu của nhà nước đối với các giao lưu dân sự đó. Các bộ cổ luật đã
từng tồn tại ở Việt Nam (như Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long) không có
quy định riêng về hợp đồng. Nghĩa là, trong các thời kì đó, ở Việt Nam chưa có
“luật riêng” về hợp đồng dân sự, mặc dù trong thực tế hình thành rất nhiều
quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể với nhau. Các quy định của hợp đồng
không nhiều, chủ yếu quy định về mua bán cho vay, ngoài ra, các nguyên tắc
chung về giao kết thực hiện hợp đồng được quy định xen kẽ trong các quy
định hình sự. Hành vi phạm hợp đồng là hành vi vi phạm pháp luật, cho nên
người vi phạm phải chịu trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, cần phải nói thêm
rằng xét về nội dung kinh tế sẽ khó phân biệt giữa một hợp đồng dân sự với

một hợp đồng kinh tế nếu nội dung của chúng đều là sự mua bán và trao đổi
các lợi ích vật chất.

B.ĐIỀU KIỆN ĐỂ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ CÓ HIỆU LỰC:
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương nhằm
làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 121

4


BLDS 2005).
Các quyền và nghĩa vụ dân sự được xác lập trên cơ sở hành vi pháp lý hợp
pháp (hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương) có hiệu lực bắt buộc đối
với các bên, được pháp luật thừa nhận và bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế
của mình.
Theo điều 122 BLDS 2005 thì một giao dịch dân sự chỉ được coi là có
hiệu lực nếu tuân thủ các điều kiện nhất định về nội dung và hình thức. Bộ
luật Dân sự 2005 không đưa ra một điều khoản cụ thể quy định riêng về điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự nhưng ta hoàn toàn có thể căn cứ vào
Điều 122 : Theo điều 121 BLDS 2005 thì giao dịch dân sự là hợp đồng dân
sự và hợp đồng dân sự cũng là một loại giao dịch dân sự, chính vì vậy một
hợp đồng dân sự có hiệu lực khi và chỉ khi đảm bảo được các điều kiện của
một giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự. Điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng dân sự phù hợp với ý chí của nhà nước cũng chính là điều kiện
có hiệu lực của giao dịch dân sự được pháp luật quy định như sau :
I/Điều kiện về nội dung
Điều kiện về nội dung của một giao dịch dân sự được quy định tại điều
122 khoản 1 BLDS 2005, có thể đưa ra các điều kiện về nội dung của hợp
đồng dân sự sẽ bao gồm:
- Người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự

- Mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội
- Người tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện.
1/Người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự :
"Người tham gia hợp đồng" ở đây được hiểu là mọi chủ thể của quan
hệ pháp luật dân sự (QH PLDS): cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác,
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
a) Chủ thể của hợp đồng dân sự là cá nhân :
5


Cá nhân là chủ thể chủ yếu và thường xuyên của giao dịch dân sự. Khả
năng thực hiện giao dịch dân sự phụ thuộc vào năng lực hành vi dân sự của
mỗi cá nhân, được xác định bởi độ tuổi: cá nhân ở mỗi độ tuổi khác nhau, có
khả năng nhận thức khác nhau đối với hành vi cũng như hậu quả do hành vi
gây nên, sẽ có khả năng tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự khác
nhau.
Căn cứ vào điều các điều từ 18 đến 23 của BLDS 2005, khả năng tham gia
xác lập , thực hiện giao dịch dân sự và gánh chịu trách nhiệm dân sự của cá
nhân được xác định tùy thuộc vào độ tuổi và năng lực nhận thức. Theo đó thì
các quy định để cá nhân tham gia vào hợp đồng dân sự sẽ như sau :
a.1 Hợp đồng dân sự đối với người có đủ năng lực hành vi dân sự
Người từ đủ 18 tuổi, không bị mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế
năng lực hành vi dân sự được coi là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có toàn quyền tham gia mọi giao
dịch dân sự để xác lập cho mình hoặc cho người mà họ đại diện các quyền và
nghĩa vụ dân sự và cũng đồng thời phải gánh chịu mọi trách nhiệm và nghĩa
vụ phát sinh từ hành vi pháp lý mà họ thực hiện, các giao dịch dân sự ở đây
chính là sự giao kết các hợp đồng dân sự.
a.2 Quyền giao kết hợp đồng dân sự đối với người có năng lực hành vi

dân sự không đầy đủ (một phần)
Là những người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không mắc bệnh tâm
thần hoặc mắc các bệnh khác khiến họ không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình. Họ chỉ được giao kết hợp đồng dân sự chỉ khi ở trong các
trường hợp sau:
-Những người này chỉ được phép xác lập, thực hiện những giao dịch nhằm
phục vụ nhu cầu, sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc những giao
dịch mà pháp luật quy định. (Xem Điều 69 khoản 2,3 BLDS 2005 và phần
trình bày của nhóm 1 về chủ thể Cá nhân)
-Chỉ được phép xác lập, thực hiện những giao dịch dân sự nhất định nếu được
6


người đại diện theo pháp luật đồng ý. Nhưng cũng có một ngoại lệ cho phép
người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi có thể tự mình trực tiếp tham gia xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự để thỏa mãn nhu cầu về mọi mặt của họ. Đó là
trường hợp từ 15 đến 18 tuổi không mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh
khác khiến họ không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình mà có tài
sản riêng để thực hiện nghĩa vụ dân sự mà họ xác lập, thực hiện. (Điều 20
khoản 2 BLDS 2005).
a.3 Quyền giao kết hợp đồng dân sự đối với cá nhân bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự (được quyết định bởi Tòa án)
Những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng có quyền tham
gia xác lập, thực hiện những giao dịch dân sự có giá trị nhỏ phục vụ nhu cầu
sinh hoạt hàng ngày. Với những giao dịch liên quan tới tài sản của người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự thì phải có sự đồng ý của người đại diện theo
pháp luật.. (Điều 23 khoản 2 BLDS 2005) Như vậy có thể nói khả năng tham
gia giao kết hợp đồng dân sự của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
tương đương với khả năng tham gia giao kết hợp đồng dân sự của người có
năng lực hành vi dân sự một phần.

a.4.Quyền tham gia hợp đồng đối với cá nhân dưới 6 tuổi và mất năng
lực hành vi dân sự.
Pháp luật có quy định họ không được quyền tham gia xác lập và thực
hiện mọi giao dịch dân sự. Tuy nhiên để đảm bảo quyền lợi chính đáng của
họ, những người đại diện theo pháp luật của họ có quyền xác lập và thực hiện
các giao dịch dân sự nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của
những người này. (Điều 21, 22 BLDS 2005) Vì vậy đối với những người này
sẽ không thể giao kết được hợp đồng dân sự theo quy định pháp luật trừ
trường hợp quy định tại điều 21,22 BLDS.
b) Pháp nhân và các chủ thể khác
Pháp nhân với tính chất là chủ thể QH PLDS được tạo nên bởi sự liên
kết của nhiều cá nhân đơn lẻ, độc lập nên khi xác lập hoặc thực hiện một giao
7


dịch dân sự, chủ thể đó nhất thiết phải thông qua vai trò của người đại diện
của mình. Người đại diện ở đây là cá nhân sẽ thay mặt cho pháp nhân trực
tiếp tham gia giao kết hợp đồng dân sự trên cương vị của pháp nhân.
Cũng như các nước khác, PLDS nước ta cũng quy định hai loại đại diện
chung cho mọi chủ thể của QH PLDS là đại diện theo pháp luật và đại diện
theo ủy quyền.
-Người đại diện theo pháp luật: Là người đứng đầu trên cơ sở quy định của
pháp luật, quyết định của nhà nước có thẩm quyền hoặc cơ sở bản điều lệ của
pháp nhân: thủ trưởng cơ quan, đơn vị; chủ hộ gia đình; tổ trưởng tổ hợp tác.
Họ được xác định trên cơ sở quy định của pháp luật hoặc trên cơ sở của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc trên cơ sở điều lệ của pháp nhân.
-Người đại diện theo ủy quyền: Có thể là một người bất kỳ do người đại diện
theo pháp luật ủy quyền để thực hiện một hoặc một số công việc nhất định.
Hành vi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự do người đại diện theo pháp luật
hoặc đại diện theo ủy quyền của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác chỉ được

coi là hành vi của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác nếu những hành vi này
được tiến hành phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động của chủ
thể đó (điều 93 khoản 1, điều 110 khoản 1, điều 117 khoản 1 và điều 144
BLDS 2005) hoặc được ghi nhận trong quyết định thành lập pháp nhân hay
bản điều lệ của pháp nhân. (Điều 85, điều 86 khoản 1, điều 88 khoản 2 BLDS
2005)
Những hành vi do người đại diện tiến hành phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ, phạm vi hoạt động của chủ thể thì những hành vi do người đại diện
thực hiện sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự cho chủ thể đó. Vì
vậy, chính các chủ thể này sẽ là người gánh chịu trách nhiệm dân sự khi các
quyền và nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập mà không thực hiện hoặc
thưc hiện không đúng cam kết bằng chính danh nghiã và tài sản của mình.
(Điều 93, điều 110, điều 117 BLDS 2005)

8


2/ Mục đích và nội dung của hợp đồng dân sự không vi phạm điều cấm
của pháp luật, không trái đạo đức xã hội :
Đây là điều kiện của một giao dịch dân sự được quy định trong điều
122 BLDS 2005. Theo luật này, "điều cấm của pháp luật" là những quy định
của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
"Đạo đức xã hội" là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người
trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. (Điều 129
BLDS 2005)
Quy phạm pháp luật và quy phạm đạo đức cùng là những quy phạm xã
hội có chung mục đích là điều tiết hành vi con người, có chung đặc điểm là
những quy tắc xử sự chung, là tiêu chuẩn đánh giá hành vi con người. Tuy
nhiên quy phạm đạo đức chỉ là những quy phạm mang tính chất đánh giá tốt,
xấu, đáng khen, đáng chê...trong khi đó quy phạm pháp luật không chỉ là cơ

sở để đánh giá tính chất của hành vi mà còn là chuẩn mực mang tính bắt buộc
cho xử sự của những người tham gia vào quan hệ xã hội đó. Quy phạm pháp
luật là quy phạm thành văn và mang tính quyền lực chính trị: thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế
của Nhà nước. Giữa pháp luật và đạo đức có mối quan hệ bổ sung, trợ giúp
cho nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi của con người.
Một hợp đồng dân sự muốn được coi là có hiệu lực pháp luật thì mục đích và
nội dung của hợp đồng dân sự đó phải không vi phạm điều cấm của pháp luật
và không trái với truyền thống đạo đức xã hội.
Có thể kể ra một số hợp đồng vô hiệu như sau: Vi phạm các nguyên tắc
công bằng xã hội: ví dụ như hợp đồng nhằm xóa bỏ nghĩa vụ của cha mẹ đối
với con cái; Vi phạm nguyên tắc công bằng xã hội: các giao dịc nhằm thực
hiện hành vi phạm tội như cướp của, giết người...; Lợi dụng sơ suất hoặc hoàn
cảnh khó khăn của người khác nhằm tu lợi bất chính: ví dụ hợp đồng cho vay
tiền với lãi suất cắt cổ; Hạn chế quyền tự do của người khác; Mang tính chất
đầu cơ: cá cược, số đề...
9


Trên cơ sở các quy định tại điều 122 và điều 129 BLDS 2005,có thể
đưa ra những hợp đồng vô hiệu vì vi phạm quy định của pháp luật là: hợp
đồng vi phạm quy định về quyền tự do ý chí của các bên, hợp đồng nhằm trốn
tránh pháp luật cũng có hậu quả tương tự hành vi bị pháp luật cấm tuy không
vi phạm trực tiếp các quy định của pháp luật. Ngoài ra, hợp đồng dân sự
không vi phạm quy định của pháp luật nhưng theo nhận thức thông thường thì
hợp đồng đó trái với đạo đức xã hội, lợi ích (trật tự) công cộng, thuần phong
mỹ tục thì cũng bị coi là vô hiệu.
Mặt khác khi xem xét về nội dung và mục đích của hợp đồng dân sự
cũng cần phải xem xét các nội dung đó có tính xác thực và khả thi hay không.
Đây cũng là yếu tố rất quan trọng để xác định hợp đồng dân sự có hiệu lực.

Tính xác định và tính khả thi của hợp đồng dân sự chính là tính xác định và
tính khả thi của các điều khoản của hợp đồng dân sự, như về đối tượng, chủ
thể, phương thức, thời hạn...Ví dụ một hợp đồng thu mua nguyên liệu của nhà
máy sản xuất nhưng không nói rõ thu mua với giá là bao nhiêu thì hợp đồng
này sẽ vô hiệu vì đó là một hợp đồng dân sự thiếu tính xác thực.
3/ Người tham gia hợp đồng dân sự hoàn toàn tự nguyện :
Đây là điều kiện được xây dựng dựa trên cơ sở nguyên tắc "tự do, tự
nguyện cam kết, thỏa thuận", một trong những nguyên tắc cơ bản của luật dân
sự được ghi nhận tại điều 4 BLDS 2005.
Bản chất của hợp đồng dân sự là hành vi có ý chí nhằm làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ mà các bên mong muốn đạt được do vậy có thể nói bản
chất của hợp đồng dân sự là sự tự nguyện thực hiện giao kết, thể hiện qua sự
thống nhất giữa ý chí và tuyên bố ý chí của chủ thể mà không bị ảnh hưởng
bởi bất kỳ một tác động nào từ bên ngoài.
Pháp luật dân sự Việt Nam dựa trên cơ sở tuyên bố ý chí chỉ ra những
trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do xác lập thiếu sự tự nguyện của một
trong các chủ thể, bao gồm: Giao dịch giả tạo; giao dịch được xác lập trên cơ
10


sở sự nhầm lẫn; Giao dịch được thiết lập trên cơ sở sự lừa dối; Giao dịch được
thiết lập trên cơ sở sự đe dọa; Giao dịch thiết lập do người không nhận thức
được hành vi của mình. Hợp đồng là một giao dịch dân sự cụ thể căn cứ vào
các trường hợp trên thì hợp đồng sẽ có hiệu lực nếu không vi phạm vào các
trường hợp cụ thể :
a) Hợp đồng dân sự giả tạo
Theo điều 129 BLDS 2005:
"Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu
một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn
có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ

luật này.Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh trách
nhiệm với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu". Như vậy, căn cứ vào điều
luật trên thì hợp đồng dân sự giả tạo được hiểu là:
- hợp đồng được giao kết nhằm che giấu một hợp đồng khác thể hiện ý chí
đích thực của chính các bên
- hợp đồng được giao kết trên cơ sở hành vi gian dối
- hợp đồng mà các bên "tự nguyện" tham gia nhưng mục đích hợp đồng được
thể hiện không phù hợp với mục đích các bên thật sự quan tâm, hướng tới,
mong muốn đạt được. (yếu tố giả tạo được biểu hiện thông qua dấu hiệu các
bên thông đồng với nhau để tạo nên sự thiếu thống nhât giữa ý chí và tuyên
bố ý chí của các bên giao kết hợp đồng).
Các dạng hợp đồng dân sự giả tạo có thể gồm : giả tạo sự tồn tại của
một hợp đồng khác; giả tạo tính chất của hợp đồng dân sự; giả tạo về đối
tượng của hợp đồng; giả tạo về chủ thể giao kết hợp đồng. Điểm chung của
những hợp đồng này, đó là:
+ có sự thông đồng, nhất trí của các bên giao kết hợp đồng giả tạo nhằm tạo
nên sự nhận thức sai lầm của người khác đối với hợp đồng đích thực
+ tồn tại cùng lúc 2 hợp đồng: hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che giấu.
Điểm khác:
11


Đặc điểm Trong hợp đồng đích thực (chính là ý chí đích thực của các
bên), các bên thỏa thuận với nhau rằng hợp đồng giả tạo coi như không tồn
tại. Hợp đồng giả tạo được thể hiện dưới tính chất của một loại hợp đồng
nhưng hợp đồng đích thực có tính chất của một loại hợp đồng khác. Hợp đồng
giả tạo nhằm che giấu một số nội dung nhất định liên quan đến đối tượng của
hợp đồng bị che giấu. Các bên đứng tên giao kết hợp đồng không phải là
người giao kết hợp đồng đích thực.
*) Ví dụ Nhằm trốn tránh việc kê biên tài sản có thể xảy ra, A đã lập một hợp

đồng với nội dung tặng cho B một tài sản nhưng thực chất A vẫn giữ tài sản
và vẫn là chủ sở hữu tài sản này. Trong trường hợp này hợp đồng tặng cho tài
sản giữa A và B chỉ là giao dịch về mặt hình thức (giao dịch không có thật). A
bán cho B một căn nhà nhưng không làm hợp đồng mua bán mà làm hợp
đồng tặng cho theo đề nghị của B để che giấu việc mình có tiền.
Trong trường hợp này, hợp đồng giả tạo là hợp đồng tặng cho tài sản có tính
chất hoàn toàn khác với hợp đồng đích thực (bị che giấu) là hợp đồng mua
bán tài sản. A chuyển nhượng một mảnh đất trị giá 60 triệu cho B. Nhưng khi
lập hợp đồng chính thức có xác nhận của UBND thị trấn, A và B thỏa thuận
chỉ ghi giá trị mảnh đất là 50 triệu. Trong trường hợp này, hợp đồng giả tạo
được xác lập nhằm che giấu một phần số tiền phản ánh giá trị của ngôi nhà. A
là việt kiều Anh, đưa tiền nhờ người bà con là B mua nhà của C ở Việt Nam
và nhờ đứng tên chủ quyền. B có giấy viết tay cam kết giữ hộ tài sản của A.
Trong trường hợp này, hợp đồng mua bán nhà giữa B và C là hợp đồng giả
tạo bởi B không phải là người đích thực giao kết hợp đồng mua bán nhà ở mà
người đích thực giao kết hợp đồng mua bán nhà nói trên là A.
b) Hợp đồng dân sự được giao kết trên cơ sở sự nhầm lẫn:
"Nhầm lẫn" được hiểu là sự nhận định không chính xác về cái có thật
hay sự đánh giá sai về thực tế khách quan.
Theo điều 131 BLDS 2005:
"Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch
12


dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia
thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị
nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu".
*) Ví dụ, A bán cho B một chiếc xe máy nhưng A quên không thông báo cho
B biết rằng hệ thống đèn của chiếc xe đó đã bị cháy. Sau đó B yêu cầu A
giảm bớt giá bán chiếc xe đó hoặc thay thế hệ thống đèn mới nhưng A không

chấp nhận. B có quyền yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng mua bán đó vô hiệu.
Như vậy, "nhầm lẫn" theo quy định này được hiểu là sự tin nhầm về nội dung
của hợp đồng ở thời điểm các bên giao kết hợp đồng đó. Nhưng không phải
bất cứ sự tin nhầm nào của người giao kết hợp đồng dân sự cũng được coi là
"nhầm lẫn" - yếu tố để xem xét hiệu lực của hợp đồng dân sự. Để xem xét
một cách chính xác có yêu tố "nhầm lẫn" trong khi giao kết hợp đồng dịch
dân sự, ta cần nhìn nhận sự "nhầm lẫn" ở hai khía cạnh:
- Ở khía cạnh khách quan, người ta phải đặt một người bình thường vào vị trí
của người tin nhầm để xác định trong hoàn cảnh tương tự người đó có nhận
thức, đánh giá như thế nào về nội dung của giao dịch. Từ đó, đánh giá xem sự
tin nhầm liệu có phải là vô lý hay khó chấp nhận không?
- Ở khía cạnh chủ quan, người ta cần xem xét mối quan hệ giữa sự nhầm lẫn
của người đó trong mối tương quan với khả năng nhận thức, năng lực chuyên
môn của ngưới đó. Từ đó, đánh giá xem sự tin nhầm của người đó có phải là
từ sự cẩu thả, sơ suất hay không?
Để có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố một giao dịch vô hiệu do nhầm lẫn, người
yêu cầu phải chứng minh được tình trạng nhầm lẫn của mình khi giao kết hợp
đồng dân sự, tức là phải chỉ ra hai điều kiện:
-Sự nhầm lẫn đó ảnh hưởng mang tính quyết định đến việc giao kết hợp đồng
của người bị nhầm lẫn.
-Gây nên sự nhầm lẫn là do lỗi vô ý của một bên. Bởi nếu là lỗi cố ý thì hợp
đồng được thiết lập trên cơ sở sự lừa dối chứ không phải là trên cơ sở sự
nhầm lẫn, và bởi chỉ có "bên bị nhầm lẫn" do "lỗi vô ý" của bên kia mới có
13


quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu. Nếu "bên bị nhầm lẫn"
bị nhầm lẫn do chính lỗi của mình mà giao kết hợp đồng dân sự thì không thể
yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu.
c) Hợp đồng dân sự được thiết lập trên cơ sở sự lừa dối

Lừa dối là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng
ngày. Theo cách nói thông thường, lừa dối là lừa bằng thủ đoạn nói dối, gian
lận để làm cho người ta nhầm tưởng mà nghe theo, tin theo.
Điều 132 BLDS năm 2005 định nghĩa lừa dối trong giao dịch dân sự là "hành
vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch
về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã
xác lập giao dịch đó".
Như vậy, sự lừa dối chỉ là điều kiện để hợp đồng không có hiệu lực
pháp luật khi có các yếu tố sau:
- Người lừa dối có thể là người thứ ba hoặc là người trực tiếp giao kết hợp
đồng. Người lừa dối có thể là một hoặc nhiều người .
Việc lừa dối được có thể mang tính chủ động (tích cực) hoặc mang tính bị
động (tiêu cực). Việc lừa dối mang tính chủ động tích cực khi người lừa dối
thực hiện những hành vi như tổ chức, thực hiện hoặc đồng lõa trong việc cung
cấp thông tin sai sự thật,sử dụng tài liệu giả,nói dối...làm cho người bị lừa dối
nghĩ về sự việc quá lên so với thực tế khách quan.Việc lừa dối được coi mang
tính bị động hay tiêu cực trong trường hợp người lừa dối im lặng không bày
tỏ quan điểm vủa mình về một yếu tố quan trọng của hợp đồng nhằm hưởng
lợi từ việc người bị lừa dối chấp nhận giao kết hợp đồng dân sự.
- Người lừa dối thực hiện hành vi lừa dối một cách cố ý, có ý thức và mong
muốn có được sự chấp nhận giao kết hợp đồng dân sự của người bị lừa dối,
hành vi đó phải được coi là xấu theo chuẩn mực đạo đức.
- Sự lừa dối là yếu tố quyết định đối với việc bên bị lừa dối giao kết hợp đồng
dân sự. Nếu không có hành vi cố ý làm cho người bị lừa dối hiểu sai lệch bản
chất sự việc thì không có một hợp đồng dân sự được giao kết.
14


Lừa dối chỉ được coi là yếu tố dẫn đến vô hiệu hợp đồng khi một bên cố ý
làm cho bên kia phải giao kết hợp đồng không theo ý muốn thực. Lừa dối và

nhầm lẫn đều là những khiếm khuyết của sự thể hiện ý chí của các bên trong
giao kết hợp đồng và đều giống nhau ở chỗ cả hai đều liên quan đến việc trình
bày một cách trực tiếp hay gián tiếp về những sự việc không đúng sự thật hay
không tiết lộ một sự thật. Song sự lừa dối khác với nhầm lẫn ở chỗ: Sự nhầm
lẫn trong hợp đồng dân sự thiết lập trên cở sở sự nhầm lẫn là do một bên hoặc
người thứ ba có lỗi vô ý làm bên kia hiểu lầm, còn trong hợp đồng dân sự
thiết lập trên cơ sở lừa dối thì do sự cố ý của một bên hoặc người thứ ba gây
nên. Sự phân biệt giữa lừa dối và nhầm lẫn được xác định bởi tính chất và
mục đích của việc trình bày gian lận của một bên. Nhầm lẫn hay lừa dối đều
đưa đến hệ quả là hợp đồng có thể bị vô hiệu do thỏa thuận không thể hiện
đúng ý chí thật của các bên.
Việc xác định sự lừa dối có mang tính chất quyết định hay không đối với việc
một hợp đồng dân sự được giao kết cần phải dựa vào tình trạng cụ thể của
từng cá nhân và hoàn cảnh cụ thể khi người này giao kết hợp đồng dân sự.
Ví dụ: Các trường hợp làm giả hợp đồng, làm giấy tờ giả, lừa người thuê đất
dự án,..
d) Hợp đồng dân sự được thiết lập trên cơ sở sự đe dọa
Đe dọa được hiểu là việc một người dùng hành vi hay lời nói tác động vào ý
chí của một người khác làm cho người đó phải miễn cưỡng tuân theo sự sắp
đặt hay ý muốn của mình.
Trong BLD của nước ta Điều 132 đoạn ba có quy định: "Đe dọa trong giao
dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải
thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy
tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình".
Tuy nhiên không phải mọi hành vi, lời nói tác động vào ý chí người khác làm
cho người đó phải miễn cưỡng tuân theo sự sắp đặt đều được coi là đe dọa
trong giao dịch dân sự. Để hành vi đe dọa trở thành căn cứ xác định một giao
15



dịch dân sự vô hiệu cần có bốn điều kiện sau:
-Việc đe dọa có thể do một bên tham gia xác lập giao dịch dân sự thực hiện
hoặc cũng có thể do người thứ ba thực hiện.
- Sự đe dọa đó làm cho ý chí được tuyên bố của người bị đe dọa không phản
ánh trung thực ý chí nội tâm. Sự đe dọa được tạo bởi hai yếu tố: khách quan
và chủ quan:
+ Yếu tố khách quan được hiểu là mối nguy cơ đe dọa người bị đe dọa hoặc
người thân của người bị đe dọa như dùng vũ lực hay dùng các biện pháp
nhằm gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín...hoặc nhằm đưa
người bị đe dọa vào tình trạng không thể nhận thức được hành vi của mình.
+ Yếu tố mang tính chủ quan được hiểu là sự sợ hãi của nạn nhân về một tai
họa có nguy cơ xảy ra cho mình hoặc cho người thân của mình nếu không
thực hiện những hành vi nhất định do người đe dọa yêu cầu.
Như vậy ," đe dọa" được xem là hành vi dẫn dắt người bị đe dọa tuân theo ý
chí của người đe dọa mặc dù người bị đe dọa không muốn nhưng không thể
hoặc không dám cưỡng lại ý chí đó. Sự đe dọa trong việc giao kết một hợp
đồng dân sự là một hành vi vi phạm nghiêm trọng tính chất của hợp đồng.
- Sự đe dọa phải là yếu tố quyết định việc tham gia hợp đồng dân sự tức là sự
đe dọa phải mang tính cấp thiết và nghiêm trọng đến mức người bị đe dọa
không còn con đường nào khác ngoài việc chấp nhận giao kết hợp đồng dân
sự vì người bị đe dọa thực sự lo sợ về một tai họa có nguy cơ xảy ra ngay tức
khắc cho mình hoặc cho người thân của mình nếu không thực hiện những
hành vi nhất định do người đe dọa yêu cầu.
- Hành vi đe dọa được thực hiện đối với chính người giao kết hợp đồng dân
sự mà đối tượng bị tác động là tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy
tín của chính người đó hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của người đó.
Nếu so sánh giữa hai bộ luật BLDS 1995 và BLDS 2005 về giao dịch dân sự
được thiết lập trên cơ sở sự đe dọa thì BLDS 2005 có quy định chặt chẽ hơn
BLDS 1995, thể hiện ở chỗ BLDS 2005 xác định cụ thể những người thân
16



thích của người bị đe dọa là cha, mẹ, vợ, chồng, con của người đó chứ không
quy định một cách chung chung người thân của người đó. Tuy nhiên quy định
này có phần thu hẹp thái quá phạm vi chủ thể đối tượng bị tác động. Trong
cuộc sống, người ta có thể bị đe dọa bởi thiệt hại gây ra cho " người thân"
như: bạn bè, người yêu, những người ruột thịt khác ngoài cha, mẹ ,vợ , chồng,
con của người đó.
*) Ví dụ : A có một mảnh đất muốn bán với giá 600.000.000 đồng.B là người
muốn mua mảnh đất đó. Nhưng vì muốn mua mảnh đất với giá rẻ hơn, B đã
thuê C và tay chân của C đến để đe dọa A nếu không bán mảnh đất cho B với
giá 250.000.000 thì vợ con A sẽ gặp những chuyện không hay. Lo sợ cho vợ
con mình nên B đã đồng ý bán mảnh đất của mình với giá 250.000.000 cho B.
Trong trường hợp trên hành vi của C và tay chân của hắn là đe dọa và là
nguyên nhân dẫn đến hợp đồng mua bán giữa A và B vô hiệu bởi A đồng ý
bán ngôi nhà đó hoàn toàn không dựa trên cơ sở tự nguyện, tự do ý chí mà do
lo C và tay chân của hắn sẽ gây thiệt hại đến tính mạng và sức khỏe cho vợ
con của mình.
e) Hợp đồng dân sự thiết lập do người không nhận thức được hành vi của
mình :
Điều 133 BLDS 2005 quy định: "Người có năng lực hành vi dân sự
nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự
đó là vô hiệu".
Việc không nhận thực và điều khiển được hành vi của mình được hiểu
là người thực hiện hành vi có những biểu hiện thiếu logic, bất hợp lí mà bất
cứ một người có khả năng nhận thức bình thường nào trong một hoàn cảnh
bình thường sẽ không hành động như vậy. Do vậy việc giao kết hợp đồng dân
sự của người đó ở thời điểm này được coi là không dựa trên cơ sở của sự tự
nguyện và vì vậy hợp đồng được giao kết cũng không có hiệu lực pháp luật.


17


II/ Điều kiện về hình thức - Hình thức hợp đồng phải phù hợp với quy
định của pháp luật :
Hình thức của hợp đồng dân sự là cách thức biểu hiện ý chí ra bên
ngoài (thể hiện tuyên bố ý chí) của người giao kết hợp đồng dân sự. Thông
qua cách thức biểu hiện hợp đồng dân sự người ta có thể xác định được nội
dung của hợp đồng dân sự. Hợp đồng dân sự có hiệu lực chỉ khi thuộc các
hình thức mà Bộ luật dân sự quy định.
Ý nghĩa của hình thức hợp đồng dân sự:
- Là chứng cứ xác định quan hệ dân sự tồn tại giữa các bên tham gia vào hợp
đồng dân sự.
- Xác định quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia vào hợp đồng dân
sự đó.
- Xác định trách nhiệm dân sự của các bên khi có hành vi vi phạm pháp luật.
Theo điều 401 BLDS 2005, hình thức của hợp đồng dân sự bao gồm:
lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Về nguyên tắc, các bên giao
kết hợp đồng có thể thỏa thuận với nhau việc lựa chọn hình thức hợp đồng.
Chỉ trong một số trường hợp đặc biệt thì pháp luật mới có yêu cầu về hình
thức buộc các chủ thể phải tuân thủ theo (yêu cầu phải lập thành văn bản, phải
có chứng nhận, chứng thực, đăng kí, xin phép), tùy thuộc vào đối tượng cũng
như tầm quan trọng của hợp đồng, để bảo vệ lợi ích chung cũng như quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên giao kết hợp đồng hay người thứ ba.
Các hình thức hợp đồng dân sự:
1) Hình thức miệng (bằng lời nói):
Là hình thức phổ biến nhất trong xã hội hiện nay mặc dù hình thức này
có độ xác thực thấp. Hình thức miệng thường được áp dụng đối với các hợp
đồng được thực hiện ngay và chấm dứt ngay sau đó (mua bán trao tay đối với

những hàng hóa thông thường ở chợ...) hoặc giữa các chủ thể có quan hệ mật
thiết, tin cậy, giúp đỡ lẫn nhau (bạn bè, người thân cho vay, mượn tài sản...).
Nhưng cũng có trường hợp hợp đồng dân sự nếu được thể hiện bằng hình
18


thức miệng phải bảo đảm tuân thủ những điều kiện luật định mới có giá trị
(Di chúc miệng - Khoản 5 Điều 652 BLDS).
Ưu điểm: nhanh chóng, dễ dàng thực hiện, có hiệu lực ngay, không phải tuân
theo những thủ tục rườm rà.
Nhược điểm: Khó khăn khi giải quyết tranh chấp phát sinh, tính hiệu lực
trong một số trường hợp không cao.
2) Hình thức văn bản:
Là một bằng chứng chứng minh sự tồn tại của 1 hợp đồng dân sự và là
cơ sở để tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào đó để giải quyết
tranh chấp khi có tranh chấp xảy ra.
Hình thức văn bản được chia làm 2 loại: Văn bản thường và văn bản có công
chứng.
- Văn bản thường: Do các bên tham gia hợp đồng dân sự tự thoả thuận giao
kết, hoặc pháp luật quy định hợp đồng phải thể hiện bằng hình thức văn bản
(đối với hợp đồng thuê nhà, hợp đồng bảo hiểm...). Nội dung hợp đồng được
thể hiện trên văn bản có chữ kí xác nhận của các chủ thể nên hình thức này là
chứng cứ xác định chủ thể đã tham gia vào một hợp đồng dân sự rõ ràng hơn
so với trường hợp hợp đồng được thể hiện bằng lời nói.
- Văn bản có công chứng, chứng nhận, hoặc hợp đồng dân sự được thể hiện
bằng văn bản phải được đăng ký hoặc cho phép: Là văn bản có chữ ký của
các bên tham gia hợp đồng và bắt buộc phải được cơ quan công chứng nhà
nước hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng nhận thì hợp đồng đó mới
có hiệu lực pháp luật. Những hợp đồng này thường là những hợp đồng có giá
trị lớn, có ý nghĩa quan trọng như hợp đồng mua bán nhà, hợp đồng tặng cho

bất động sản...
3) Hình thức hợp đồng bằng hành vi:
Hợp đồng dân sự có thể được giao kết thông qua những hành vi nhất
định theo quy ước định trước. Ví dụ: Mua nước ngọt bằng máy tự động, chụp
ảnh bằng máy tự động, gọi điện thoại tự động... Đây là hình thức giản tiện
19


nhất của hợp đồng, chủ yếu được các cá nhân áp dụng trong đời sống hàng
ngày để thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt. Hợp đồng có thể được giao kết thông
qua hình thức này mà không nhất thiết phải có sự hiện diện đồng thời của tất
cả các bên tại nơi giao kết. Hình thức này càng ngày càng trở nên phổ biến,
nhất là tại những quốc gia có nền công nghiệp tự động hoá phát triển.
Đặc trưng của loại hợp đồng bằng hành vi là hiệu lực của hợp đồng phát sinh
đồng thời cũng chấm dứt ngay tại thời điểm mà một hoặc các bên chuyển giao
cho nhau đối tượng của hợp đồng. Các ưu và khuyết điểm của hình thức giao
dịch này cũng giống như hình thức lời nói.
Hình thức này không được áp dụng cho "giao dịch dân sự một bên", ví dụ như
việc lập di chúc, từ bỏ quyền đòi nợ...

***
Phần kết:
.
Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch dân sự phổ biến và thông dụng
nhất. Trong cuộc sống xã hội con người, các cá nhân hàng ngày luôn phải
tham gia vào các loại hợp đồng được thể hiện duới nhiều hình thức để đảm
bảo những lợi ích và nhu cầu cho cuộc sống. Sự cần thiết ấy là một điều
không thể thiếu, Bộ luật dân sự 2005 đã đảm bảo cho việc giao kết hợp đồng
trở nên thống nhất và thuận tiện hơn và là một nền tảng vững chắc khi hợp
đồng phù hợp với ý chí của nhà nước. Các điều kiện để một hợp đồng dân sự

có hiệu lực chính là một yêu cầu tất yếu để có thể thống nhất được lợi ích của
cá nhân và ý chí của nhà nước khi tham gia giao kết hợp đồng dân sự. Việt
Nam đang trên đà phát triển hội nhập kinh tế quốc tế vì vậy ngày sẽ càng phát
sinh nhiều quan hệ giao lưu buôn bán, những quy định về hợp đồng của pháp
luật nước ta nên luôn nắm bắt được tình hình chung và ngày càng có nhiều
những sự điều chỉnh, bổ sung phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.

20



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×