Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Quyền yêu cầu ly hôn và hạn chế quyền yêu cầu ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.6 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
A – ĐẶT VẤN ĐỀ.................................................................................................................................2
B – NỘI DUNG....................................................................................................................................2
1.1 Khái niệm:............................................................................................................................2
1.2. Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam...................................................4
2.Quyền yêu cầu ly hôn và hạn chế quyền yêu cầu ly hôn.............................................................7
2.1 Quyền yêu cầu ly hôn..........................................................................................................7
2.2 Hạn chế quyền yêu cầu ly hôn...........................................................................................10
3.Ý nghĩa của việc quy định quyền yêu cầu ly hôn và hạn chế quyền yêu cầu ly hôn..................12
3.1 Ý nghĩa của quyền ly hôn...................................................................................................12
3.2 Ý nghĩa của hạn chế quyền ly hôn......................................................................................12
KẾT LUẬN.........................................................................................................................................14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................15

1


A – ĐẶT VẤN ĐỀ
Có thể nói, hôn nhân gia đình là trái ngọt của tình yêu. Tuy nhiên
không phải cuộc hôn nhân nào cũng đẹp như một cậu chuyện cổ tích. Khi
bánh xe tình yêu lăn xuống con dốc của sự chia ly thì gió theo lối gió mây
đường mây. Ly hôn chính là giả pháp cuối cùng để chấm dứt tình trạng căng
thẳng trong quan hệ hôn nhân gia đình. Thông thường khi ly hôn, phụ nữ và
trẻ em luôn là những đối tượng phải gánh chịu những hậu quả thiệt thòi nhất.
Xuất phát từ truyền thống nhân đạo của người Việt Nam và cũng để khắc
phục tình trạng trên, pháp luật về hôn nhân và gia đình có quy định về vấn đề
quyền ly hôn và những hạn chế trong quyền ly hôn. Vậy thì chủ thể nào bị
hạn chế quyền ly hôn? Tại sao phải hạn chế như vậy? cho nên, ở bài tập nhóm
tháng lần 2 này, chúng tôi đã tập trung nghiên cứu đề tài: Quyền yêu cầu ly
hôn và hạn chế quyền yêu cầu ly hôn.


B – NỘI DUNG
1.Một số vấn đề lý luận về ly hôn
1.1 Khái niệm:
Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết
định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả 2 vợ chồng (theo khoản 8 Điều
8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000)
Chấm dứt hôn nhân bằng cách ly hôn là một biện pháp được thừa nhận
từ rất sớm trong luật Việt Nam. Tại Bộ Quốc triều hình luật Ðiều 308 có ghi:
Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng mà không đi lại (vợ được trình với quan
sở tại và xã quan làm chứng), thì mất vợ. Nếu vợ đã có con, thì cho hạn 1
năm. Vì việc quan phải đi xa, thì không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ, mà lại
ngăn cản người khác lấy vợ mình, thì phải tội biếm. Thực ra, điều luật được
viết không tốt lắm, nhưng thực tiễn ly hôn vẫn được ghi nhận. Việc ly hôn
cũng được thừa nhận tại Bộ luật Gia Long Ðiều 108 (thuận tình ly hôn).
Trong thời kỳ thuộc địa, chế định ly hôn được xây dựng dựa theo khuôn mẫu

2


Pháp (Dân Luật giản yếu thiên thứ VI, BLDS Bắc Ðiều 116 đến 150; BLDS
Trung Ðiều 115 đến 147). Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, ly hôn được thừa
nhận như là một trong những biện pháp giải phóng phụ nữ khỏi sự kiềm hãm
của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến. Điều đó cho thấy chế định ly
hôn được liên tục hoàn thiện trong luật Việt Nam hiện đại.
Pháp luật của nhà nước phong kiến, tư sản thường quy định hoặc là
cấm vợ chồng ly hôn, hoặc đặt ra các điều kiện hạn chế quyền ly hôn của vợ
chồng, hoặc quy định giải quyết ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ chồng. Hệ
thống pháp luật hôn nhân và gia đình ở nước ta dưới thời phong kiến, thực
dân cũng đã thể hiện cụ thể luận điểm trên. Dưới chế độ cũ, quyền yêu cầu ly
hôn và các duyên cớ ly hôn theo luật định thường dựa trên quan hệ bất bình

đẳng giữa vợ chồng. Ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp, vì nó ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi, hạnh phúc của vợ chồng, đến lợi ích của gia
đình và xã hội. Trong những năm gần đây, các vụ việc ly hôn ở nước ta và các
nước trên thế giới gia tăng đáng kể. Những nguyên nhân, lý do ly hôn cũng
rất đa dạng, phức tạp. Vì vậy, muốn giải quyết ly hôn chính xác, vừa bảo đảm
quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, vừa bảo đảm lợi ích của gia
đình và xã hội, cán bộ thẩm phán cần nắm vững quy định của pháp luật, điều
tra, tìm hiểu kỹ lưỡng nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng, tâm tư tình
cảm, nguyện vọng của mỗi đương sự, đồng thời phải lưu ý đến các đặc điểm
về tình hình kinh tế - chính trị và xã hội tác động vào quan hệ hôn nhân trong
thời điểm giải quyết ly hôn, để kết hợp đúng đắn đường lối chính sách cụ thể
của Đảng và Nhà nước đối với việc giải quyết từng loại án kiện về ly hôn.
Thông qua pháp luật, Nhà nước bảo vệ lợi ích của gia đình, của xã hội bằng
việc xác định những điều kiện cho phép chấm dứt quan hệ vợ chồng trước
pháp luật, xác định trong những điều kiện nào thì hôn nhân không còn là hôn
nhân nữa. Đây chính là việc Nhà nước quy định căn cứ để giải quyết ly hôn.

3


1.2. Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam
Nhà nước bằng pháp luật quy định trong những điều kiện nào thì cho
phép xác lập quan hệ vợ chồng, đồng thời xác định trong những điều kiện,
căn cứ nhất định mới được phép xóa bỏ (chấm dứt) quan hệ hôn nhân. Đó
chính là căn cứ ly hôn được quy định trong pháp luật của Nhà nước. Như vậy,
căn cứ ly hôn là những tình tiết (điều kiện) được quy định trong pháp luật và
chỉ khi có những tình tiết (điều kiện) đó, Tòa án mới được xử cho ly hôn.
Khác với nhà nước phong kiến và tư sản, Luật hôn nhân và gia đình các
nước xã hội chủ nghĩa quy định giải quyết ly hôn theo đúng thực chất của vấn
đề, hoàn toàn không dựa vào lỗi của vợ chồng, trên cơ sở nhìn nhận khách

quan, đánh giá đúng thực chất của quan hệ hôn nhân đã hoàn toàn tan vỡ.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước quy định căn cứ ly hôn thật sự khoa
học, là biện pháp hữu hiệu củng cố các quan hệ gia đình, bảo vệ lợi ích chính
đáng của các đương sự. Ý chí của vợ chồng không phải là điều kiện quyết
định để phá bỏ hôn nhân mà việc giải quyết ly hôn phải căn cứ vào điều kiện
(căn cứ pháp lý về ly hôn) được quy định trong luật hôn nhân và gia đình. Nó
phản ánh bản chất của hôn nhân đã tan vỡ, nghĩa là hôn nhân đã chết rồi, việc
Tòa án xử cho ly hôn chỉ là việc công nhận một thực tế khách quan: Hôn nhân
không thể tồn tại được nữa.
Hệ thống luật hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta từ năm 1945 đến
nay đã quy định căn cứ ly hôn ngày càng hoàn thiện, phù hợp, là cơ sở pháp
lý để tòa án giải quyết các án kiện ly hôn. Năm 1950, Sắc lệnh số 97/SL và
Sắc lệnh số 159/SL được Nhà nước ta ban hành nhằm giải quyết những vấn
đề cấp bách, góp phần vào việc xóa bỏ ảnh hưởng của chế độ hôn nhân và gia
đình phong kiến, đế quốc, thực hiện quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ
và chồng, xóa bỏ quyền gia trưởng, đáp ứng với sự nghiệp giải phóng phụ
nữ… (trong cổ luật phong kiến Việt Nam, quyền ly hôn thường do người
chồng quyết định, dựa vào tội của vợ (thất xuất)).

4


Điều 5 của Sắc lệnh số 159/SL đã quy định 5 duyên cớ ly hôn chung
của cả hai vợ chồng là: ngoại tình, một bên can án phạt giam, một bên mắc
bệnh điên hoặc một bệnh khó chữa khỏi, một bên bỏ nhà đi quá 2 năm không
có duyên cớ chính đáng, vợ chồng tính tình không hợp hoặc đối xử với nhau
đến nỗi không thể sống chung được. Sắc lệnh có những ưu điểm là mang tính
dân chủ và tiến bộ của một nền pháp chế mới nhưng lại quy định căn cứ ly
hôn vẫn dựa trên cơ sở lỗi của vợ chồng. Luật hôn nhân và gia đình 1959
(Điều 26), Luật hôn nhân gia đình năm 1986 (Điều 40) và hiện nay, Luật hôn

nhân và gia đình năm 2000 (Điều 89) đã quy định cứ ly hôn theo quan điểm
của chủ nghĩa Marx-Lenin. Trong mọi trường hợp ly hôn, dù ly hôn do một
bên vợ, chồng yêu cầu hay hai vợ chồng thuận tình ly hôn, Tòa án nhân dân
đều phải tiến hành điều tra và hòa giải nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình, vợ
chồng đoàn tụ hạnh phúc, chỉ khi nào xét thấy quan hệ vợ chồng đã thực sự
đến mức tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích
của hôn nhân không đạt được thì Tòa án mới giải quyết cho ly hôn. Đó là nội
dung căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Điều 89 Luật hôn nhân gia đình 2000 quy định:
1. Toà án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng,
đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì
Toà án quyết định cho ly hôn.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất
tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn.
Khi thực tế quan hệ vợ chồng ở trong tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài thì thường dẫn tới hậu quả làm cho mục đích của
hôn nhân không đạt được. Mục đích của hôn nhân dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền
vững (Điều 1 Luật hôn nhân gia đình năm 2000). Điều đó thể hiện mối liên hệ
hài hòa, gắn bó giữa mặt riêng tư và mặt xã hội trong quan hệ hôn nhân. Mặt
riêng tư trong quan hệ hôn nhân là hạnh phúc của bản thân vợ chồng trong

5


quan hệ hôn nhân. Đó không chỉ là tình yêu giữa vợ chồng mà còn gồm nhiều
mặt trong đời sống của vợ chồng cũng như của cả gia đình. Lợi ích của xã hội
trong hôn nhân thể hiện ở sự tồn tại vững bền của bản thân mối quan hệ hôn
nhân của mỗi cặp vợ chồng và lợi ích của các con. Không chỉ vợ chồng, các
con mà cả Nhà nước và xã hội đều quan tâm tới việc xây dựng và củng cố

quan hệ hôn nhân, làm sao cho hôn nhân được bền vững, gia đình hòa thuận,
hạnh phúc. Sự bền vững của hôn nhân là sự bền vững của từng gia đình và
làm cho xã hội bền vững. Trong một gia đình đầm ấm, hạnh phúc thì các
thành viên của gia đình đều phấn khởi trong lao động, sản xuất, tạo ra nhiều
sản phẩm cho xã hội. Con cái được chăm sóc, giáo dục trở thành công dân có
ích cho xã hội.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của mỗi thành viên trong gia
đình, lợi ích của gia đình và lợi ích của xã hội gắn bó với nhau và có quan hệ
hữu cơ với nhau. Quan hệ vợ chồng tồn tại không còn có lợi cho gia đình và
cho xã hội thì ly hôn là tất yếu, không tránh khỏi.h
Quy định ở khoản 2 Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã cụ
thể hóa hậu quả của việc tòa án tuyên bố công dân bị mất tích trong BLDS
của Nhà nước ta. Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, việc chồng hoặc vợ bị
mất tích đã ảnh hưởng sâu sắc tới quan hệ vợ chồng và các thành viên trong
gia đình. Khi đó cần phải giải phóng cho vợ, chồng thoát khỏi hoàn cảnh đặc
biệt này, khi họ có yêu cầu được ly hôn với người chồng vợ đã bị tòa án tuyên
bố mất tích.
Như vậy, căn cứ ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000 của
Nhà nước ta được quy định dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin, có
cơ sở khoa học và thực tiễn kiểm nghiệm trong mấy chục năm qua, từ khi
Nhà nước ta ban hành Luật hôn nhân và gia đình năm 1959. Khi giải quyết ly
hôn, không thể hiểu đơn thuần tình trạng trầm trọng, đời sống chung không
thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được là tình yêu giữa vợ chồng
không còn nữa mà điều đó nói lên một thực trạng hôn nhân đã tan vỡ, quan hệ

6


vợ chồng không thể tồn tại được nữa, vì sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và
giả dối và ly hôn là một giải pháp tích cực để giải phóng cho vợ chồng cũng,

đảm lợi ích của vợ chồng, của gia đình và của xã hội.
2.Quyền yêu cầu ly hôn và hạn chế quyền yêu cầu ly hôn
Ly hôn là một mặt của quan hệ hôn nhân. Nếu kết hôn là hiện tượng
bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng thì ly hôn là hiện tượng bất bình
thường, là mặt trái của hôn nhân nhưng là mặt không thể thiếu được khi quan
hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Trong trường hợp đó, ly hôn là một việc cần
thiết cho cả vợ chồng và cho xã hội; vì nó giải phóng cho tất cả mọi người,
cho cả vợ chồng, các con cũng như các thành viên trong gia đình thoát khỏi
xung đột, mâu thuẫn bế tắc trong cuộc sống chung. Vì thế, pháp luật trao cho
vợ, chồng quyền được yêu cầu xin ly hôn khi họ thấy cuộc sống hôn nhân
không thể tiếp tục.
2.1 Quyền yêu cầu ly hôn
Theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, quyền yêu cầu ly hôn nhằm
chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật là quyền nhân thân gắn liền với
nhân thân của vợ, chồng; chỉ có vợ, chồng hay cả hai vợ chồng mới có quyền
yêu cầu ly hôn; và cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét xử ly hôn là Tòa án
nhân dân.
Khoản 1 điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định:
Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu tòa án giải quyết việc ly
hôn.
Theo đó, cả vợ và chồng đều có quyền yêu cầu ly hôn khi cuộc sống
gia đình không thể tiếp tục. Quy định này đã góp phần thực hiện quyền bình
đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng; xóa bỏ quyền gia trưởng. Tuy nhiên,
không phải cứ yêu cầu ly hôn thì sẽ được Tòa án giải quyết, Tòa án chỉ quyết
định cho ly hôn khi tình trạng hôn nhân đã trở nên trầm trọng, không thể tiếp
tục chung sống lâu dài, mục đích của cuộc hôn nhân không đạt được. Xét trên

7



cơ sở lý luận và thực tiễn cho thấy, tình trạng vợ chồng đã đến mức trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài là muốn nói đến tình yêu của vợ
chồng không còn nữa, có thể tình yêu đó đã bị phai nhạt hay bị một tình yêu
mới lấn át, dẫn đến vợ chồng có những mâu thuẫn sâu sắc đến mức không thể
giải quyết được. Nếu vợ chồng tiếp tục chung sống thì không những không
đem lại hạnh phúc mà còn đem lại sự đau khổ cho họ, tình trạng đó ảnh
hưởng xấu tới đời sống của những thành viên trong gia đình mà đặc biệt là
việc chăm sóc và giáo dục con cái.
Thực tế xét xử trong những năm qua cho thấy nguyên nhân dẫn đến
tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài rất đa dạng. Có thể vì
có hành vi đánh đập, ngược đãi; vì ngoại tình; vì mâu thuẫn gia đình; vì bệnh
tật, không có con; vì một bên đi nước ngoài và ở lại đó lâu dài…
Qua tổng kết thực tiễn giải quyết các án kiện ly hôn của Tòa án cho
thấy số vụ ly hôn do có hành vi ngược đãi, đánh đập chiếm tỷ lệ cao nhất
trong các nguyên nhân dẫn đến ly hôn ở nước ta. Năm 1995 có 18.353 vụ
(chiếm 56.4%), năm 1996 có 19.425 vụ (chiếm 56.3%), năm 1997 có 20.910
vụ (chiếm 56.3%). Trong đó đa phần phụ nữ là nạn nhân của tình trạng này.
Tình trạng bạo lực trong gia đình xảy ra vì nhiều lí do khác nhau: cuộc sống
vật chất quá khó khăn, do ghen tuông, nghi ngờ một bên ngoại tình, tệ cờ
bạc…Bên cạnh đó cũng có trường hợp dẫn đến án mạng.
Biểu hiện của tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài
là rất khác nhau, đa dạng và phong phú. Trước thực tế đó, cần có những quy
định cụ thể trong việc xác định quan hệ vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài. Nghị quyết số 02/2000/HĐTP ngày 23 tháng
12 năm 2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã hướng dẫn:
được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi vợ, chồng không yêu
thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận
của người đó, bỏ mặc nguwoif kia muốn sống ra sao thì ra; vợ hoặc chồng


8


luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau; vợ chồng không chung thủy với
nhau như có quan hệ ngoại tình (mục 8 điểm a1).
Trong trường hợp đặc biệt, khi người vợ hoặc chồng của nguời bị tòa
án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì tòa án giải quyết cho ly hôn. Quy định này
đã cụ thể hóa hậu quả của việc tòa án quyên bố công dân bị mất tích trong Bộ
luật dân sự của Nhà nước ta. Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, việc chồng
hoặc vợ bị mất tích đã ảnh hưởng sâu sắc tới quan hệ vợ chồng và các thành
viên trong gia đình. Vì vậy, cần phải giải phóng cho vợ, chồng thoát khỏi
hoàn cảnh đặc biệt này, khi họ có quyền yêu cầu được ly hôn với người
chồng (vợ) đã bị tòa án tuyên bố mất tích.
Như vậy, nhà nước trao cho vợ, chồng có quyền yêu cầu ly hôn khi
cuộc sống hôn nhân không thể tiếp tục. Quy định đó cũng xuất phát từ nguyên
tắc: hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. Nhà nước, bằng pháp luật của mình không
thể cưỡng ép nam, nữ phải yêu nhau và kết hôn với nhau thì cũng không thể
bắt buộc vợ, chồng phải chung sống với nhau, phải duy trì quan hệ hôn nhân
khi yêu thương, gắn bó đã hết và mục đích của cuộc hôn nhân là không thể
đạt được. Vì vậy, khi cảm thấy yêu thương không còn và không thể tiếp tục
duy trì cuộc sống hôn nhân, họ có quyền tìm đến sự giải thoát đó là ly hôn.
Trên thực tế, khi cuộc sống hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng,
không thể tiếp tục thì chúng ta không thể buộc hai con người đó tiếp tục
chung sống. Đó sẽ là một cực hình đối với cả hai vợ chồng cũng như con cái
trong gia đình. Ly hôn sẽ giúp họ có thêm cơ hội để đi tìm hạnh phúc mới và
giúp con cái thoát khỏi hoàn cảnh đặc biệt đó. Tuy nhiên, dù có quyền được
ly hôn nhưng vợ, chồng cũng phải sử dụng quyền ấy sao cho hợp lý nhất.
Trên thực tế, có nhiều cặp vợ chồng sử dụng quyền này như một biện pháp để
đe dọa đối phương khi cần thiết, một số khác thì lại lạm dụng quyền, đồng ý
ly hôn trong khi vẫn còn yêu nhau. Khi Tòa án hòa giải thì họ khăng khăng

đòi ly hôn; nhưng sau đó, khi nhận ra rằng tình cảm với nhau vẫn còn, họ lại
trở về. Ly hôn chỉ thực sự là lối thoát tốt nhất khi các thành viên trong gia

9


đình không thể nào chung sống bình thường, quan hệ vợ chồng không thể tồn
tại được, sự tam vỡ của hôn nhân, sự ly tán của gia đình là không thể tránh
khỏi. Vì vậy, trước khi quyết định ly hôn, hai bên chủ thể cần phải cân nhắc
kĩ, tránh trường hợp sau này phải hối tiếc.
Sau khi cha, mẹ có yêu cầu ly hôn và được Tòa án giải quyết thì quyền
lợi của con cái được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn căn cứ vào các
Điều 92,93,94 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Về tài sản giữa
những người chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
thì giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu
của người đó, tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên, nếu không
thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp
của mỗi bên, ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.
2.2 Hạn chế quyền yêu cầu ly hôn
Khoản 2 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 có quy định về
trường hợp hạn chế quyền ly hôn:
Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì
chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn.
Theo quy định tại khoản 6 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày
23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã nếu rõ:
Theo quy định tại điều 85 thì vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền
yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn. Tuy nhiên người chồng không có quyền
yêu cầu xin ly hôn khi vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng
tuổi. Luật chỉ quy định “vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng

tuổi”, do đó, khi người vợ thuộc một trong các trường hợp này (không phân
biệt người vợ có thai với ai hoặc bố của đứa trẻ dưới 12 tháng tuổi là ai)...
Như vậy, theo quy định tại điều 85 và hướng dẫn tạo nghị quyết số
02/2000/NQ-HĐTP, vấn đề hạn chế quyền ly hôn chỉ đặt ra đối với người
chồng trong một trường hợp duy nhất là khi người vợ đang có thai hoặc đang
10


nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Khi đó, nếu người chồng có yêu cầu ly hôn thì
cũng sẽ không được Tòa án chấp nhận. Sở dĩ luật quy định như vậy là xuất
phát từ nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em, bảo vệ phụ nữ có thai và thai nhi.
Tránh trường hợp người chồng, người cha trốn tránh nghĩa vụ đối với vợ và
với con.
Trong quan hệ vợ chồng, việc sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái không
phải đơn thuần là việc của riêng người vợ, mà đó là việc chung, trách nhiệm
chung của cả hai vợ chồng. Mặt khác, sinh đẻ là chức năng xã hội của gia
đình. Vì vậy, phải thấy được trách nhiệm chung đó để giải quyết việc ly hôn
cho thỏa đáng, hợp tình nhằm bảo đảm quyền lợi của phụ nữ và của con cái,
bảo vệ lợi ích của gia đình và xã hội.
Nếu trong trường hợp người vợ đang mang thai hoặc đang nuôi con
dưới 12 thánh tuổi mà người chồng có yêu cầu ly hôn thì giải quyết như sau:
Trong trường hợp chưa thụ lý vụ án thì tòa án áp dụng Điều 168 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2005 để trả lại đơn ly hôn cho người nộp đơn.
Trong trường hợp đã thụ lý vụ án thì Tòa án cần giải thích cho người
nộp đơn biết là họ chưa có quyền yêu cầu xin ly hôn. Nếu người nộp đơn rút
đơn yêu cầu ly hôn thì áp dụng Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2005 ra quyết
định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Nếu người nộp đơn không rút đơn yêu cầu
ly hôn thì Tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung và quyết định
bác đơn yêu cầu ly hôn của họ.
Tuy nhiên, một điểm đáng lưu ý là quy định tại khoản 2 Điều 85 chỉ áp

dụng đối với người chồng mà không áp dụng đối với người vợ. Trong trường
hợp người vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, xét thấy
mâu thuẫn vợ chồng rất sâu sắc, tình cảm yêu thương giữa vợ chồng đã hết,
nếu duy trì quan hệ hôn nhân sẽ không có lợi cho sức khoe của mình, của thai
nhi hay của con mới sinh, mà người vợ có yêu cầu ly hôn thì tòa án vẫn thụ lý
yêu cầu ly hôn của người vợ và giải quyết án theo thủ tục chung.

11


3.Ý nghĩa của việc quy định quyền yêu cầu ly hôn và hạn chế quyền yêu
cầu ly hôn.
3.1 Ý nghĩa của quyền ly hôn.
Quyền yêu cầu ly hôn là một trong những quyền lợi hợp pháp của vợ
và chồng. Nó tạo điều kiện cho người nam và nữ có được cơ hội mới để có
thể tìm kiếm hạnh phúc đích thực. Vì vậy, quy định quyền yêu cầu ly hôn,
pháp luật muốn bảo đảm cho nguyên tắc: hôn nhân tiến bộ, tự nguyện.
3.2 Ý nghĩa của hạn chế quyền ly hôn
Tuy nhiên, xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích cho người phụ nữ và trẻ em,
Luật Hôn nhân và gia đình cũng quy định những trường hợp hạn chế quyền
yêu cầu ly hôn.
Việc hạn chế quyền yêu cầu ly hôn phần nào mong muốn những người
đã là vợ chồng phải cân nhắc kỹ lưỡng, hãy nghĩ đến lợi ích của đứa con còn
nhỏ mà bỏ qua những khúc mắc trong đời sống chung để cùng nhau xây dựng
lại hạnh phúc, con cái có cuộc sống vui vẻ, trở thành người có ích cho xã hội.
Khi ly hôn, đứa con sẽ bị tổn thương nhiều nhất và việc ly hôn của cha mẹ sẽ
ảnh hưởng xấu đến tâm sinh lý của trẻ, nhất là trẻ vị thành niên. Có nhiều gia
đình sau khi bố mẹ ly hôn ảnh hưởng rất nhiều tới sự phát triển của các con.
Do thiếu sự quan tâm chăm sóc, thiếu thốn tình thương của cha mẹ con cái trở
nên hư hỏng, bụi đời và là điều kiện phát triển cho các tệ nạn xã hội. Trẻ em

là mầm non của đất nước, là thành viên trong gia đình đồng thời cũng là thành
viên của xã hội thuộc thế hệ sau. Vì vậy cần thiết phải bảo vệ trẻ em-mần
mống của xã hội, phải chăm lo đến sự phát triển một cách lành mạnh về cả thể
chất và tinh thần, trí tuệ và đạo đức để thế hệ sau có thể trưởng thành và tiếp
tục gánh vác sự nghiệp của cha ông ta để lại.
Quyền lợi của phụ nữ là trách nhiệm của nam giới - Karl Kraus. Phụ
nữ được ban cho thiên chức làm mẹ để duy trì sự sống, sự phát triển của xã
hội loài người. Nhưng việc sinh con không đơn thuần là việc riêng của người
mẹ mà là việc chung, là trách nhiệm của cả hai vợ chồng. Chính vì vậy mà

12


quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng khi vợ đang mang
thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi là quy định hợp lý, bảo vệ người
mẹ, tạo mọi điều kiện cần thiết và tốt nhất để mỗi bà mẹ thực hiện tốt được
thiên chức của mình. Nhất là khi người phụ nữ mang thai, dẫn đến sự thay đổi
tâm sinh lý, vì thế, người chồng càng phải có nghĩa vụ ở bên chăm sóc đối với
người vợ.
Như chúng ta đã biết để hai con người có thể yêu nhau rồi tiến tới kết
hôn là cả một quá trình không chỉ về mặt xã hội mà còn cả luật pháp nữa hôn
nhân là một việc vô cùng to lớn của cuộc đời người, nó giúp cho mỗi con
người có một gia đình để làm chỗ dựa, để che trở cho họ. Bên cạnh đó việc
kết hôn có giá trị vô cùng to lớn đối với xã hội, nó gắn kết con người với con
người ngày càng bền chặt và tích cực hơn trên cơ sở tình cảm giữa hai gia
đình họ nhà trai và họ nhà gái. Ngược lại việc ly hôn không chỉ làm cho hai
con người từ yêu mến nhau phải xa lìa nhau, thậm chí có nhiều trường hợp trở
nên thù ghét nhau.
Bên cạnh đó, việc hạn chế quyền yêu cầu ly hôn hạn chế những vụ ly
hôn do sự nông nổi, mâu thuẫn nhỏ nhặt mà dẫ đến quyết định sai lầm, gây

hậu quả xấu cho hai bên vợ chồng và đặc biệt là trẻ em, nhất là tác đọng xấu
đến tâm lý người mẹ đang mang thai.
Như vậy chỉ bấy nhiêu phân tích ở trên thôi thì bạn có thể thấy hậu quả
tiêu cực mà việc ly hôn đã gây ra cho xã hội. Dù đứng ở góc độ nào đi chăng
nữa chúng ta cũng đều muốn xã hội mà chúng ta đang sống ngày càng trở nên
tốt đẹp hơn phải không nào? Đương nhiên không ai muốn nhìn thấy cảnh vợ
chồng phải chia tay, ly hôn để con cái phải bơ vơ cả mặc dù vẫn có những
trường hợp chia tay là một giải pháp tốt (ví dụ chồng ngược đãi vợ, baọ hành,
đánh đập vợ…)

13


KẾT LUẬN
Quyền ly hôn và hạn chế quyền ly hôn là một trong những quyền của
người làm vợ, làm chồng. Nhưng không vì thế mà chúng ta được lạm dụng
quyền đó. Cần sử dụng quyền sao cho hợp lý nhất. Tuy nhiên, hạnh phúc gia
đình là điều đáng quý và không gì đánh đổi được. Vì vậy, mỗi người chúng ta
hay cố gắng giữ cho được hạnh phúc của mình, đừng để đến lúc mất đi rồi
mới thấy tiếc nuối.

14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. Luật hôn nhân và gia đình 1959, 1986, 2000
3. Các nghị định, thông tư, nghị quyết:
- Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP.

- Thông tư 60/DS ngày 22/2/1978.
- Nghị quyết 35/2000/NQ – QH 10.
- Nghị định 87/2001/NĐ – CP.
4. Đinh Thị Mai Hương, Bình luận khoa học luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
5. Nguyễn Văn Cừ, Ngô Thị Hường, Một số vấn đề ly luận và thực tiễn về
luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
6. Website
www.tuvanphapluat.mobi
www.thuvienphapluat.vn
www.giadinh.net
www.thongtinphapluatdansu.wordpress.com
www.diendansinhvienluat.vn

15



×