Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Chuyên đề về Hành vi tập trung kinh tế, đề tài nghiên cứu về thể chế cạnh tranh trong điều kiện phát triển thị trường tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.53 KB, 14 trang )

MỤC LỤC


I. LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đang có sự chuyển mình một cách rõ rệt
theo hướng xây dựng một nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế phát triển thì sự cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp cũng gia tăng theo. Dưới sức ép của cạnh tranh, nhà kinh doanh
ln tìm cách nâng cao năng lực kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển. Mỗi doanh
nghiệp lại có cách thức riêng để nâng cao năng lực kinh doanh, có thể là nâng cao năng lực
tài chính, cải tiến tổ chức quản lý, phát triển công nghệ mới, thay đổi chiến lược sản xuất
kinh doanh và cũng có thể là tiến hành tập trung kinh tế. Về lí luận sự, tập trung kinh tế
làm xuất hiện các ông lớn làm thay đổi cơ cấu của thị trường có thể dẫn tới việc hình thành
những doanh nghiệp giữ vị trí thống lĩnh thị trường, những doanh nghiệp độc quyền gây
hạn chế cạnh tranh. Chính vì vậy, nhà nước đã có những biện pháp nhằm kiểm soát hành vi
tập trung kinh tế, được quy định cụ thể trong Luật cạnh tranh năm 2004.

II. NỘI DUNG CHÍNH
1. Khái quát chung về tập trung kinh tế.

1.1. Khái niệm.
Luật cạnh tranh năm 2004 ghi nhận hành vi hạn chế cạnh trnah là hành vi của doanh
nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm ba nhóm cơ bản đó
là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền và
tập trung kinh tế. Khái niệm hành vi tập trung kinh tế được bình luận ở nhiều góc độ khác
nhau trong kinh tế học và trong khoa học pháp lý.
Dưới góc độ kinh tế học, tập trung kinh tế được xem như một quá trình gắn liền với
việc hình thành và thay đổi của cấu trúc thị trường, hành vi tập trung kinh tế trên thị trường
được hiểu là việc giảm số lượng các doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường thông
qua các hành vi sáp nhập (theo nghĩa rộng) hoặc thông qua tăng trưởng nội sinh của doanh
nghiệp trên cơ sở mở rộng năng lực sản xuất (1).Cách hiểu tập trung kinh tế này đã chỉ ra
nguyên nhân của tập trung kinh tế (thông qua việc sáp nhập, tăng trưởng nội sinh của


doanh nghiệp) và dẫn đến hậu quả là làm giảm các doanh nghiệp trên thị trường. Theo cách
hiểu này các nhà kinh tế đã coi tập trung kinh tế là quá trình tích lũy tư bản hay tập trung tư
bản.
Dưới góc độ pháp lý, pháp luật Việt Nam mà cụ thể là Luật cạnh tranh năm 2004 đã
không quy định một cách cụ thể khái niệm tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê các hành vi được
1()

Lê Viết Thái, “Chuyên đề về Hành vi tập trung kinh tế, đề tài nghiên cứu về thể chế cạnh tranh trong
điều kiện phát triển thị trường tại Việt Nam” (Viện nghiên cứu thương mại- Bộ Thương mại, 2005)

2


coi là tập trung kinh tế. Theo đó, Điều 16 Luật cạnh tranh năm 2004 quy định: “Tập trung
kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao gồm:
1. Sáp nhập doanh nghiệp;
2. Hợp nhất doanh nghiệp;
3. Mua lại doanh nghiệp;
4. Liên doanh giữa các doanh nghiệp;
5. Các hành vi tập trung khác theo quy định của pháp luật”.
1.2. Đặc trưng của tập trung kinh tế.
Thứ nhất, chủ thể của tập trung kinh tế là các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường.
Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thể là các doanh nghiệp hoạt động trong
cùng hoặc khơng cùng thị trường liên quan.
Thứ hai, hình thức tập trung kinh tế bao gồm: sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh
giữa các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế đã chủ động tích tụ
các nguồn lực kinh tế như vốn, lao động, kỹ thuật, năng lực quản lý, tổ chức kinh doanh…
mà chúng đang nắm giữ riêng lẻ để hình thành một khối thống nhất hoặc phối hợp hình
thành các nhóm doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế. Dấu hiệu này giúp khoa học pháp lý
phân biệt tập trung kinh tế với việc tích tụ tư bản trong kinh tế học.

Thứ ba, tập trung kinh tế đã hình thành nên doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tổng
hợp hoặc liên kết thành nhóm doanh nghiệp, tập đồn kinh tế, từ đó làm thay đổi cấu trúc
thị trường và tương quan cạnh tranh hiện có trên thị trường. Cho dù tập trung được thực
hiện theo mơ hình tích tụ hay liên kết năng lực kinh doanh thì cuối cùng đều dẫn đến kết
quả là tương quan cạnh tranh trên thị trường sau khi tập trung kinh tế sẽ khác so với trước
đó. Bởi lúc này, thị trường đột ngột xuất hiện doanh nghiệp, hoặc nhóm doanh nghiệp có
tiềm lực kinh doanh lớn hơn trước mà khơng phải trải qua q trình tích tụ tư bản. Vị trí
của các doanh nghiệp cịn lại trong q trình cạnh tranh sẽ giảm đi trước doanh nghiệp
được hình thành từ tập trung kinh tế (2).
1.3. Phân loại các hình thức tập trung kinh tế.
Việc phân chia các hình thức tập trung kinh tế phải dựa vào nhiều tiêu chí ở nhiều góc
độ khác nhau. Xét các tiêu chí khác nhau, ta có các hình thức tập trung kinh tế sau:
1.3.1. Theo mức độ liên kết:
Dựa vào mức độ liên kết, hành vi tập trung kinh tế được chia làm hai loại là tập trung
kinh tế chặt chẽ (tổ hợp) và tập trung kinh tế khơng chặt chẽ.
Hình thức tập trung chặt chẽ (tổ hợp) là việc các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh
tế chấm dứt tồn tại để hình thành nên một doanh nghiệp thống nhất cả ở phương diện pháp
2()

Đại học Kinh tế - Luật, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật cạnh tranh, t.p Hồ
Chí Minh, 2010.

3


lý lẫn quản trị doanh nghiệp, thường được thực hiện bằng các biện pháp sáp nhập, hợp nhất
các doanh nghiệp.
Hình thức tập trung không chặt chẽ là việc các doanh nghiệp tham gia vẫn là những chủ
thể độc lập dưới góc độ pháp luật, song chúng chịu sự chi phối bởi các doanh nghiệp khác.
Bằng các hành vi mua lại hoặc liên doanh, các doanh nghiệp đã thiết lập được mối quan hệ

với nhau, tạo thành một liên minh, một nhóm doanh nghiệp theo kiểu của tập đồn. Trong
đó, bằng quyền của chủ sở hữu, các doanh nghiệp có thể chi phối các doanh nghiệp mà nó
có phần vốn góp hoặc cổ phần.
1.3.2. Theo cấp độ kinh doanh:
• Tập trung kinh tế theo chiều ngang: là sự sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh của
các doanh nghiệp trong cùng một thị trường liên quan (sản phẩm và địa lý). Sự gia tăng tập
trung theo chiều ngang đến một mức độ nhất định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phối
hợp hành động giữa các doanh nghiệp và từ đó dẫn đến hạn chế cạnh tranh theo giá và
giảm động lực sáng tạo, gây bất lợi cho các đối thủ cạnh tranh và tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt
hại cho người tiêu dùng.
• Tập trung kinh tế theo chiều dọc: là sự hợp nhất, sáp nhập, mua lại hoặc liên doanh giữa
các doanh nghiệp có quan hệ người mua - người bán với nhau.
• Tập trung kinh tế dạng hỗn hợp hay tập trung kinh tế theo đường chéo (conglomerate): là
sự hợp nhất, sáp nhập, mua lại, liên doanh của các doanh nghiệp không cùng hoạt động
trên một thị trường sản phẩm đồng thời cũng khơng có mối quan hệ khách hàng với nhau.
Mục tiêu của việc hợp nhất này thường là nhằm phân tán rủi ro vào những thị trường khác
nhau hoặc từ những lý do chiến lược thị trường của các doanh nghiệp tham gia tập trung
kinh tế.
1.3.3. Theo sự biểu hiện của các hành vi:
Luật cạnh tranh 2004 phân loại các hình thức tập trung kinh tế theo sự biểu hiện của
hành vi bao gồm: sáp nhập doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp,
liên doanh giữa các doanh nghiệp và các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của
pháp luật (Điều 16 Luật cạnh tranh 2004). Các hình thức này được quy định cụ thể tại Điều
17 Luật cạnh tranh năm 2004.
2. Quy định của pháp luật Việt Nam về tập trung kinh tế.

2.1. Các hình thức tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam.
Như đã phân tích ở trên, ta có thể phân chia các hình thức tập trung kinh tế theo nhiều
tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh Việt Nam mà cụ thể là Luật cạnh tranh
năm 2004 chỉ đề cập tới việc phân chia các hình thức tập trung kinh tế theo sự biểu hiện

của hành vi. Các hình thức này được quy định tại Điều 16 và 17 Luật cạnh tranh năm 2004.

4


2.1.1. Sáp nhập doanh nghiệp :
Khoản 1 Điều 17 Luật cạnh tranh năm 2004 quy định: “Sáp nhập doanh nghiệp là việc
một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản quyền, nghĩa vụ, và lợi ích hợp pháp
của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị
sát nhập.” Mơ hình A + B = A’.
Như vậy, cũng giống như việc sáp nhập được quy định trong luật doanh nghiệp, sau khi
sáp nhập, doanh nghiệp bị sáp nhập khơng cịn tồn tại và bị xóa tên trong hồ sơ đăng ký
kinh doanh. Công ty nhận sáp nhập được hưởng quyền, lợi ích hợp và chịu trách nhiệm về
các nghĩa vụ của công ty bị sáp nhập. Định nghĩa về hành vi sáp nhập doanh nghiệp tại
khoản 1 Điều 17 Luật cạnh tranh về cơ bản là phù hợp với quy định của Điều 94 của
BLDS; Điều 152 Luật doanh nghiệp 2005. Khái niệm sáp nhập doanh nghiệp trong Luật
cạnh tranh tương tự khái niệm sát nhập doanh nghiệp quy định trong Luật doanh nghiệp
nhưng mục tiêu điều chỉnh hoạt động sát nhập trong hai văn bản này là khác nhau. Trong
Luật doanh nghiệp sáp nhập được điều chỉnh với tư cách là một hình thức tổ chức lại
doanh nghiệp nên pháp luật quy định chủ yếu là về tư cách pháp lý của doanh nghiệp sau
khi sáp nhập, quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp sau khi sáp nhập. Trong Luật cạnh
tranh sáp nhập là một hình thức tập trung kinh tế nên bị kiểm soát nhằm ngăn ngừa khả
năng hình thành doanh nghiệp có sức mạnh trên thị trường và có khả năng thực hiện hành
vi gây cản trở cạnh tranh.
2.1.2. Hợp nhất doanh nghiệp:
“Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản,
quyền, nghĩa vụ và lợi ích của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm
dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.” (Khoản 2 Điều 17 Luật cạnh tranh
2004). Mơ hình A + B = C
Sau khi hợp nhất các doanh nghiệp, các doanh nghiệp bị hợp nhất chấm dứt sự tồn tại.

Công ty hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các
khoản nợ chưa thanh toán và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị hợp nhất. Khái niệm
hợp nhất trong Luật cạnh tranh cũng tương tự khái niệm hợp nhất quy định trong Luật
doanh nghiệp. Hợp nhất doanh nghiệp cũng làm thay đổi cơ cấu vốn của doanh nghiệp
hình thành một doanh nghiệp có quy mơ lớn hơn doanh nghiệp trước đó.
2.1.3. Mua lại doanh nghiệp :
Khoản 3 Điều 17 Luật cạnh tranh năm 2004 định nghĩa : “Mua lại doanh nghiệp là việc
một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm
soát, chi phối toàn hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.”

5


Quy định trên có thể diễn giải bằng hai nội dung: Về hình thức, mua lại là việc một
doanh nghiệp mua tài sản của doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó, việc mua tài sản đủ để đem
lại cho doanh nghiệp mua lại quyền kiểm sốt, chi phối tồn bộ hoặc một ngành nghề của
doanh nghiệp bị mua lại. Về bản chất pháp lý, mua lại doanh nghiệp là hình thức tập trung
kinh tế bằng biện pháp thiết lập quan hệ sở hữu giữa doanh nghiệp mua lại và doanh
nghiệp bị mua lại. Việc mua lại khơng là q trình thống nhất về tổ chức giữa hai doanh
nghiệp nói trên. Sau khi mua lại, doanh nghiệp nắm quyền sở hữu có thể thực hiện việc sáp
nhập hoặc không. Nếu thực hiện việc sáp nhập thì sự thống nhất về tổ chức là kết quả của
hoạt động sáp nhập và việc mua lại chỉ là tiền đề để có được quyết định sáp nhập. Dưới
góc độ cạnh tranh, quan hệ sở hữu tạo nên nhóm doanh nghiệp hoặc một tập đồn (với số
lượng doanh nghiệp bị mua lại đủ lớn). Một khi các doanh nghiệp tham gia đang hoạt động
trên cùng thị trường liên quan thì việc mua lại đã làm cho quan hệ cạnh tranh giữa họ
khơng cịn tồn tại.
Theo Điều 34 của Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 quy định:
“Kiểm sốt hoặc chi phối tồn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp khác là trường
hợp một doanh nghiệp (gọi là doanh nghiệp kiểm soát) giành được quyền sở hữu tài sản
của doanh nghiệp khác (gọi là doanh nghiệp bị kiểm soát) đủ chiếm được trên 50% quyền

bỏ phiếu tại Đại hội đồng cổ đông. Hồi đồng quản trị hoặc ở mức mà theo quy định của
pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp bị kiểm soát đủ để doanh nghiệp kiểm sốt chi
phối các chính sách tài chính và hoạt động của doanh nghiệp bị kiểm sốt nhằm thu được
lợi ích từ kinh tế từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị kiểm soát.”
Tuy nhiên, có một số trường hợp mua lại doanh nghiệp khác khơng bị coi là tập trung
kinh tế. Đó là trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm, tổ chức tín dụng mua lại doanh nghiệp
khác nhằm mục đích bán lại trong thời hạn dài nhất là một năm không bị coi là tập trung
kinh tế nếu doanh nghiệp mua lại không thực hiện quyền kiểm soát hoặc chi phối doanh
nghiệp bị mua lại, hoặc thực hiện quyền này chỉ trong khuôn khổ bắt buộc để đạt được
mục dích bán lại đó.
2.1.4. Liên doanh giữa các doanh nghiệp:
Theo khoản 4 Điều 17 Luật cạnh tranh 2004: “Liên doanh giữa các doanh nghiệp là
việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi
ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới.”
Nếu góp thêm vốn để tăng vốn điều lệ thì khơng coi là tập trung kinh tế nhưng góp vốn
để thành lập một doanh nghiệp chung (doanh nghiệp liên doanh) nhằm thực hiện các chức
năng của một chủ thể kinh tế độc lập được coi là tập trung kinh tế.

6


Liên doanh là dạng liên kết giữa các doanh nghiệp thông qua việc cùng tham gia thành
lập một doanh nghiệp mới. Nói cách khác, sự tồn tại của doanh nghiệp mới tạo nên mối
liên kết giữa các doanh nghiệp tham gia. Xét về bản chất, hoạt động liên doanh đồng nghĩa
với hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp được quy định trong Luật doanh nghiệp,
Luật hợp tác xã, Luật các tổ chức tín dụng và luật đầu tư. Thế nên, ngoài các quy định của
Luật Cạnh tranh, hoạt động liên doanh còn chịu sự điều chỉnh bởi các quy định về đăng ký
kinh doanh, về thủ tục đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư trong các văn bản nói trên.
Ngồi ra, khoản 5 Điều 16 Luật cạnh tranh cịn có một quy định mở đề cập đến các loại
hình tập trung kinh tế khác, giúp các văn bản quy phạm ban hành sau này có thể dễ dàng

bổ sung thêm cho phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn thay đổi liên tục.
2.2. Kiểm soát tập trung kinh tế theo Luật cạnh tranh.
tập trung kinh tế được coi là con đường ngắn nhất để giải quyết nhu cầu tích tụ các
nguồn lực thị trường của các nhà kinh doanh nhằm nâng cao năng lực kinh doanh và năng
lực cạnh tranh. Vì vậy, các biện pháp sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh… được
các lý thuyết kinh tế coi là cách thức không tốn kém nhiều thời gian để hình thành nên
quyền lực thị trường (3). Khi tập trung kinh tế diễn ra giữa các doanh nghiệp trong cùng một
ngành và ở cùng một công đoạn của quá trình kinh doanh (cùng thị trường liên quan), kết
quả sẽ ln là giữa chúng khơng cịn tồn tại cạnh tranh, bởi sau khi sáp nhập, hợp nhất các
doanh nghiệp đã hóa thân để hình thành một chủ thể duy nhất, hoặc tạo ra mối quan hệ một
nhà bằng hành vi mua lại hoặc liên doanh. Vì vậy, tập trung kinh tế làm thay đổi số lượng
doanh nghiệp hiện có trên thị trường. Khi đó, cơ cấu cạnh tranh vốn có trên thị trường sẽ
thay đổi về mặt cấu trúc – số lượng doanh nghiệp dẫn tới thay đổi tương quan cạnh tranh
trên thị trường khi mà sau tập trung kinh tế một doanh nghiệp có thể có vị trí thống lĩnh
hay vị trí độc quyền dẫn tới hạn chế cạnh tranh. Chính vì những ngun nhân này mà pháp
luật cạnh tranh đã đề ra những biện pháp cụ thể để kiểm soát tập trung kinh tế.
Pháp luật cạnh tranh Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới kiểm sốt các hiện
tượng tập trung kinh tế có khả năng đe dọa đến trật tự cạnh tranh của thị trường bằng hai
cơ chế, đó là: Cấm đốn các trường hợp tập trung kinh tế làm tổn hại đến tình trạng cạnh
tranh; Kiểm sốt các trường hợp có khả năng tổn hại đến cạnh tranh. Cụ thể, các nhà làm
luật Việt Nam đã chia các trường hợp tập trung kinh tế thành ba khu vực với mức độ kiểm
soát khác nhau:

3() Th.s Nguyễn Ngọc Sơn, Bài viết Kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh và vấn đề
của Việt Nam, tạp chí nghiên cứu lập pháp số 79 tháng 7 năm 2006.

7


2.2.1. Nhóm tập trung kinh tế bị cấm (cịn gọi là khu vực màu đen)

Theo Điều 18 Luật Cạnh tranh, “cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các
doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan”.
Đây là trường hợp luôn mang bản chất hạn chế cạnh tranh. việc tập trung kinh tế đã
hình thành một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp nắm giữ đa số thị phần trên thị
trường liên quan mà không phải từ hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó đã làm
cho các doanh nghiệp còn lại chỉ là thiểu số trên thị trường.
Về nguyên tắc, các trường hợp này bị cấm tuyệt đối, song pháp luật cạnh tranh của Việt
Nam và của các nước ln cân nhắc đến tính hiệu quả của hành vi bằng cách dành ra
những trường hợp ngoại lệ để cho hưởng miễn trừ. Điều 19 Luật cạnh tranh năm 2004 quy
định: “Tập trung kinh tế bị cấm quy định tại Điều 18 của Luật này có thể được xem xét
miễn trừ trong các trường hợp sau đây:
1. Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc
lâm vào tình trạng phá sản;
2. Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh
tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, cơng nghệ”.
Theo đó, cho dù có thị phần kết hợp trên 50% trên thị trường liên quan việc tập trung
kinh tế có diễn ra giữa các doanh nghiệp vẫn có thể được thực hiện nếu đáp ứng được các
điều kiện luật định và được người có thẩm quyền ra quyết định cho hưởng miễn trừ.
2.2.2. Nhóm tập trung kinh tế cần phải kiểm sốt (khu vực màu xám)
Theo Điều 20 Luật Cạnh tranh, “Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thị
phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của các
doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập
trung kinh tế”.
Trong trường hợp này, các doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất,
mua lại và liên doanh sau khi đã hòan tất thủ tục thông báo và nhận được trả lời của cơ
quan quản lý cạnh tranh theo quy định của pháp luật trừ khi sau khi tập trung kinh tế doanh
nghiệp vẫn thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2.2.3. Nhóm được tự do thực hiện tập trung kinh tế (khu vực màu trắng)
Theo Luật Cạnh tranh và Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, các doanh nghiệp có quyền tự
do thực hiện việc tập trung kinh tế trong những trường hợp sau đây:

- Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thị phần thấp hơn
30% trên thị trường liên quan;

8


- Doanh nghiệp sau khi tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo
quy định của pháp luật không kể thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung
kinh tế đạt mức bao nhiêu trên thị trường liên quan.
2.3. Thủ tục thông báo về việc tập trung kinh tế.
Vấn đề thủ tục thông báo về việc tập trung kinh tế được quy định trong các Điều từ
Điều 20 đến Điều 24 Luật cạnh tranh năm 2004. Đối tượng áp dụng của thủ tục thông báo
là các trường hợp tập trung kinh tế mà thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia
chiếm từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan, trừ trường hợp doanh nghiệp sau khi thực
hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Theo các quy định này của luật cạnh tranh thì các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh
tế phải làm hồ sơ thông báo tập trung kinh tế theo Điều 21 Luật Cạnh tranh để nộp cho cơ
quan có thẩm quyền và chịu trách nhiệm về tính trung thực của hồ sơ. Hồ sơ thông báo
việc tập trung kinh tế cung cấp những thơng tin cần thiết về tài chính, về sản phẩm, về thì
phần của doanh nghiệp trên thị trường liên quan trong hai năm liên tiếp gần nhất… làm cơ
sở để cơ quan có thẩm quyền phân tích, đánh giá vụ việc.
Điều 22 và 23 Luật cạnh tranh năm 2004 quy định cơ quan quản lý cạnh tranh có quyền
kiểm soát tập trung kinh tế bằng việc xem xét hồ sơ thông báo và trả lời thông báo tập
trung kinh tế. Nội dung trả lời thông báo tập trung kinh tế phải xác định tập trung kinh tế
thuộc một trong hai trường hợp sau: tập trung kinh tế không thuộc trường hợp bị cấm; hoặc
tập trung kinh tế bị cấm theo quy định của pháp luật, lý do cấm phải được nêu rõ trong văn
bản trả lời.
Ngồi thủ tục thơng báo, tùy từng hình thức tập trung kinh tế mà các doanh nghiệp
tham gia có thể phải thực hiện các thủ tục khác nếu được tiến hành tập trung kinh tế. Đối
với hình thức sáp nhập, hợp nhất, doanh nghiệp phải thực hiện thêm thủ tục tổ chức lại

theo pháp luật về doanh nghiệp; mua lại doanh nghiệp cần tiến hành thủ tục chuyển
nhượng vốn, chuyển nhượng cổ phần…; hình thức liên doanh cần thực hiện việc đăng ký
kinh doanh hoặc thủ tục đăng ký đầu tư, thẩm tra đầu tư để thành lập doanh nghiệp mới
theo pháp luật về doanh nghiệp hoặc luật đầu tư. Trong tương quan giữa thủ tục thông báo
theo Luật Cạnh tranh và các thủ tục có liên quan nói trên, thủ tục thơng báo phải được thực
hiện trước. Các doanh nghiệp chỉ được các thủ tục khác sau khi cơ quan quản lý cạnh tranh
trả lời bằng văn bản khẳng định việc tập trung kinh tế không thuộc trường hợp bị cấm.
Quy định về thời hạn trả lời thông báo tập trung kinh tế là 45 ngày kể từ ngày nhận
được đầy đủ hồ sơ, có thể gia hạn trong những trường hợp có nhiều tình tiết phức tạp theo
quyết định của Thủ trưởng Cơ quan Quản lý cạnh tranh. Việc gia hạn không quá hai lần,
mỗi lần không quá 30 ngày.
9


2.4. Các biện pháp xử lý vi phạm
Các doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế bị áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm
theo pháp luật cạnh tranh nếu thực hiện một trong hai hành vi sau:
- Tiến hành tập trung kinh tế thuộc trường hợp bị cấm;
- Tiến hành tập trung kinh tế mà không thông báo nếu trường hợp tập trung kinh tế đó
thuộc những trường hợp phải thông báo.
Việc xử lý vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế được thực hiện theo thủ tục tố tụng
cạnh tranh, trong đó cơ quan quản lý cạnh tranh có chức năng điều tra vụ việc và có thẩm
quyền xử lý hành vi vi phạm bằng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính theo các quy
định của Luật Cạnh tranh và Nghị định số 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày
30/09/2005 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh (Nghị định số
120/2005/NĐ-CP).
Theo đó các biện pháp xử phạt khi tập trung kinh tế sai pháp luật bao gồm: phạt tiền tùy
theo hành vi vi phạm và mức độ nghiêm trọng của hành vi. Theo đó, phạt tiền đến 5% tổng
doanh thu trong năm tài chính trước khi tiến hành tập trung kinh tế đối với sáp nhập, hợp
nhất, mua lại liên doanh bị cấm; phạt tiền từ 5% đến 10% tổng doanh thu trong năm tài

chính trước khi tiến hành tập trung kinh tế đối với sáp nhập, mua lại bị cấm trong trường
hợp có dấu hiệu chèn ép, buộc doanh nghiệp khác phải sáp nhập hoặc bán toàn bộ hoặc 1
phần tài sản; phạt tiền từ 5% đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước khi tiến
hành tập trung kinh tế đối với hợp nhất, liên doanh bị cấm trong trường hợp làm tăng giá
hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan một cách đáng kể; phạt tiền từ 1 đến 3% tổng
doanh thu trong năm tài chính trước khi tiến hành tập trung kinh tế trong trường hợp không
thực hiện nghĩa vụ thông báo theo quy định của Luật Cạnh tranh. Ngồi ra, doanh nghiệp
có thể bị buộc thực hiện chia tách các doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất; bị thu hồi giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh; bị buộc phải bán tài sản đã mua.
3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về tập trung kinh tế và giải pháp hoàn thiện.

3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về tập trung kinh tế.
Trong những năm gần đây hịa theo xu thế hội nhập quốc tế thì hoạt động tập trung kinh
tế ngày một sôi động hơn. Theo tài liệu về “Thực tiễn quá trình tập trung kinh tế tại Việt
Nam (M&A)” của bà Trần Phương Lan – Trưởng Ban giám sát và quản lý cạnh tranh –
Cục quản lý cạnh tranh thì năm 2005 chỉ có 18 vụ M &A (viết tắt của mergers and
acquisitions có nghĩa là mua bán và sáp nhập) với tổng giá trị là 61 triệu đơla Mỹ, năm
2006 có 32 vụ với tổng giá trị các thương vụ là 245 triệu đôla Mỹ. Năm 2007, Việt Nam có
113 vụ M &A với giá trị giao dịch là hơn 1, 7 tỷ đôla Mỹ, năm 2008 có 146 vụ; năm 2009
có 295 vụ; năm 2010 có 345 vụ. Về quy mơ giao dịch, có sự giảm sút trong năm 200810


2009, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng đã đạt mức kỷ lục
1,75 tỷ USD năm 2010. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, trong 5 đến 10 năm tới,
sẽ có từ 30% đến 50% doanh nghiệp tại Việt Nam sẽ sáp nhập hoặc bị sáp nhập với các đối
tác khác trong đó trên ¾ tổng giá trị giao dịch thuộc dịch vụ tài chính.
Sở dĩ, số lượng và giá trị các thương vụ tập trung kinh tế gia tăng mạnh mẽ trong thời
gian qua là do: Thứ nhất, nhu cầu mua tăng cao. Điều này đặc biệt rõ trong năm 2006,
2007. Vào thời điểm này, Việt Nam đang là điểm nóng về đầu tư nhất là trong bối cảnh
Việt Nam ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng. Rất nhiều các nhà đầu tư trên tồn thế giới

có sự quan tâm đặc biệt tới thị trường Việt Nam và quyết định đầu tư vào Việt Nam. Bên
cạnh việc đầu tư thành lập mới doanh nghiệp, việc góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua
lại doanh nghiệp cũng được các nhà đầu tư coi là một phương thức nhanh chóng, hiệu quả
để thâm nhập thị trường Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh cam kết WTO có hiệu lực,
việc thành lập doanh nghiệp mới gặp rất nhiều rào cản. Thứ hai, nhu cầu bán tăng cao.
Ngược lại với bối cảnh kinh tế phát triển mạnh, vào thời điểm kinh tế suy thoái, cộng với
việc mở cửa thị trường mạnh mẽ, thì rất nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam đã không thể
đứng vững, không đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong và ngồi nước nên
đã chủ động tìm kiếm đối tác để sáp nhập, hoặc bị thơn tính thơng qua mua lại.
Các hoạt động tập trung kinh tế trong thời gian qua mang các đặc điểm như sau: Một là,
tập trung vào khối các ngành tài chính, năng lượng, cơng nghiệp, nguyên vật liệu, hàng tiêu
dùng (đặc biệt là nhóm FMCG) (chiếm 2/3 số vụ tập trung kinh tế); Hai là, có sự tham gia
mạnh mẽ của các nhà đầu tư nước ngoài; Ba là, chủ yếu là các giao dịch có quy mơ nhỏ và
vừa (dưới 5 triệu USD chiếm tỷ lệ 30 - 35%, 5 - 20 triệu USD chiếm tỷ lệ 50 - 55% số vụ);
Bốn là, chủ yếu thuộc 2 dạng: cơng ty nước ngồi mua lại công ty Việt Nam (40%) và công
ty Việt Nam mua lại công ty Việt Nam (40%); Năm là, đã xuất hiện các trường hợp thâu
tóm khơng thân thiện cần có sự vào cuộc của các cơ quan chức năng (Dược Viễn Đơng Dược Hà Tây, Bình Thiên An - Descon...); Sáu là, từ năm 2010, đã bắt đầu xuất hiện nhiều
vụ sáp nhập theo chiều dọc để kiểm soát nguồn cung nguyên vật liệu và tái cấu trúc doanh
nghiệp, tập trung vào lĩnh vực kinh doanh chính 4.
Một số hoạt động tập trung kinh tế điển hình như Cơng ty Đường Quảng Ngãi mua lại
toàn bộ nhà máy đường Quảng Bình, Tập đồn Lotte (Hàn Quốc) mua 30% Cổ phần Cơng
ty bánh kẹo Biên Hịa; Tập đồn tài chính HSBC củaAnh mua 10% cổ phần (225 triệu
USD) của Tổng cơng ty Bảo hiểm Việt Nam, tiếp sau đó là 15% cổ phần(33,7 triệu USD)
của Ngân hàng Techcombank; Tập đoàn tài chính Morgan Stanley (Mỹ) mua 10% cổ phần
của Cơng ty Tài chính Dầu khí…
Vũ Bá Phú, Phó cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương), Bài viết Tập trung kinh tế và
môi trường cạnh tranh, Báo Đầu tư 22/3/2012.
4

11



Trong thực tiễn thực hiện pháp luật về tập trung kinh tế đã chỉ ra một số điểm bất cấp
của pháp luật không theo kịp với thực tiễn. Điều này gây ra cản trở rất lớn đối với cả các
cơ quan quản lí cạnh tranh cũng như các doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế. Ngay cả
trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, tập trung kinh tế cũng chưa đạt
được sự thống nhất giữa các cơ quan quản lý nhà nước. Thể hiện ở chỗ, các quy định điều
chỉnh tập trung kinh tế của các cơ quan quản lý nhà nước còn khác nhau chưa rõ ràng,
thống nhất, dẫn tới sự xung đột về cách hiểu, cách giải thích của các cơ quan quản lý nhà
nước. Ngoài ra, thẩm quyền quản lý của các đơn vị chủ quan đối với từng loại hình doanh
nghiệp cũng khác nhau.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tập trung tế.
Thứ nhất, hồn thiện pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật về tập trung kinh tế
nói riêng. Cần thống nhất một khái niệm và cách hiểu đúng về “kiểm soát tập trung kinh
tế” cũng như các khái niệm liên quan khác. Kiểm soát tập trung kinh tế khơng có nghĩa là
kiểm sốt tất cả các hoạt động mua lại và sáp nhập trên thị trường, mà chỉ kiểm soát những
hoạt động thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Cạnh tranh, những giao dịch mà có khả
năng hình thành vị trí thống lĩnh, độc quyền dẫn tới nguy cơ lạm dụng vị trí này và gây tổn
hại tới môi trường cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh cần thống nhất và làm rõ các khái niệm
về những hành vi tập trung kinh tế, thay vì chỉ liệt kê các hình thức tập trung kinh tế.
Thứ hai, để việc kiểm soát tập trung kinh tế được chủ động và hiệu quả, cần có sự
thống nhất giữa các cơ quan chức năng. Cơ quan quản lý cạnh tranh nên có những nghiên
cứu và dự đoán trước những thị trường, những lĩnh vực kinh tế có nguy cơ xảy ra hiện
tượng tập trung kinh tế, thậm chí những doanh nghiệp có khả năng thực hiện hành vi thâu
tóm thị trường bằng hình thức tập trung kinh tế.
Thứ ba, bên cạnh đó, để bảo vệ cạnh tranh thì quyền lực của Cục Quản lý cạnh tranh và
Hội đồng cạnh tranh quốc gia (quyền điều tra, truy xét, ban hành các phán quyết có hiệu
lực như bản án…) phải được thực thi nghiêm túc. Việc xây dựng một hệ thống đăng ký
kinh doanh độc lập - chia sẻ thơng tin mang tính quốc gia, xố bỏ tính “cát cứ” của các sở
kế hoạch và đầu tư được đánh giá là một ưu tiên hàng đầu.

Thứ tư, hình thành giữa các cơ quan quản lý nhà nước một hệ thống cơ sở dữ liệu dùng
chung phục vụ quản lý nhà nước về tập trung kinh tế. Điều này rất quan trọng trong quản
lý hoạt động tập trung kinh tế. Trên thực tế, việc này sẽ giúp cơ quan quản lý cạnh tranh dễ
dàng nhanh chóng thu thập dữ liệu về thị phần, đánh giá về sức mạnh thị trường của các
doanh nghiệp trên thị trường hiện nay, đồng thời cũng nhận được sự phối hợp tối đa từ các
cơ quan quản lý nhà nước có liên quan.

12


III. KẾT LUẬN.
Trong xu thế tồn cầu hóa, Việt Nam đang ngày một hội nhập sâu rộng vào nên kinh tế
quốc tế, hoạt động tập trung kinh tế diễn ra ngày một sơi động và đóng vai trị ngày cang
quan trọng trong nền kinh tế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu cũng như hoàn thiện hệ thống
pháp luật về tập trung kinh tế sẽ giúp tạo ra một thị trường cạnh tranh lành mạnh cho tất cả
các doanh nghiệp trong và ngoài nước.

13


Danh mục tài liệu tham khảo
• Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật cạnh tranh, Nxb Cơng an nhân dân, Hà
Nội, 2011.
• Trường đại học kinh tế - luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình luật cạnh
tranh, 2010.
• Lê Viết Thái, “Chun đề về Hành vi tập trung kinh tế, đề tài nghiên cứu về thể chế
cạnh tranh trong điều kiện phát triển thị trường tại Việt Nam” (Viện nghiên cứu thương
mại- Bộ Thương mại, 2005).
• Th.s Nguyễn Ngọc Sơn, Bài viết Kiểm sốt tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh
và vấn đề của Việt Nam, tạp chí nghiên cứu lập pháp số 79 tháng 7 năm 2006.

• Vũ Bá Phú, Phó cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương), Bài viết Tập
trung kinh tế và môi trường cạnh tranh, Báo Đầu tư 22/3/2012.

14



×