Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong Tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.42 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

Trang

MỞ BÀI

2

NỘI DUNG

2

I. Khái quát chung về bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.
1. Bị can.

2
2

2. Bị cáo

3

II. Các quy định chung của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về địa vị
pháp lý của bị can, bị cáo.
1. Các quy định chung của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý
của bị can.
2. Các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của bị cáo.

3

III. Thực tiễn bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố


tụng hình sự.
1. Ưu điểm

11

2. Hạn chế

3
7

11
11

IV. Một số giải pháp hoàn thiện

12

KẾT BÀI

13

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


MỞ BÀI
Hiện nay, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chưa có quy định cụ thể bào về địa vị
pháp lý của bị can, bị cáo mà vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo
quyền lợi của bị cáo. Tuy nhiên qua các tài liệu và quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự

thì at có thể hiểu địa vị bị can, bị cáo chính là quyền lợi và nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi
tham gia quá trình tố tụng. Để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân, Bộ luật tố
tụng hình sự đã quy định một số quyền lợi và nghĩa vụ cho bị can, bị cáo. Thông qua các
quy định đó bị can, bị cáo có thể biết được mình có những quyền và nghĩa vụ như thế nào
để thực hiện tốt và giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành các công việc của
mình một cách nhanh chóng, chính xác, khách quan, trung thực. Chính vì vậy, để hiểu rõ
địa vị pháp lý của bị can, bị cáo, em xin chọn đề tài “Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo
trong Tố tụng hình sự” làm đề bài tập lớn của mình.
Bài làm của em còn nhiều thiếu xót mong thầy, cô giáo chỉ bảo thêm. Em xin chân
thành cảm ơn!

NỘI DUNG
I. Khái quát chung về bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.
1. Bị can.
Theo quy định khoản 1 Điều 49 BLTTHS năm 2003 thì bị can là người đã bị khởi tố
về hình sự. Lần đầu tiên chúng ta biết đến khái niệm bị can là khi nó được quy định tại
Điều 34 BLTTHS năm 1988. Theo đó một người chỉ bị khởi tố với tư cách là bị can trong
vụ án hình sự khi có đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội.
Việc xác định một người có tư cách bị can từ khi nào rất quan trọng. Bởi vì, khi một
người phát sinh tư cách bị can đồng nghĩa với việc người đó sẽ có các quyền và nghĩa vụ
của bị can. Tuy nhiên việc xác định thời điểm một người có tư cách bị can khi nào còn
nhiều ý kiến, quan điểm. Quan điểm thứ nhất: “Khi cơ quan điều tra quyết định khởi tố bị
can thì người bị khởi tố đã là bị can.” Quan điểm thứ hai cho rằng: “Khi Viện kiểm quyết
định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can thì người đó mới được coi là bị can”. Theo em,
mỗi quan điểm đều có tính hợp lý riêng của nó. Quan điểm thứ nhất là xuất phát từ hoạt
động thực tế, sau khi có quyết định khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra có quyền tiến hành
các biện pháp tố tụng như bắt bị can để tạm giam, hỏi cung…nhằm đảm bảo cho việc
nhanh chóng, kịp thời xác minh sự thật vụ án. Nhưng theo quy định của pháp luật thì việc
2



tiến hành tố tụng chỉ được tiến hành khi được Viện kiểm sát phê chuẩn quyết định khởi tố
bị can.Theo quan điểm thứ hai: Trong trường hợp này nếu thực hiện đúng theo quy định
của pháp luật về việc tiến hành các biện pháp tố tụng của cơ quan điều tra sẽ không đảm
bảo được tính cấp thiết nhanh chóng thu thập chứng cứ… Tuy nhiên, nếu đợi quyết định
phê chuẩn của Viện kiểm sát thì trong thời gian chờ đợi này thì người bị khởi tố có tư cách
gì? Pháp luật nước ta chưa quy định.
Qua đó, pháp luật nước ta cần có những quy định cụ thể và hoàn thiện hơn về vấn
đề xác định thời điểm người bị buộc tội có tư cách bị can. Theo đó, cần sửa đổi khoản 1
Điều 49 BLTTHS năm 2003 theo hướng: “Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự và
quyết định khởi tố đã được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn”.
2. Bị cáo
Theo Điều 34 BLTTHS năm 1988 quy định thì khái niệm “bị cáo” được bắt đầu từ
thời điểm: Kể từ thời điểm Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử thì bị can trở thành bị cáo. Theo khoản 1 Điều 50 BLTTHS năm 2003
quy định: Bị cáo là người đã bị Tòa án đưa ra xét xử. Như vậy bị cáo tham gia tố tụng kể
từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của Tòa có hiệu
lực.
Cũng như khái niệm bị can, khái niệm bị cáo chỉ mang tính hình thức, căn cứ vào
văn kiện tố tụng được áp dụng đối với người đó. Một người trở thành bị tòa án đưa ra xét
xử, quyết định đó có thể đúng có thể sai. Vì vậy, chúng ta không được đánh đồng giữa
khái niệm bị cáo là tội phạm.
II. Các quy định chung của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về địa vị pháp lý của bị
can, bị cáo.
1. Các quy định chung của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của bị can.
Theo quy định của luật tố tụng hình sự năm 2003 thì bị can là người bị khởi tố hình
sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can. Bị can sẽ tham gia và các giai
đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can sẽ
bị chấm dứt khi Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra, Viện kiểm sát đình chỉ vụ án, Tòa án
đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với bị can hoặc tòa án ra quyết định đưa

vụ án ra xét xử. Khi một người bị khởi tố hình sự thì họ sẽ là đối tượng bị buộc tội trong
vụ án nhưng không có nghĩa họ là người có tội. Bởi theo quy định tại Điều 9 BLTTHS
năm 2003: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
3


Trong luật tố tụng hình sự chưa có một khái niệm về địa vị pháp lý của bị can; Dựa
vào những quy định của pháp luật ta có thể hiểu “Địa vị pháp lý củ bị can là tổng thể các
quyền và nghĩa vụ của người đã bị khởi tố về hình sự trong quá trình tham gia tố tụng hình
sự”. Khi đó, bị can sẽ có các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại khoản 2 Điều 49
BLTTHS 2003.
1.1. Các quyền tố tụng: Theo khoản 2 Điều 49 BLTTHS năm 2003
* Quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì.
Đây là quyền đầu tiên của bị can được pháp luật quy định. Bởi mục đích của việc
tiến hành các trình tự tố tụng là nhằm xác định một người có phạm tội hay không và nếu
phạm tội thì phải chịu hình phạt như thế nào. Do vậy, người bị nghi ngờ phạm tội cần biết
rằng mình bị khởi tố về tội gì để còn tự bào chữa hoặc để người khác bào chữa cho họ để
gỡ tội. Nếu không biết mình bị khởi tố về tội gì thì họ khó có thể đưa ra các chứng cứ gỡ
tộ cho mình cùng những lời bào chữa.
Quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì của bị can thể hiện sự công bằng, bình
đẳng và tiến bộ của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Việc đảm bảo quyền này của bị can phụ thuộc rất nhiều vào các CQTHTT và đặc biệt là
những NTHTT. Trên thực tế để bị can biết rõ mình bị khởi tố về tội gì thì các CQTHTT và
NTHTT phải giao các quyết định tố tụng và giải thích các quyền và nghĩa vụ cho bị can.
Bị can được biết mình bị khởi tố về tội gì thông qua quyết định khởi tố bị can. Quyết định
khởi tố bị can phải có đầy đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 126 BLTTHS 2003
và Cơ quan điều tra phải có trách nhiệm giao ngay quyết định khởi tố bị can và giải thích
các quyền và nghĩa vụ cho bị can.
Như vậy, việc thực hiện và đảm bảo tốt quyền này của bị can sẽ tạo điều kiện cho

CQTHTT, NTHTT nhanh chóng, kịp thời điều tra, xác minh sự thật vụ án góp phần giảm
bớt những oan sai trong việc thụ lý và giải quyết vụ án hình sự.
* Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ.
Khi biết mình bị khởi tố về tội gì thì bị can sẽ rất mong muốn biết được mình có
quyền và nghĩa vụ gì để thực hiện nhằm gỡ tội cho mình. Đồng thời bị can cũng có quyền
được các CQTHTT và NTHTT giải thích về quyền và nghĩa vụ của mình.
Quyền này của bị can là một quyền mới được quy định trong BLTTHS 2003. Theo
BLTTHS năm 1988 không quy định quyền này của bị can. Việc đảm bảo quyền này của bị
can cũng có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo quyền con người của bị can cũng như góp
4


phần nhanh chóng kịp thời giải quyết vụ án, xác minh sự thật vụ án. Trên thực tế vì nhiều
lý do nên quyền này của bị can vẫn chưa được thực hiện. Trong nhiều trường hợp là do sự
yếu kém của NTHTT, cũng có trường hợp là do sự thiếu hiểu biết pháp luật của bị can nên
không yêu cầu.
* Quyền được trình bày lời khai.
Đây cũng là những quy định mới của BLTTHS 2003 về các quy định về quyền và
nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự. Đây là quyền chứ không phải nghĩa vụ của bị
can. Do vậy, nhiều khi bị can đã sử dụng quyền này của mình để khai báo những tình tiết
có lợi cho mình nhằm chứng minh vô tội hoặc phạm tội ở mức nhẹ hơn hay lý do đưa ra
để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình; trong trường hợp họ từ chối khai báo hoặc
khai báo gian dối thì họ cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đó. Tuy
nhiên cũng có bị can có thái độ thành khẩn khai báo thì được coi là tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999.
Trong trường hợp nào thì cơ quan điều tra cũng phải tôn trọng quyền được trình bày
lời khai của bị can. Bởi vì qua lời khai của bị can – người bị cho là đã thực hiện hành vi
phạm tội có thể xác định sự thật một cách khách quan, không phiến diện. Nhưng trên thực
tế, vẫn có những trường hợp bị can bị ép phải khai báo hay bị mớm cung, bức cung nhằm
buộc bị can phải thừa nhận đã thực hiện những hành vi cấu thành tội phạm theo ý chủ

quan của NTHTT. Việc làm đó đã vi phạm pháp luật, xâm hại đến quyền của bị can.
* Quyền được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Theo quy định tại BLTTHS năm 1988 thì bị can có quyền đưa ra “chứng cứ và
những yêu cầu”; còn theo BLTTHS năm 2003 thì bị can có quyền “đưa ra tài liệu, đồ vật,
yêu cầu”. Như vậy đã có sự thay đổi trong quy định của pháp luật từ việc bị can đưa ra
chứng cứ thì nay chuyển thành những tài liệu, đồ vật. Quy định này hoàn toàn hợp lý, bởi
đồ vật, tài liệu mà bị can đưa ra chưa chắc đã là chứng cứ; khi nhận được các tài liệu, đồ
vật này cơ quan điều tra phải kiểm tra, đánh giá; nó chỉ là chứng cứ trong trường hợp tài
liệu, đồ vật đó đáp ứng được các quy định của pháp luật.
* Quyền được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch.
NTHTT, người giám định, người phiên dịch có vai trò rất quan trọng trong việc xác
định sự thật của vụ án; bởi sự thật vụ án được xác định một cách chính xác nếu chủ thể
nêu trên thực hiện tốt vai trò của mình. Bị can có quyền thay đổi NTHTT, người giám
định, người phiên dịch trong trường hợp có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ không vô tư,
5


khách quan trong khi làm nhiệm vụ, việc cho họ tiến hành tham gia hoạt động tố tụng có
thể làm cho vụ án được giải quyết theo hướng không có lợi cho bị can. Bởi vậy quy định
về quyền được thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch nhằm xác định một
cách khách quan, công bằng là điều rất cần thiết. Khi các CQTHTT nhận được yêu cầu
thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch của bị can thì cần phải xem xét, giải
quyết yêu cầu đó nếu thấy có căn cứ theo quy định của pháp luật TTHS.
* Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Theo đó bị can có quyền dùng những lý lẽ và chứng cứ để gỡ tội và để đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình tham gia tố tụng. Việc thực hiện quyền
này của bị can không chỉ nhằm mục đích gỡ tội mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
khác của bị can. Thông qua quyền tự bào chữa của bị can thì Nhà nước đã cho phép bị can
tự vệ, chống lại sự buộc tội của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Quy

định này thể hiện sự bình đẳng giữa bị can với những NTHTT.
Ngoài quyền tự bào chữa, bị can còn có quyền nhờ người khác bào chữa cho mình.
Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 305 BLTTHS thì người chưa thành niên hoặc người có
nhược điểm về thể chất lẫn tinh thần thì người đại diện hợp pháp cho bị can lựa chon
người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho bị can. Nếu không lựa chọn thì CQTHTT cử
luật sư bào chữa cho họ. Bị can và người đại diện hợp pháp có quyền thay đổi hoặc từ
chối người bào chữa.
* Quyền nhận các quyết định và văn bản tố tụng.
Theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 49 BLTTHS thì khi tham gia tố tụng bị can
có quyền yêu cầu được nhận các quyết định và văn bản tố tụng. Cụ thể: Quyết định khởi
tố bị can, quyết định áp dụng, thay đổi biện pháp ngăn chặn, quyết định đình chỉ, tạm đình
chỉ, bản kết luận điều tra…..Các quyết định và các văn bản tố tụng trên có liên quan trực
tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của bị can. Quyết định này tạo điều kiện thuận lợi cho bị
can thực hiện tốt quyền bào chữa cũng như các quyền và nghĩa vụ tố tụng khác của mình.
Đồng thời quyết định này cũng khiến các CQTHTT phải giải quyết vụ án theo đúng thủ
tục pháp luật, các quyết định phải được đưa ra dưới hình thức bằng văn bản, có căn cứ và
đúng phải luật.
* Quyền khiếu nại các quyết định hành chính, hành vi tố tụng của cơ quan tiến
hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Bị can có thể khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng của CQTHTT, NTHTT lên
các chủ thể có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều
6


328 BLTTHS 2003 thì bị can có quyền khiếu nại trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
hoặc biết được quyết định, hành vi tố tụng mà bị can cho rằng có vi phạm; trong trường
hợp đau ốm, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập xa nơi ở …. Thì không tính vào thời
hiệu khiếu nại.
1.2. Các nghĩa vụ của bị can
Theo khoản 3 Điều 49 BLTTHS quy định: “bị can phải có mặt theo giấy triệu tập

của Cơ quan tiến điều tra, Viện kiểm sát; trong trường hợp vắng mặt ko có lý do chính
đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã”. Như vậy, trong trường hợp bị can tại
ngoại, bị can phải có mặt theo giấy triệu tập của CQĐT, VKS. Việc triệu tập bị can phải
tuân thủ theo đúng quy định tại điều 129 BLTTHS năm 2003. Giấy triệu tập bị can phải
ghi rõ họ tên, chỗ ở của bị can, thwoif gian, địa điểm bị can có mặt, gặp ai, trách nhiệm về
việc vắng mặt không có lý do chính đáng. Giấy triệu tập bị can được gửi cho xã, phường,
thị trấn nơi bị can cư trú hoặc cho cơ quan, tổ chức nơi bị can làm việc. Cơ quan, tổ chức
nhận được giấy có trách nhiệm chuyển ngay giấy triệu tập cho bị can. Bị can nhận được
giấy phải ký và có ghi rõ ngày giờ nhận được. Người chuyển giấy triệu tập cho bị can có
nghĩa vụ phải chuyển phần giấy triệu tập có chữ ký của bị can cho cơ quan đã triệu tập.
Nếu bị can không ký thì lập biên bản rồi gửi cho coq quan triệu tập; nếu bị can không có
nhà thì gửi giấy cho một người đã thành niện trong gia đình bị can.
Trong trường hợp bị can vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải.
Đặc biệt trong trường hợp bị can bỏ trốn thì sẽ bị truy nã. Trong trường hợp bị can bị tạm
giam thì thông qua Ban giám thị trại giam. Theo quy định của pháp luật thì bị can chỉ phải
có mặt theo giấy triệu tập của CQĐT, VKS; nhưng Tòa án cũng có thể triệu tập bị can.
Vậy ta cần bổ sung thêm nghĩa vụ của bị can: Bị can phải có mặt theo giấy triệu tập của
Tòa.
2. Các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của bị cáo.
Khái niệm bị cáo không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể của tội phạm. Bị cáo
cũng không phải là người có tội khi chưa có quyết định hay bản án đã có hiệu lực pháp
luật.
Dựa vào những đặc điểm pháp lý của bị cáo, chúng ta có thể hiểu: “Địa vị pháp lý
của bị cáo chính là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của một người đã có quyết định đưa vụ
án ra xét xử của Tòa án có thẩm quyền đến khi bản án kết tội hay quyết định của Tòa có
hiệu lực pháp luật”.
7


2.1. Các quyền tố tụng của bị cáo. (Điều 50 BLTTHS 2003)

* Quyền được nhận các quyết định, văn bản tố tụng
Quyền đầu tiên của bị cáo khi được đưa ra xét xử là quyền nhận các văn bản tố tụng
của CQTHTT hoặc NTHTT. Cụ thể: quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định áp dụng,
thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định đình chỉ vụ án…các quyết định tố
tụng khác. Trên cơ sở đó, họ mới có thể thực hiện các quyền của mình như: tham gia
phiên tòa; đề nghị thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch; quyền đưa ra
những tài liệu, đồ vật yêu cầu; đặc biệt là xem xét những vật chứng có ý nghĩa xác minh
vụ án và quan trọng nhất là quyền tự bào chữa.
Ngoài các quyết định trên bị cáo còn có quyền nhận được quyết định đình chỉ vụ án,
bản án, quyết định của Tòa và các quyết định khác theo quy định của pháp luật. Các quyết
định này là căn cứ để bị cáo thực hiện các quyền và nghĩa vụ có liên quan đến các quyết
định đó.
* Quyền tham gia phiên tòa.
Đây là quyền vô cùng quan trọng của bị cáo trong TTHS. Quyền này sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho việc bị cáo thực hiện quyền bào chữa và bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp khác cho mình. Đồng thời quyền tham gia phiên tòa của bị cáo còn thể hiện tính
khách quan, sự bình đẳng trong TTHS. Việc quy định việc bị cáo tham gia phiên tòa vừa
là quyền, đồng thời cũng là nghĩa vụ (Điều 187); bởi sự có mặt là quyền của bị cáo để
đảm bảo quá trình tranh tụng và bào chữa, là nghĩa vụ bởi bị cáo phải nghe sự phán xét
của Tòa án.
* Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ.
Bị cáo tham gia tố tụng kể từ khi có quyết định của Tòa án đưa vụ án ra xét xử.
Cũng giống như bị can, bị cáo biết về quyền và nghĩa vụ của mình sẽ giúp cho bị cáo thực
hiện tốt hơn các quyền tố tụng và đặc biệt là quyền bào chữa, quyền đưa các tài liệu, đồ
vật, yêu cầu, kháng cáo. Trước khi bắt đầu phiên tòa bị cáo được chủ tọa phiên tòa giải
thích quyền và nghĩa vụ trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa-muộn, giao cùng với quyết
định đưa ra xét xử.
* Quyền được thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch
Bị cáo là đối tượng bị đưa ra xét xử, là đối tượng buộc tội trong vụ án hình sự, việc

8


xét xử như thế nào ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của bị cáo. Vì vậy, bị cáo
có quyền được thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch khi có căn cứ rõ ràng
để cho rằng người đó không vô tư trong khi thi hành công vụ. Bị cáo thực hiện quyền này
trước hoặc tại phiên tòa xét xử khi hội đồng xét xử hỏi. Chánh án tòa án tại phiên tòa phải
xem xét, giải quyết yêu cầu của bị cáo khi cần thiết phải hoãn phiên tòa.
* Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Bị cáo có quyền đưa ra tài liệu hoặc đồ vật tại phiên tòa xét xử. Những tài liệu, đồ
vật mà bị cáo đưa ra tại phiên tòa có ý nghĩa gỡ tội cho bị cáo, chứng minh bị cáo không
phạm tội hoặc chứng minh những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Hội
đồng xét xử phải kiểm tra, xác minh và đánh giá các đồ vật, tài liệu đó có phải là chứng cứ
trong vụ án không và giá trị của nó trong việc xác định sự thật vụ án.
* Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa
Quyền tự bào chữa được thực hiện ngay từ khi một người bị khởi tố về hình sự, họ
thực hiện quyền này trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử dưới nhiều hình thức
khác nhau. Trong khi tranh luận, bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có nười bào
chữa thì người này bào chữa cho bị cáo, bị cáo có quyền bổ sung ý kiến của mình. Tòa án
phải tôn trọng quyền bào chữa của bị cáo. Việc đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo không
chỉ đảm bảo quyền lợi cho bị cáo, thể hiện tính nhân đạo và dân chủ mà còn đảm bảo việc
xác định sự thật của vụ án được khách quan, toàn diện và đầy đủ.
* Quyền trình bày ý kiến hoặc tranh luận tại phiên tòa
Quyền này cho phép bị cáo đưa ra những ý kiến, những lập luận của mình và đối
đáp với các chủ thể khác (Điều 218). Đồng thời với việc đưa ra ý kiến, tranh luận tại phiên
tòa thì bị cáo cũng có thể đưa ra các yêu cầu sau: yêu cầu thêm người làm chứng….Quyền
này của bị cáo thể hiện sự bình đẳng, khách quan trong quá trình xét xử qua việc cho bị
cáo phát biểu ý kiến. Đây cũng chính là việc bị cáo tự bào chữa cho mình. Trong nhiều
trường hợp, lời phát biểu của bị cáo bị Hội đồng xét xử cắt ngang hoặc bác bỏ ko hợp lý.
Cần quán triệt tinh thần tôn trọng quyền này của bị cáo đối với NTHTT.

* Quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án
Theo Điều 220 BLTTHS năm 2003 quy định: “…Sau khi kết thúc phiên tranh luận
bị cáo được nói lời sau cùng….”. Pháp luật quy định trong khi bị cáo nói lời sau cùng là
tạo điều kiện và cơ hội cho bị cáo được bày tỏ thái độ, nguyện vọng của mình trước khi
hội đồng xét xử đưa ra những quyết định đối với vụ án. Khi nói lời sau cùng, bị cáo có
9


quyền trình bày mọi vấn đề liên quan đến vụ án và bày tỏ thái độ của mình đối với việc
buộc tội. Hội đồng xét xử không được chen ngang. Nhưng để tránh bị cáo phát biểu qua
dài dòng hội đồng xét xử có quyền yêu cầu bị cáo ko phát biểu những vấn đề ko có liên
quan đến vụ án, nhưng ko được hạn chế thời gian. Khi bị cáo nói lời sau cùng mà có thêm
tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án thì Tòa quay lại phần xét hỏi.
* Quyền kháng cáo bản án, quyết định của tòa
Kháng cáo là quyền cho phép bị cáo chống lại các bản án và quyết định của Tòa
chưa có hiệu lực pháp luật. Theo quy định tại Điều 233 BLTTHS năm 2003 thì bị cáo phải
gửi đơn đến tòa sơ thẩm đã xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Bị cáo đang bị tam giam cũng
được thực hiện quyền này và Tòa án phải lập biên bản theo quy định tại Điều 95 BLTTHS
năm 2003. Theo Điều 235 BLTTHS năm 2003 thì: bị cáo có thể kháng cáo quá hạn nếu có
lý do chính đáng và được sự đồng ý của hội đồng xét xử của tòa án cấp phúc thẩm gồm ba
thẩm phán.
Để thực đảm bảo việc thực hiện một cách nghiêm túc thì CQTHTT, NTHTT cần
thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của BLTTHS, những NTHTT cần thực hiện tốt
nhiệm vụ của mình thì quyền kháng cáo của bị cáo mới được thực hiện một cách đầy đủ.
* Quyền khiếu nại hành vi hành chính, quyết định của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng.
Bị cáo có quyền khiếu nại quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng.
Những quyết định này không thuộc đối tượng kháng cáo như quyết định áp dụng, thay đổi
biện pháp ngăn chặn, ….Bị cáo cũng có quyền khiếu nại hành vi tố tụng của cơ quan,
NTHTT nếu các hành vi đó trái pháp luật. Các cơ quan có thẩm quyền giải quyết phải tiến

hành giải quyết và thông báo cho bị cáo biết.
2.2. Các nghĩa vụ tố tụng.
Theo khoản 3 Điều 50 BLTTHS quy định: “bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập
của Tòa án, trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải,
nếu bỏ trốn thì bị truy nã”.
Qua đó, chúng ta có thể thấy, cũng giống như bị can, bị cáo cũng có nghĩa vụ có
mặt theo giấy triệu tập của CQTHTT (Tòa án). Do tư cách bị cáo chỉ hình thành khi có
quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án có thẩm quyền nên bị cáo chỉ phải có mặt theo
giấy triệu tập của tòa án.
10


Trong trường hợp bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn thì có thể được đảm bảo
việc có mặt của bị cáo theo giấy triệu tập của Tòa án. Nếu bị cáo đang được tại ngoại, khi
tòa án đã triệu tập mà vắng mặt ko có lý do chính đáng thì sẽ bị tòa án áp giải hoặc truy nã
theo quy định của pháp luật.
III. Thực tiễn bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình
sự.
1. Ưu điểm
Trong những năm vừa qua, theo báo cáo tổng kết công tác năm 2010 của ngành Tòa
án nhân dân thì TAND các cấp và Tòa án Quân sự các cấp đã thụ lý 71.680 vụ án, đã được
giải quyết và xử được 61.381, đạt 90%. Nhìn chung các vụ án hình sự đều được giải
quyết, xét xử theo quy định của pháp luật. Một số Tòa đã giải quyết được 95% vụ án đã
thụ lý như: các tòa quân sự, tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Hải phòng….
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo ngày càng được bảo đảm tốt. Theo số liệu thống
kê của TAND thì số vụ có người bào chữa tăng đáng kể; năm 2007 là 5933 vụ, năm 2008
là 7355vụ, năm 2009 là 7255 vụ. Với công nghệ truyền thông ngày càng phát triển, bản
thân của bị can, bị cáo cũng đã hiểu biết hơn về quyền và nghĩa vụ của mình. Đồng thời
NTHTT, người giám định, người phiên dịch cũng đang ngày càng năng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, đóng góp rất lớn vào việc xác định sự thật của vụ án.

2. Hạn chế
Thứ nhất, Từ phía người tiến hành tố tung: Theo báo cáo tổng kết của ngành Tòa
án nhân dân năm 2010 thì tỉ lệ các bản án bị hủy là 0.75% trong đó do nguyên nhân chủ
quan là 0.44%, nguyên nhân khách quan là 0.31%. So với những năm trước thì tỷ lệ các
bản án, quyết định bị hủy do nguyên nhân chủ quan tăng 0.06%, bị sửa do nguyên nhân
chủ quan giảm 0.09 %. Như vậy, tỷ lệ các bản án bị sửa, bị hủy vẫn còn cao. Ngoài ra sự
chuẩn bị của một số thẩm phán chưa tốt, thể hiện ở việc điều khiển phiên tòa, đặc biệt là
phần xét hỏi. Bên cạnh đó, trong tố tụng hình sự vẫn còn tình trạng mớm cung, ép cung,
dùng nhục hình, ảnh hưởng đến việc xác minh sự thật.
Thứ hai, Từ phía bị can, bị cáo: Trên thực tế còn tồn tại rất nhiều bị can, bị cáo
chưa có ý thức tự bảo vệ quyền lợi của mình do trình độ hiểu biết pháp luật còn thấp.
Thứ ba, Từ phía những người tham gia tố tụng khác: Trong một số trường hợp
người bào chữa, người giám định, người phiên dịch….không làm tốt nhiệm vụ của mình,
ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của bị can, bị cáo và việc xét xử của Tòa án. Cần phải
11


có các biện pháp nâng cao trình độ của những người tham gia tố tụng và có chế tài xử lý
nghiêm khi họ vi phạm.
IV. Một số giải pháp hoàn thiện.
1. Cần sửa đổi bổ sung một số quy định của pháp luật, chưa phù hợp với tình hình
hiện nay
- Quy định xác định tư cách bị can cho người bị khởi tố: Pháp luật cần có quy định
cụ thể về cách xác định thời điểm người bị khởi tố có tư cách bị can. Theo như trên đã
phân tích nên quy định người bị khởi tố có tư cách bị can khi đã có quyết định khởi tố vụ
án và được Viện kiểm sát phê chuẩn.Còn thời gian chờ quyết định phê chuần thì người đó
có tư cách là người bị khởi tố về hình sự và pháp luật quy định những quyền lợi và nghĩa
vụ cụ thể.
- Quy định tại điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS trong phẩn chuẩn bị xét xử: “1.
Thẩm phán…b, khi có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác….”.Nhưng theo khái

niệm về bị cáo theo Điều 50 BLTTHS năm 2003 thì quy định theo Điều 179 BLTTHS năm
2003 ko đúng với quy định của pháp luật; cần phải sửa từ “bị cáo phạm một tội khác”
thành “bị can phạm một tội khác”.
- Quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS 2003: Việc quy định quyền từ chối quyền
bào chữa của bị cáo là chưa hợp lý, còn nhiều bất cập. Quy định tại điểm a khoản 2 Điều
này thì những đối tượng này có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nên họ ý
thức được hậu quả xảy ra khi họ từ chối quyền bào chữa. Quy định này hoàn toàn hợp lý.
Nhưng các đối tượng quy định tại điểm b khoản 2 Điều này là bị can, bị cáo chưa thành
niên, người có nhược điểm về mặt thể chất hoặc tinh tần. Như vậy cần sử theo hướng:
“Các trường hợp theo điểm a khoản 2 Điều này sau khi được người bào chữa tham gia
bào chữa vẫn có quyền thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Còn đối với những trường
hợp theo điểm b khoản 2 Điều này thì bị can, bị cáo, hoặc đại diện hợp pháp của họ có
quyền thay đổi hoặc từ chối người bào chữa; trong trường hợp này thì cơ quan tiến hành
tố tụng nên nói cho họ biết về lợi ích đối với họ khi có người bào chữa, nếu họ ko đồng ý
thì lập biên bản ghi rõ lý do từ chối hoặc thay đổi người bào chữa.”
- Quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa: Cần bổ sung những quy
định về thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa, đồng thời cần có chế tài xử lý
nghiêm đối với các hành vi vi phạm đối với những người có hành vi tác động đến bị can,
bị cáo để họ phải từ chối luật sư tham gia bào chữa.
- Quy định tại Chương XXXIV BLTTHS năm 2003 về thủ tục rút gọn: Còn nhiều bất
12


cập. Các quy định về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự chỉ quan tâm đến các vấn đề có
lợi cho CQTHTT, NTHTT như: rút ngắn thời gian tiến hành tố tụng, giảm chi phí, giảm án
tồn đọng….mà chưa thực sự quan tâm đến quyền lợi của bị can, bị cáo. Do đó cần có sự
sửa đổi bổ sung tại Chương XXXIV BLTTHS năm 2003 để đảm bảo cho thủ tục rút gọn
đáp ứng được nhu cầu giải quyết vụ án mà ko ảnh hương đến quyền lợi của bị can, bị cáo.
2. Nâng cao kiến thức tố tụng cho những người tham gia tố tụng, đặc biệt là bị can,
bị cáo.

Những người tham gia tố tụng và đặc biệt là bị can bị cáo là những người có quyền
lợi bị ảnh hưởng nhất trong khi tham gia tố tụng. Vì vậy để đảm bảo cho các quyền lợi ấy
được thực hiện một cách đúng đắn và có hiệu quả thì cần: Thường xuyên tuyên truyền
nâng cao pháp luật cho người dân; đối với bị can, bị cáo thì cần phải giải thích các quyền
cho họ hiểu để vận dụng tốt.
3. Đối với những người THTT
Pháp luật cần quy định các biện pháp nhằm năng cao số lượng và chất lượng đội
ngũ những NTHTT, tăng cường công tác giáo dục, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp, lối
sống và trách nhiệm cho những NTHTT. Xây dựng phương án đào tạo cán bộ, làm tốt
công tác nghiệp vụ xét xử để đào tạo nguồn bổ nhiệm thẩm phán.
4. Một số giải pháp khác
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động chuyên môn và hoạt
động quản lý của cơ quan tiến hành tố tụng. Tăng cường kinh phí vào việc xây dựng cơ sở
vật chất, điều kiện làm việc cho NTHTT.Có chính sách cải cách tiền lương, chế độ phụ
cấp, ban hành chính sách ưu đãi khác để nâng cao đời sống và phù hợp với chế độ công
tác của đội ngũ những NTHTT.

KẾT BÀI
Thông qua những quy định của pháp luật và việc phân tích trên ta có thể thấy được
vai trò quan trọng trong việc xác định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo. Đảm bảo được các
quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo được áp dụng trên thực tế, từ đó sẽ góp phần rất lớn
trong việc xác minh sự thật khách quan của vụ án. Để những quyền lợi và nghĩa vụ của bị
can, bị cáo được thực hiện trên thực tế thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng phải tạo điều kiện thuận lợi cho bị can, bị cáo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình; đồng thời CQTHTT và những NTHTT phải khách quan, trung thực trong việc giải
quyết vụ án, tìm ra sự thật.
13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.CAND, Hà
Nội, 2008.
2. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003.
3. Viện khoa học pháp lý, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội, 2005
4. Vũ Thị Kim Thùy, Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự; khóa luận tốt
nghiệp, Hà Nội năm 2011.
5. Thực trạng thực hiện quyền bào chữa và quyền nhờ người bào chữa của bị can, bị cáo.

6. Nguyễn Sơn Hà, Một số vấn đề bảo vệ quyền con người đối với người bị tình nghi
phạm tội trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số
06/2006.
7. Nguyễn Tiến Sơn, Cần sửa đổi bổ sung một số quy định của BLTTHS về khởi tố bị
can , thay đổi, bổ sung phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, Tạp chí kiểm sát số 23 –
tháng 12/2008.
8. Chu Thị Vân Trang, Hoàn thiện quy định của BLTTHS về quyền và nghĩa vụ của bị
can, bị cáo và cơ chế đảm bảo thực hiện, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 18, tháng
9/2009/
9. Ths. Nguyễn Khắc Quang, Cần sửa đổi bổ sung một số quy định của BLTTHS về địa vị
pháp lý của bị can, bị cáo, Tạp chí kiểm sát, VKSNDTC, số 21, tháng 11/2009.

14


15



×