Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Một số vấn đề về người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 643 BLDS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.11 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Thừa kế là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời
kỳ sơ khai của xã hội loài người. Thừa kế di sản chính là sự chuyển dịch tài sản và
quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền
hưởng thừa kế; người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo di
chúc hoặc theo pháp luật. Với ý nghĩa có tầm quan trọng như vậy, nên trong bất kỳ
chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng trong các
chế định pháp luật nói chung và bản thân nó cũng phản ánh phần nào bản chất chế
độ xã hội đó, thậm chí còn phản ánh được tính chất từng giai đoạn trong quá trình
phát triển của một chế độ xã hội nói riêng. Pháp luật nước ta quy định những người
không được hưởng thừa kế theo pháp luật là nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của
những người thừa kế khác khi họ có đủ tiêu chuẩn và điều kiện để được hưởng
phần di sản đó.Vậy những người nào không được quyền hưởng di sản thừa kế theo
pháp luật và tại sao luật lại quy định như vậy, đề tài : “Một số vấn đề về người
không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 643 BLDS” sẽ
giúp chúng ta tìm hiểu sâu hơn.

NỘI DUNG
I.

Lí luận chung về người không được hưởng di sản thừa kế
Người không được hưởng di sản thừa kế bao gồm cả những người bị

truất quyền thừa kế do người để lại di sản thừa kế truất quyền và người bị tước
quyền thừa kế do pháp luật quy định. Do yêu cầu của để bài là tìm hiểu một số vấn
đề về người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 643
BLDS, nên bài làm dưới đây chỉ tập trung nghiên cứu về vấn đề người bị tước
quyền thừa kế do pháp luật quy định. Nhưng trước hết ta cũng cần tìm hiểu sơ qua
về người bị truất quyền hưởng thừa kế do người để lại di sản thừa kế truất quyền.
1



1.

Người bị truất quyền hưởng di sản

Theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam thì cá nhân có quyền lập di chúc
để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế
Điều 648 Bộ luật Dân sự quy định về quyền của người lập di chúc quy định:
“- Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa
kế;
- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
- Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
- Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia
di sản.”
Từ quy định trên cho thấy, người để lại di chúc có quyền truất quyền thừa kế
của bất cứ người thừa kế nào mà không cần phải thông qua một thủ tục pháp lý tại
bất kỳ cơ quan nào. Việc truất quyền hưởng di sản của người thừa kế được thể hiện
cụ thể trong di chúc.
Như vậy vấn đề đặt ra ở đây là: Truất quyền hưởng di sản của người thừa kế
theo di chúc có phải là trường hợp Người không được quyền hưởng di sản theo quy
định của pháp luật( người bị tước quyền thừa kế) hay không? Rất nhiều người đã
nhầm lẫn giữa truất quyền hưởng di sản của người thừa kế và trường hợp người
không được quyền hưởng di sản được quy định tại Khoản 1 Điều 643 Bộ luật dân
sự là một; điều này dẫn đến những hệ lụy không nhỏ trong các vụ việc tranh chấp
di sản. Cần phải khẳng định 2 sự việc trên là hoàn toàn khác nhau, việc truất quyền

2



thừa kế ở đây là do ý chí của người để lại di sản là muốn truất quyền thừa kế của
những người thuộc diện thừa kế.


Hệ quả pháp lý của việc truất quyền hưởng di sản của người thừa kế
Bộ luật Dân sự tại Điều 648 đã quy định người lập di chúc có quyền truất
quyền hưởng di sản của người thừa kế, nhưng không đề cập cách thức truất
như thế nào thì mới hợp pháp . Nhìn nhận thực tế, thường thấy rằng việc
truất quyền hưởng di sản có thể được thực hiện bằng cá hình thức:

-

Truất quyền trực tiếp: Theo cách này thì người lập di chúc sẽ nêu rõ trong di
chúc truất(không cho) một cá nhân ( được xác định ) được quyền thừa kế di
sản của mình
Truất quyền gián tiếp: Khi đó Người lập di chúc sẽ định đoạt phần di sản

không chỉ định một cá nhân nhất định để nhận di sản.
Đối với truất quyền trực tiếp thì đã quá rõ ràng, không có gì tranh cãi vì
trong mọi trường hợp họ sẽ không được nhận di sản; nhưng với cách thức truất
quyền gián tiếp sẽ xuất hiện tình huống người lập di chúc không định đoạt hết
tài sản của mình, và phần tài sản còn lại mặc nhiên được đem chia theo pháp
luật vậy liệu những người bị truất quyền hưởng di sản có được thừa kế phần tài
sản hay không? Câu trả lời là không. Tuy nhiên, đối với những người nằm trong
trường hợp được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc thì dù di
chúc không cho họ hưởng thừa kế thì họ vẫn đương nhiên đợc hưởng một phần
bằng 2/3 một suất thừa kế nếu chia theo luật. Điều đó đã được pháp luật nước ta
quy định rất rõ tại
“Điều 669: Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc


3


Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của
một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong
trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho
hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối
nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền
hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.”
Pháp luật quy định trong trường hợp này họ vẫn được hưởng một phần di sản
nhất định của người đã chết là rất phù hợp với phong tục tập quán của nhân dân
dân ta. Tuy nhiên cũng theo quy định của luật họ cũng sẽ không được hưởng nếu vi
phạm Khoản 1 Điều 643 BLDS.


Hình thức của việc truất quyền hưởng di sản của người thừa kế

Hành vi lập di chúc là sự thể hiện quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu trước
khi chết; và quyền thừa kế chỉ phát sinh khi người để lại di sản chết; do đó, trong
khoản thời gian lập di chúc đầu tiên đến khi chết thì họ vẫn còn quyền định đoạt tài
sản, thay đổi,hủy bỏ, bổ sung, sửa đổi..nội dung di chúc. Theo nội dung của Điều
662 Bộ luật dân sự thì người lập di chúc có những quyền trên; như vậy cũng có khả
năng là việc truất quyền sẽ diễn ra cùng lúc với việc lập di chúc, xác định ngưởi
hưởng di sản; mà cũng có thể là việc truất quyền sẽ diễn ra sau thời điểm họ lập di
chúc.
Từ đây cũng dẫn đến giả thuyết, nếu một người có hai di chúc , trong khi di
chúc đầu tiên thể hiện nội dung cho người thừa kế hưởng di sản; nhưng di chúc thứ
hai lại truất quyền của người này.Vậy điều gì sẽ xảy ra trong trường hợp này? Theo

4


quy định của Bộ luật dân sự tại Điều 667 thì đương nhiên người thừa kế sẽ bị truất
quyền nếu di chúc sau là hợp pháp; thế nhưng nếu như di chúc thứ hai không hợp
pháp thì liệu người thừa kế có bị truất quyền? Tôi cho là sẽ không truất quyền thừa
kế đối với người này bởi hành vi làm vô hiệu di chúc thứ nhất bằng di chúc thứ hai
không hợp pháp, không có giá trị pháp lý nên sẽ không dẫn đến sự vô hiệu của di
chúc đầu tiên.
Như đã nói ở trên, việc truất quyền thừa kế chỉ được đề cập sơ lược, nhưng có
thể thấy việc truất quyền của người để lại di sản gắn liền với di chúc; nên nếu như
lập di chúc với hình thức nào thì việc truất quyền thừa kế cũng phải tuân theo hình
thức đó,có như thế mới đảm bảo tính toàn diện của pháp luật.
2. Người không được hưởng di sản theo quy định của BLDS năm

2005
Theo như nghiên cứu các quy định pháp luật trước đây và những quy định của
Bộ luật dân sự đều thấy rằng người thừa kế thực hiện những hành vi trái pháp luật,
trái đạo đức được liệt kê tại Điều 643 Bộ luật dân sự thì sẽ bị pháp luật trừng trị
bằng cách tước quyền hưởng di sản mà đáng ra họ sẽ được hưởng nếu như không
có các hành vi trên. Việc này là sự trừng trị mà xã hội, nhà nước dành cho họ đồng
thời cũng là lời cảnh cáo cho những hành vi trên của nhưng người hưởng thừa kế
khi họ không thực hiện tốt bổn phận của mình.
Trong quan hệ thừa kế, những người là vợ, chồng, con,…của những người đã
chết hoặc những người được chỉ định trong di chúc là những người được hưởng
thừa kế của người chết. Tuy nhiên trong thực tế có những trường hợp họ đã vi
phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của mình, có những hành vi trái pháp luật, trái đạo
đức xã hội, trái với thuần phong mĩ tục của nhân dân Việt Nam, xâm phạm đến
danh dự nhân phẩm, uy tín, tính mạng sức khỏe của bố mẹ, anh, em, vợ, chồng,…
5



Người có những hành vi như vậy không xứng đáng được hưởng những quyền lợi
của người mình đã xâm phạm. Kế thừa tập quán đó, khoản 1 Điều 643 BLDS quy
định về những người không được quyền lợi của người mình đã xâm phạm.
Người không được hưởng di sản thừa kế đã được BLDS năm 2005 quy định
rất rõ tại Khoản 1 Điều 643 BLDS. Đó là những người : Người bị kết án về hành vi
cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành
hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người
đó; Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; Người
bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng
một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; Người
có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di
chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc
toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Nguyên tắc của lưu thông dân sự phải tôn trọng đạo đức truyền thống tốt đẹp
của nhân dân ta. Những người có những hành vi trên không còn xứng đáng hưởng
di sản của người đã chết. Điều đó không những chỉ ảnh hưởng đến danh dự, quyền
lợi của cá nhân mà còn ảnh hưởng đến danh dự của gia đình, dòng họ.
Tuy nhiên để đảm bảo quyền tự định đoạt tài sản của người có di sản. Những
người kể trên vẫn có thể được hưởng di sản thừa kế nếu như người để lại di sản
viết di chúc cho họ hưởng tài sản của mình. Vấn đề này được quy định tại Khoản 2
Điều 643 BLDS:…..
Như vậy việc tước quyền hưởng di sản chỉ đặt ra đối với trường hợp chia di sản
thừa kế theo pháp luật.
III.

Người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Khoản 1
Điều 643 BLDS.


Khoản 1 Ðiều 643. Người không được quyền hưởng di sản
6


“ Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về
hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có
quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản
trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.”
1.

Điểm a Khoản 1 Điều 643 : “Người bị kết án về hành vi cố ý xâm

phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ
người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người
đó;”


Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ

Theo Ðiều 71 Hiến pháp năm 1992 quy định rất rõ về quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm. Pháp luật nước ta nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm của công dân.

Theo như nội dung của điều luật trên thì cơ sở để tước quyền hưởng di sản của
người thừa kế là việc cơ quan có thẩm quyền xác nhận rằng người đó đã bị kết án
bằng một bản án có hiệu lực về các tội sau đây chưa: Điều 93. Tội giết người, Điều
94. Tội giết con mới đẻ, Điều 95. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh, Điều 96. Tội giết người do vựơt quá giới hạn phòng vệ chính đáng,
7


Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,
Điều 105. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Điều 106. Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng. Tức là một người có hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ
hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó, và đã bị kết án bởi hành vi này
thì không cần biết vì động cơ trục lợi để hưởng di sản hay không thì vẫn bị tước
quyền thừa kế.
Cũng như nội dung điều luật trên thì những người bị kết án về các tội sau thì vẫn
có thể được hưởng di sản thừa kế (không bị tước quyền thừa kế) đó là các tội: Điều
98. Tội vô ý làm chết người, Điều 99. Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy
tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. Tức là chỉ cần xác định hành vi đó
là vô ý thì người đó vẫn không bị tước quyền thừa kế.
Đồng thời nếu người đó đã bị kết án vì các hành vi cố ý nếu trên nhưng
mà bản án vẫn chưa có hiệu lực thi họ vẫn có quyền hưởng di sản thừa kế.
Ví dụ: ông bà X và Y có ba người con trai là T, G và H. Năm 2003, ông bà viết di
chúc chung để lại cho T 50 triệu, G 30 triệu, H 10 triệu. Do thấy mình được ít nên
H thường xuyên gây gổ với T và G. Năm 2004, H bàn mưu với bạn mình giết T và
G để được hưởng toàn bộ di sản của bố mẹ mình. Kết quả là T chết, G bị thương,
H bị Toà án tuyên 20 năm tù giam. Năm 2005, ông bà X và Y chết. Năm 2006, G
yêu cầu phân chia di sản và yêu cầu tước quyền thừa kế của H. (Trường hợp này

Toà án có thể ra quyết định H không được quyền hưởng di sản, theo đó tất cả di
sản của ông bà X, Y sẽ do G được hưởng).


Cơ sở để không cho người có hành vi ngược đãi nghiêm trọng,
hành hạ người để lại di sản là:
8


-

Hành vi phạm tội đó phải là nghiêm trọng
Đã bị kết án bằng một bản án có hiệu lực bởi các tội được quy

định trong BLHS đó là: Điều 100. Tội bức tử; Điều 110. Tội hành hạ người khác
Hành vi ngược đãi, hành hạ đến người khác ví dụ như: đánh đập, chửi mắng,
dung lời lẽ cay nghiệt để nhục mạ người khác, chói, nhốt người đó….Những
người hành hạ, ngược đãi người phụ thuôc vào mình như con ngược đãi cha, me.
Cháu ngược đãi ông, bà, cô, dì, chú, bác….dẫn đến sự tự sát của người đó thì đều
bị tước quyền hưởng di sản mà người đó để lại.

-

Cơ sở không cho người có hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến

danh dự nhân phẩm của người để lại di sản là:
Hành vi phạm tội của người đó là loại tội nghiêm trọng
Đã bị kết án bằng một bản án có hiệu lực về các tội sau: Điều

111. Tội hiếp dâm; Điều 112. Tội hiếp dâm trẻ em;Điều 113. Tội cưỡng dâm. Điều

114. Tội cưỡng dâm trẻ em. Điều 115.Tội giao cấu với trẻ em. Điều 116. Tội dâm
ô đối với trẻ em. Điều 119. Tội mua bán phụ nữ. Điều 120. Tội mua bán, đánh tráo
hoặc chiếm đoạt trẻ em. Điều 121. Tội làm nhục người khác. Điều 122. Tội vu
khống.
Xúc phạm nhân phẩm, danh dự của con người là những hành vi cố ý xâm phạm
đến quyền được tôn trọng về nhân phẩm, danh dự. Các tội phạm trong nhóm tội
này đều có những đặc điểm chung đó là: hành vi phạm tội của tất cả các tội trong
nhóm tội này đều dưới dạng hành động phạm tội; hậu quả của những hành vi này
đều là những thiệt hại gây ra cho danh dự, nhân phẩm của con người thể hiện dưới
dạng những thiệt hại tinh thần; lỗi của các tội này đều là lỗi cố ý người phạm tội
biết hành vi của mình xâm phạm đến danh dự nhân phẩm của người khác nhưng
vẫn thực hiện hành vi nhằm đạt được mục đích của mình.
Như vậy việc một người có hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ
hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đóvà đã bị kết án thì bị pháp luật tước
quyền thừa kế. Nhưng một vấn đề đặt ra ở đây là nếu người bị kết án và đã được
9


xóa án tích trước thời điểm mở thừa kế hay là trước thời điểm viết di chúc thì
không bị tước quyền thừa kế. Theo tôi thì cả hai đều được quyền hưởng di sản
thừa kế vì: Theo Điều 63 BLHS quy đinh: “ người được xóa án tích coi như chưa
bị kết án và được Tòa án cấp giấy chứng nhận” tức là khi một người được xóa án
tích thì được pháp luật coi như người đó chưa bị kết án về tội mà mình đã bị tuyên
trước đó, đồng thời khi một người được xóa án tích phạm tội mới thì tòa án không
được căn cứ vào tiền án đã được xóa để xác định là tái phạm hay tái phạm nguy
hiểm. Như vậy khi một người được xóa án tích thì họ có đủ tư cách để được hưởng
quyền thừa kế. Theo Điều 636 BLDS quy định về thời điểm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của người thừa kế đã nêu: “ kể từ thời điểm mở thừa kế, những người
thừa kế có quyền và nghĩa vụ do người chết để lại” tức là thời điểm phát sinh

quyền thừa kế là thời điểm mở thừa kế chứ không liên quan gì đến thời điểm viết
di chúc.
2.

Điểm b Khoản 2 Điều 643: “Người vi phạm nghiêm trọngnghĩa

vụ nuôi dưỡng người để lại di sản”
Vì quy định về tước quyền thừa kế chỉ xảy ra đối với trường hợp di sản thừa kế
chia theo pháp luật cho nên những người bị tước quyền thừa kế chỉ xảy ra đối với
những người thừa kế theo pháp luật, được quy định tại Điều 676 BLDS. Đó là
những người có mối quan hệ: Huyết thống, hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng giữa
người thừa kế với người để lại di sản thừa kế.
- Quan hệ hôn nhân là quan hệ vợ chồng trên cơ sở đăng ký kết hôn
hoặc hôn nhân thực tế theo quy định của pháp luật.
- Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người có cùng dòng
máu trực hệ hoặc bàng hệ được xác định thông qua sự kiện sinh đẻ.
+ Quan hệ huyết thống trực hệ: cụ, ông, bà, cha, mẹ đẻ và con đẻ.

10


+ Quan hệ huyết thống bàng hệ: Anh, chị, em ruột; bác, chú, cậu, cô, dì ruột, cháu
gọi ngừơi chết là bác, chú, cậu, cô, dì ruột.
- Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ dựa trên cơ sở nuôi con nuôi hợp
pháp, tức việc nuôi con nuôi phải đăng ký và làm thủ tục tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo quy định luật hộ tịch. Trường hợp nhận con nuôi trước năm 1986
Luật hôn nhân gia đình có hiệu lực thì không cần đủ các thủ tục trên, mà được
công nhận là con nuôi thực tế.
Nuôi dưỡng chính là sự chăm lo về vật chất giữa người này với người khác
cho dù họ cùng chung sống hay không. Người thừa kế bị coi là có hành vi vi phạm

nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản được luật hôn nhân gia đình xác định là có
nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản nhưng họ không thực hiện nghĩa vụ đó dù
bản thân có đủ khả năng, điều kiện để thực hiên. Nghĩa vụ cấp dưỡng cũng là một
trong những trường hợp đặc biệt trong nghĩa vụ nuôi dưỡng của một người đối với
người không sống chung với mình.
Ngoài nghĩa vụ nuôi dưỡng LHNGD còn quy định them nghĩa vụ cấp dưỡng
giữa các thành viên trong gia đình (cha, mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa
ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ và chồng).
Theo quy định của LHGD 2000, người thừa kế là người có nghĩa vụ nuôi dưỡng
người để lại di sản trong trường hợp:
Thứ nhất người thừa kế là con người để lại di sản
Thứ hai người thừa kế là cha, mẹ của người để lại di sản
Phạm vi cha, mẹ, con theo pháp luật thừa kế bao gồm cả cha đẻ, mẹ đẻ, con
đẻ (con trong giá thú và con ngoài giá thú), cha nuôi, mẹ nuôi; một người đã làm
con nuôi của một người vẫn có thể được thừa kế của cả cha, mẹ nuôi lẫn cha, mẹ
đẻ và ngược lại một người có thể được thừa kế của cả con nuôi lẫn con đẻ của
mình. Con có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cha, mẹ trong mọi trường hợp, hoàn
11


cảnh, đặc biệt là khi cha mẹ ốm đau, già yếu tàn tật con có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng cha mẹ nhưng đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ đó thì không những bị coi
là bất hiếu mà còn bị pháp luật tước quyền hưởng di sản thừa kế của cha, mẹ.
Nhưng cha mẹ chỉ có nghĩa vụ chăm sóc nuôi dưỡng con khi con chưa thành niên
hoặc con đã thành niên nhưng mất khả năng lao động và không có tài sản để tự
nuôi sống bản thân. Tuy nhiên, con chưa thành niên nếu chưa tròn mười lăm tuổi,
chưa đủ năng lực hành vi dân sự thì không được lập di chúc định đoạt tài sản nên
chỉ có thể tước quyền di sản thừa kế theo di chúc của cha mẹ trong trường hợp cha
mẹ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với con đã thành niên bị tàn tật,
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Tuy nhiên con riêng và cha dượng, mẹ kế không có mối quan hệ huyết thống
nuôi dưỡng nhưng theo quy định họ lại có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau.
Điều 38 LHNGD. Điều 679 BLDS. Kết hợp hai quy định trên thì chỉ cẩn khi con
riêng và cha dượng, mẹ kế cùng song chung với nhau mới phát sinh nghĩa vụ nuôi
dưỡng giữa họ, và họ được quyền hưởng thừa kế (theo di chúc lẫn theo pháp luật)
của nhau, nếu một bên vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng thì khi bên kia chết trước,
quyền thừa kế của bên vi phạm sẽ bị tước. Nhưng việc cùng sống chung được hiểu
như thế nào lại chưa được pháp luật quy định rõ, cùng sống chung có phải là cùng
nơi cư trú hay không hay còn căn cứ vào sự phụ thuộc về kinh tế, tình cảm giữa họ
việc trên thực tế họ tự nguyện dành cho nhau những khoản tiền, khoản vật chất
khác giúp nhau ổn định cuộc sống. Pháp luật nên quy định nghĩa vụ nuôi dưỡng
giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế không ảnh hưởng đến không gian của họ bởi
lẽ điều đó không ảnh hưởng tới việc nuôi dưỡng. Như vậy, cha dượng, mẹ kế chỉ
có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con riêng của vợ, của chồng khi người con riêng
đó chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật mất khả năng lao động, mất
năng lực hành vi dân sự, không có đủ tài sản để tự nuôi sống bản thân, còn con

12


riêng khi đã sống chung thì phải chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ dượng, mẹ kế trong
mọi trường hợp
Thứ ba người thừa kế là cháu của người để lại di sản
Thứ tư người thừa kế là ông nội bà nội, ông ngoại bà ngoại của người để lại di
sản
Pháp luật không đương nhiên thừa nhận quan hệ thừa kế giữa cha đẻ, mẹ đẻ
của một người với con nuôi của người đó ( không thừa nhận quan hệ thừa kế giữa
ông bà và cháu trong trường hợp này) bởi lẽ quan hệ thừa kế này chỉ dựa trên mối
quan hệ huyết thống. Theo điểm b Khoản1 Điều 676 BLDS quy định: “Hàng thừa
kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột

của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại”. Như vậy khi ông bà chết thì chỉ có cháu ruột mới được thừa kế ở
hàng thứ hai. Tuy nhiên cũng cần phải phân biệt nếu ông bà là cha mẹ nuôi của cha
mẹ đẻ người chết thì cần thừa kế ông bà là người thừa kế ở hàng thứ hai của người
đó; nếu người chết là con nuôi của con đẻ hay con nuôi của ông bà thì ông bà
không đương nhiên là người thừa kế ở hàng thứ hai của người chết.
Thứ năm người thừa kế là anh chị em của người để lại di sản
Anh chị em có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ
hoặc cha mẹ không đủ điều kiện trông nom, nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục con.
Tuy nhiên anh chị em chỉ bao gồm anh chị em ruột- những người có quan hệ
huyết thống trực hệ cùng một đời. Trên thực tế có anh chị em nuôi nhưng pháp luật
chỉ thừa nhận quan hệ anh chị em ruột với nhau.
Thứ sáu người thừa kế là vợ chồng của người để lại di sản
Giữa vợ và chồng phải tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp hoặc hôn nhân thực
tế được tòa án thừa nhận. Vợ chồng đối với nhau không những có nghĩa vụ cấp
dưỡng mà còn có nghĩa vụ nuôi dưỡng khi họ ly hôn, nếu một bên khó khăn, túng
13


thiếu có yêu cầu cấo dưỡng mà có lí do chính đáng (Điều 60 LHNGD). Nếu sau ly
hôn một bên không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho bên kia thì sẽ không được
hưởng di sản thừa kế.


Thời hạn vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng

Người thừa kế vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản có thể bị kết
án về hành vi đó theo Điều 152 BLHS. Những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau
chỉ không được hưởng quyền di sản thừa kế của nhau khi sự vi phạm đps là
nghiêm trọng. Nhưng tính chất nghiêm trọng đó lại chưa được pháp luật quy định

vì trong Khoản b Điều 643 BLDS 2005 lại không quy đinh hành vi vi phạm
nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản phải bị kết án. Do vậy việc
đánh giá mức nghiêm trọng của hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại
di sản hoàn toàn phụ thuộc vào sự đánh giá của người có thẩm quyền giải quyết
trên cơ sở các chứng cứ, tình tiết xảy ra trên thực tế. Đó cũng là một điểm hạn chế
và thiếu sót của pháp luật.
Như vậy theo điểm b Khoản 1 Điều 643 BLDS thì người vi phạm nghĩa vụ
nuôi dưỡng người để lại di sản sẽ không có quyền hưởng di sản của người để lại di
sản cho dù hành vi đó đã bị kết án hay chưa.
Điểm c Khoản 3 Điều 643 : “Người bị kết án về hành vi cố ý

3.

xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ
phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng”
Người thừa kế khác ở đây có thể hiều là người thừa kế theo di chúc hoặc thừa
kế theo pháp luật của người để lại di sản. Có thể xảy ra các trường hợp sau đây:
-

Hai người đều được chỉ định là người thưa kế theo di chúc và họ là

hai người duy nhất thuộc diện và hàng thừa kế theo pháp luật của người để lại di
sản.
-

Một người thừa kế sau khi biết được nội dung di chúc đã giết
14


người thừa kế duy nhất theo di chúc hoặc giết tất cả người thừa kế theo di chúc để

khi mở di chúc, di chúc đó là vô hiệu và tất nhiên người này phải thuộc hàng thừa
kế thứ nhất, thứ hai, thứ ba( nếu không có người thuộc hàng thừa kế trước đó) hoặc
thuộc hàng thừa kế duy nhất.
-

Giữa người thừa kế khác bị giết và người có hành vi giết thì thông

thường cùng là hàng thừa kế, hoặc thuộc hàng thừa kế liền kề….
Theo như nội dung của điều luật này thì chỉ có những người có hành vi cố ý
xâm phạm đến tính mạng người thừa kế khác thì mới có thể bị tước quyền thừa kế,
do vậy những hành vi xâm phạm đến danh dự nhân phẩm của người thừa kế khác
dù đã bị kết án thì vẫn không bị tước quyền thừa kế. Nhưng hành vi đó phải đòi hỏi
với mục đích là chiếm đoạt một phần hay toàn bộ di sản của người để lại di sản.
Khi đó người có hành vi trên mới bị tước quyền.
Cần lưu ý rằng, nếu một người có hành vi xâm phạm tính mạng người thừa kế
theo di chúc khác thì hành vi này phải diễn ra trước thời điểm người lập di chúc
chết bởi vì khi người lập di chúc chết thì phần di sản của mỗi người đã được nghi
rõ trong di chúc. Còn hành vi xâm phạm đến tính mạng người thừa kế theo pháp
luật khác thì hành vi này phải xảy ra sau khi người để lại di sản chết, vì khi đó
người này mới có mục đích chiếm đoạt phần di sản thừa kế.
Vậy một người có hành vi vô ý làm chết người thừa kế khác hoặc đã thực hiện
hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhưng không nhằm mục
đích chiếm đoạt một phần hay toàn bộ di sản mà người thừa kế khác được hưởng
thì có bị tước quyền hay không. Theo tôi là không. Nhưng nếu người thừa kế giết
người thừa kế khác nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt di sản mà nhằm mục
đích để cho người thân của mình được hưởng một phần hay toàn bộ di sản thì cũng
cần phải tước quyền thừa của người này.
Cơ sở để tước quyền thừa kế của người có hành vi cố ý xâm phạm đến tính
mạng của người thừa kế khác là: hành vi trên phải là cố ý, đã bị kết án về các tội
xâm phạm đến tính mạng của người khác tại các điều ở Điểm a Khoản 1 Điều 643

15


nêu trên và bản án đó cũng phải có hiệu lực. Nếu một người có hành vi cố ý xâm
phạm đến tính mạng người thừa kế đó thì không những bị tước quyền hưởng di sản
của người để lại di sản mà còn bị tước quyền hưởng di sản của người thừa kế khác
đó ( nếu bản thân người có hành vi xâm phạm đến tính mạng người thừa kế khác
cũng chính là người thừa kế của người mà mình xâm hại)
Và cũng như nêu ở trên, nếu người đó đã được xóa án tích thì vẫn không bị
tước quyền thừa kế.
4.

Điểm d Khoản 4 Điều 643: “Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép

hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa
chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý
chí của người để lại di sản.”
Theo như quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 652 BLDS 2005 một trong
những điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp đó là người lập di chúc không bị
lừa dối đe dọa, cưỡng ép. Như vậy khi người thừa kế có hành vi lừa dối cưỡng ép
hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc thì di chúc đó sẽ không có
hiệu lực, chính điều này là cơ sở để phát sinh các trường hợp thừa kế theo pháp
luật.
Điều 132 BLDS 2005: “Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền
yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm
làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung
của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Ðe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho

bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con
của mình,”

16


Như vậy, hành vi lừa dối ở đây có thể được thực hiện bằng hành động hoặc
không hành động, hành động như dùng những lời lẽ, mưu mô, thủ đoạn để cung
cấp thông tin sai sự thật về một vấn đề nào đó khiến người lập di chúc tin vào
thông tin này mà lập di chúc trái với ý nguyện đích thực của mình. Không hành
động thể hiện ở chỗ biết mà im lặng không nói lên sự thật để người lập di chúc
định đoạt theo hướng có lợi cho mình. Vậy theo như nội dung của điều này thì nếu
việc lừa dối trên không nhằm cho mình hưởng di sản mà mục đích cho người khác
hưởng thừa kế thì không bị tước quyền hưởng di sản.
Hành vi cưỡng ép ngăn cản người để lại di chúc là hành vi tác động đến tâm
lý, tinh thần của người để lại di sản buộc họ phải lập di chúc trác với ý nguyện của
mình. Đe dạo là sự tác động làm cho người lập di chúc sợ hãi buộc phải lập di chúc
trái với ý nguyện của mình và theo sự chỉ đạo của người đe dọa.
Pháp luật thừa kế quy định chỉ có người lập di chúc mới có quyền sửa đổi bổ
sung, thay thế, hủy bỏ di chúc ( Điều 662 BLDS 2005) nên những người khác
không có quyền này, và nếu thực hiện những hành vi trên nhằm mục đích hưởng di
sản thì sẽ bị tước quyền hưởng di sản của người lập di chúc. Hành vi giả mạo di
chúc là việc lập di chúc theo ý chí của mình nhằm thay thế di chúc của người để lại
di chúc ( trên thực tế người chết không để lại di chúc). Hành vi giả mạo di chúc
cũng giống như hành vi lừa dối, cưỡng ép người lập di chúc đều bị pháp luật tước
quyền hưởng di sản thừa kế. Việc biết người khác giả mạo di chúc cũng có thể
được coi là hành vi giả mạo di chúc nếu người biết người giả mạo di chúc nhưng
vẫn mang di chúc đó đi công chứng chứng thực.
Hành vi sửa chữa di chúc là hành vi thay đổi, phủ nhận (sửa đổi, bổ sung) một

phần hoặc toàn bộ nội dung của di chúc. Hành vi hủy di chúc là hành vi dùng thủ
đoạn như xé, đốt, vứt…tác động đến di chúc làm cho di chúc bị phá hủy hoàn toàn,
không còn nguyên vẹn, không thể phục hồi trạng thái ban đầu. Người hủy di chúc
thông thường là những người vừa được chia theo pháp luật vừa được chia theo di
chúc hoặc chỉ được chia theo pháp luật.
17


Cơ sở để tước quyền thừa kế của người có hành vi giả mạo, sửa chữa, hủy bỏ
di chúc là những hành vi này phải trái vơi ý chí của người để lại di sản, như vậy
việc giả mạo, sửa chữa, hủy bỏ di chúc mà không trái với ý chí của người lập di
chúc thì tất nhiên không thể tước quyền của họ. Như vậy đê xác định được có trái
với ý chí của người để lại di chúc hay không thì cần phải xác định được nội dung
của di chúc và ý chí của người để lại di chúc để có thể chứng minh trên thực tế.
Trên thực tế còn xuất hiện rất nhiều trường hợp người thừa kế cố tình giấu di
chúc của người để lại di chúc nhằm có lợi cho mình hay một việc giấu đi một phần
di sản mà người chết để lại, những trường hợp trên đều đi ngược lại với những
nguyên tắc về thừa kế, nhưng hiện tại lại không có quy định tước quyền thừa kế
của những trường hợp trên.
Tất cả những hành vi trên đều làm cho di chúc bị vô hiệu và người thực hiện
hành vi trên đều bị tước quyền thừa kế.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 643 thì những người được quy định theo
Khoản 1 vẫn có thể hưởng di sản thừa kế nếu người để lại di sản đã lập di chúc thể
hiện ý chí vẫn cho họ hưởng di sản. Tức là những người bị tước quyền thừa kế vẫn
được quyền hưởng thừa kế theo di chúc.
IV.

Thực trạng áp dụng và giải pháp hoàn thiện pháp luật trong việc quy
định người không được hưởng di sản
1. Thực trạng áp dụng

Các trường hợp về tranh chấp liên quan đến những người không được hưởng

di sản thừa kế xảy ra ngày càng nhiều trong thực tế. Nhiều trường hợp những
người thừa kế tranh chấp nhau vì một trong nhiều người thừa kế vi phạm một trong
những hành vi quy định tại Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005, trường hợp xảy ra
nhiều nhất là các vụ vi phạm nghiêm trọng về nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng
người để lại di sản hay xác định một trong những người đó có hành vi giả mạo, sửa

18


chữa di chúc… điều đó chủ yếu là do những đương sự chưa thật sự hiểu rõ quy
định tại điều 643
Có nhiều trường hợp do không hiểu rõ quy định của pháp luật mà những người
thừa kế nghĩ rằng người có hành vi giả mạo,sửa chữa di chúc thì bị tước quyền
hưởng di sản hoàn toàn nhưng thực chất người có hành vi giả mạo, sửa chữa, hủy
bỏ di chúc chỉ bị tước quyền thừa kế của người để lại di chúc mà không bị tước
quyền thừa kế của những người khác mà họ vẫn được hưởng theo pháp luật.
Ngoài ra trên thực tế không chỉ người dân mà cả cá Thẩm phán, luật sư còn
đồng nhất các khái niệm người bị truất quyền thừa kế và người không được quyền
hưởng di sản(người bị tước quyền thừa kế) là một. Nhưng thực chất nó lại hoàn
toàn khác nhau như đã phân tích ở phân trên.
Về phạm vi xác định người không được quyền thừa kế nếu chỉ áp dụng quy
định tại Khoản 1 Điều 643 thì sẽ bỏ sót rất nhiều trường hợp như: người biết được
hành vi của những người quy định tại Khoản 1 Điều 643 mà không tố giác; người
xúi giục người thừa kế lừa dối, cưỡng ép, ngăn cản người để lại di sản, xúi giục
người khác thừa kế giả mạo, sửa chữa hủy bỏ di chúc, người có hành vi giấu di
chúc hay một phần di sản của người chết….
2.


Giải pháp hoàn thiện pháp luật
- Hoàn thiện các quy định về thừa kế
+ Quy định về người thừa kế

Pháp luật dân sự nên ghi nhận quy định cá nhân sinh ra và sống được từ 24 giờ
trở lên thì được coi là sinh ra và còn sống, nếu sinh ra và còn sống sau thời điểm
mở thừa kế thì sẽ được hưởng di sản.
+ Việc thừa kế giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế
Pháp luật nên quy định nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa con riêng và cha dượng, mẹ
kế không phụ thuộc vào điều kiện không gian sống của họ. Hơn nữa, nếu con riêng
và cha dượng, mẹ kế có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau khi cùng sống chung thì nên

19


cho họ vào hàng thừa kế thứ nhất. Vì lúc này nghĩa vụ của họ giống như với cha
mẹ đẻ với con đẻ, cha mẹ nuôi với con nuôi.
+ Tính nghiêm trọng của hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa
những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng với nhau
Chúng ta nên nhìn nhận tính nghiêm trọng đó thông qua các điều kiện, hoàn
cảnh của người bị coi là xâm phạm nghiêm trọng đến nghĩa vụ nuôi dưỡng. Vì nếu
điều kiện hoàn cảnh của họ không đủ nuôi sống chính bản thân họ thì sao họ có thể
thực hiện nghĩa vụ mà pháp luật quy định. Những người chỉ được coi là xâm phạm
nghiêm trọng đến nghĩa vụ nuôi dưỡng khi bản thân họ có điều kiện và việc thực
hiện nghĩa vụ trên không làm ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống hiện tại. Chính vì
vậy pháp luật hiện hành cần thừa nhận nội dung của điểm b Mục 2 Nghị quyết của
hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao ngày 19 tháng 10 năm 1990 hướng
dẫn áp dụng một số quy định của pháp lệnh thừa kế.

-


Bổ sung phạm vi người không được hưởng quyền hưởng di sản
+ Cần phải kế thừa Điểm b Mục 2 Nghị quyết số 02/HDTP:

“ Những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau theo quy định tại các điều 19, 20, 21,
23, 27 Luật Hôn nhân và gia đình (như cha mẹ và con, ông bà và cháu, anh chị
em) trong khoảng thời gian 3 năm trước khi người để lại di sản chết, nếu có khả
năng thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng mà không thực hiện làm cho người cần được
nuôi dưỡng lâm vào tình trạng khổ sở hoặc nguy hiểm đến tính mạng, thì không có
quyền hưởng di sản của người đó.”
+ Người biết những hành vi quy định tại Khoản 1 Điều 643 mà
không tố giác trừ trường hợp người tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị
em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội; người che giấu những tội phạm đó.
+ Người thực hiện các hành vi xúi giục người thừa kế lừa dối,

20


cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc,
sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý
chí của người để lại di sản.
+ Người có hành vi giấu di chúc, giấu một hoặc một số tài sản của
người để lại di sản nhằm hưởng lợi một phần hoặc toàn bộ di sản.
+ Người bị kết án về hành vi không cứu giúp người để lại di sản
trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.
Hành vi không cứu giúp người khác trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng
được thể hiện ở dạng không hành động. Việc cứu giúp ở đây thuộc về trách nhiệm
do pháp luật hoặc các quy tắc của đạo đức quy định. Về mặt chủ quan thì hành vi
trên được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp. Vì vậy vẫn nên tước quyền hưởng di sản
của người thuộc trường hợp này.

Trong thực tiễn áp dụng luật để giải quyết những tranh chấp về thừa kế liên quan
đến xác định người không được quyền hưởng di sản còn rất nhiều khó khăn vướng
mắc. Chính vì vậy pháp luật nước ta cần hoàn thiện hơn về luật thừa kế.

KẾT LUẬN
Vấn đề chia di sản thừa kế từ trước đến nay luôn là vấn đề được nhiều người
quan tâm. Trong thực tế đã có rất nhiều những vụ án thương tâm xảy ra do việc
phân chia di sản của người chết để lại. Nhất là trong thời đại ngày nay, khi nền
kinh tế phát triển, khi các nề nếp đạo đức tốt đẹp đã dần bị mai một thì càng cần
hơn việc có một chế tài hợp lý xử phạt những người không có tư cách để hưởng di
sản thừa kế. Điều đó vừa thể hiện tính nghiêm minh cho pháp luật vừa đảm bảo
công bằng cho những người thừa kế khác khi họ hoàn thành đúng nghĩa vụ mà
pháp luật cũng như đạo đức quy định.

21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

Giáo trình Luật dân sự Việt Nam – Trường đại học luật Hà Nội
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Trường đại học luật Hà Nội
Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình – Trường đại học luật Hà Nội
Luận văn thạc sỹ luật học – Người không được quyền hưởng di sản theo quy

5.


định của pháp luật Việt Nam – Nguyễn Như Quỳnh
Luận văn thạc sỹ luật học – Những quy định chung về quyền thừa kế trong

6.
7.
8.

bộ luật dân sự Việt Nam – Nguyễn Minh Tuấn
Bộ Luật dân sự Việt Nam năm 2005
Bộ Luật Hình sự Việt Nam sửa đổi và bổ sung năm 2009
Bộ Luật hôn nhân gia đình năm 2003

Contents

22


23



×