Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

quy định về người không được hưởng thừa kế theo quy định tại Khoản 1 Điều 643 trong mối liên hệ với Điều 669 Bộ luật Dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.41 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Thừa kế với vai trò là một phạm trù kinh tế xã hôị đã xuất hiện từ rất lâu trong
đời sống xã hội của con người. Pháp luật của rất nhiều quốc gia đã sớm có có
quy định về thừa kế. Ở Việt Nam hiện nay, các vụ án dân sự có liên quan đến
thừa kế chiếm số lượng không nhỏ. Chính vì vậy các quy định về thừa kế trong
Luật Dân sự có vai trò rất quan trọng. Các vấn đề về thừa kế được quy định trong
luật rất phức tạp và liên quan tới nhiều bộ luật khác nhau. Trong bài viết này em
xin tìm hiểu quy định về người không được hưởng thừa kế theo quy định tại
Khoản 1 Điều 643 trong mối liên hệ với Điều 669 Bộ luật Dân sự.
2
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI THỪA KẾ VÀ NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC
HƯỞNG DI SẢN:
1. Người thừa kế:
1.1. Khái niệm người thừa kế:
Thừa kế là một chế định pháp luật dân sự bao gồm tổng hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản (cùng quyền sở hữu tài sản) của
người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định, đồng
thời quy định phạm vi, quyền nghiện vụ và phương thức bảo vệ quyền, nghĩa vụ
của người thừa kế.
Người thừa kế là người được hưởng các quyền và gánh chịu những nghĩa
vụ về tài sản từ một người đã chết theo ý chí mà người đó thể hiện trong di chúc
hoặc theo quy định của pháp luật.
Người thừa kế theo di chúc là người được chỉ định trong di chúc nên có
thể là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, trong trường hợp đặc biệt thì Nhà nước cũng
có thể trở thành người thừa kế nếu được cá nhân có tài sản định đoạt trong di
chúc. Người thừa kế theo pháp luật phải là những người có một rong những mối
quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản, vì vậy
họ chỉ có thể là cá nhân. Những người thuộc diện và hàng thừa kế theo pháp luật
được xác địn theo ba hàng thừa kế quy định tại Điều 676 Bộ Luật Dân sự 2005.
1.2. Điều kiện của người thừa kế:


Theo quy định của Điều 635 Bộ luật Dân sự, một cá nhân chỉ được coi là
người thừa kế khi:
Thứ nhất, cá nhân đó phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
Nếu vào thời điểm phân chia di sản, có người thừa kế đã chết nhưng vào thời
điểm mở thừa kế người thừa kế đó vẫn đang sống thì họ được coi là còn sống và
được quyền hưởng di sản. Trong trường hợp người thừa kế bị tuyên bố chết
3
trước thời điểm người để lại di sản chết nhưng họ còn sống trở về trước khi di
sản người chết được phân chia thì họ vẫn được coi là còn sống và vẫn được
hưởng di sản, tuy nhiên trước đó họ phải yêu cầu Tòa án hủy tuyên bố chết với
họ.
Thứ hai, người đó phải thành thai trước khi người để lại di sản chết nếu
sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế. Nếu cá nhân sinh ra nhưng không
còn sống thì sẽ không thể tiếp nhận di sản. Nhiều ý kiến cho rằng điều kiện này
chỉ được áp dụng đối với người thừa kế theo pháp luật. Nghĩa là cá nhân đã sinh
ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế sẽ luôn luôn được hưởng di sản thừa kế
theo di chúc, nếu đã được người để lại di sản xác định mà không bắt buộc phải
thành thai tước khi người để lại di sản chết.
Cũng theo Điều 635 Bộ luật Dân sự 2005 thì cơ quan, tổ chức chỉ được coi
là người thừa kế theo di chúc nếu cơ quan, tổ chức đó còn tồn tại vào thời điểm
mở thừa kế. Như vậy, nếu cơ quan, tổ chức được người để lại di sản chỉ định làm
người thừa kế theo di chúc nhưng “không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”
thì sẽ không được hưởng di sản.
1.3. Quyền và nghĩa vụ của người thừa kế :
Quyền của người thừa kế được quy định ở Điều 642 Bộ luật Dân sự. Theo
nguyên tắc chung mọi cá nhân đều có quyền hưởng di sản thừa kế theo di chúc
hoặc theo pháp luật. Ngoài ra người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ
trường hợp từ chối nhằm chốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối
với người khác.
Người thừa kế phải thực hiện các nghĩa vụ sau:

_ Nhưng người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong
phạm vi di sản do người chết để lại trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4
_ Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghiã vụ tài sản do người
chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người
thừa kế.
_ Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài
sản mà mình nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
_ Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc
thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là
cá nhân.
2. Người không được quyền thừa kế di sản:
2.1 Người bị truất quyền hưởng di sản :
“Truất quyền thừa kế” là trường hợp người để lại di sản không cho người
thừa kế hưởng di sản của mình. Người bị truất quyền hưởng di sản khác với
người không được chỉ định trong di chúc tuy cả hai trường hợp trên đều là người
không được người để lại di chúc cho hưởng tài sản. Khi một người bị truất quyền
thừa kế thì người đó sẽ không có quyền hưởng di sản cả theo di chúc lẫn theo
pháp luật, nghĩa là không được hưởng di sản của người để lại thừa kế. Nhưng
nếu một người không được chỉ định trong di chúc thì họ vẫn có quyền hưởng
thừa kế tài sản của người chết theo pháp luật nếu họ thuộc diện và hành thừa kế.
Nếu di chúc không có hiệu lực hay vô hiệu một phần, khi người thừa kế trong di
chúc từ chối hưởng di sản hoặc đã chia tài sản theo di chúc mà vẫn còn thì di sản
còn lại đó được chia theo pháp luật họ vẫn có thể được hưởng theo pháp luật.
Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của
người thừa kế. Việc truất quyền thừa kế này phải được ghi rõ trong di chúc là
truất quyền thừa kế của ai hoặc không cho ai hưởng di sản.
Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc ( quy định tại
Điều 669 Bộ luật Dân sự 2005) vẫn được quyền hưởng di sản thừa kế (bằng hai

5
phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu tài sản được chia theo
pháp luật) cho dù người đó đã bị người lập di chúc truất quyền hưởng di sản. Họ
chỉ không được hưởng di sản nếu từ chối nhận di sản hoặc rơi vào một trong các
trường hợp quy định taị Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 (bị pháp luật tước quyền
thừa kế).
2.2 Người không được hưởng di sản theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005:
Theo Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 thì phạm vi người không được quyền
hưởng di sản chỉ là những người bị pháp luật tước quyền thừa kế do đã có hành
vi trái pháp luật, xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của
người để lại di sản và những người thừa kế khác, có những hành vi không xứng
đáng với bổn phận của mình, người có hành vi như vạy không xứng đáng hưởng
di sản ngưởi để lại thừa kế, không có quyền hưởng thừa kế theo pháp luật. Đây
là những người bị kết án vì một trong các hành vi quy định tại điểm a, c Khoản 1
Điều 643 (hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe người để lại di sản,
hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, hành vi xâm phạm
nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người đó, hành vi cố ý xâm phạm đến
tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản
mà người thừa kế đó được hưởng) hoặc thực hiện một trong các hành vi quy định
tại điểm b, d Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005, cho dù không bị kết án về những
hành vi này (hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di
sản; hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di chúc trong việc lập
di chúc, giả mào di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần
hoặc toàn bộ tài sản trái với ý chí của người để lại di sản. Những người này đáng
lẽ được hưởng di sản của người để lại di sản vì họ là người thừa kế của người để
lại di sản (vì họ thuộc diện và hàng thừa kế theo pháp luật của người đẻ lại di sản
hoặc đã được người để lại di sản lập di chúc cho họ được hưởng thừa kế hoặc
thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự) nhưng vì
6
có những hành vi nêu trên nên họ bị pháp luật tước quyền thừa kế. Tuy nhiên

nhằm tôn trọng ý chí cua người để lại di sản nên những người nói trên vẫn được
hưởng di sản “nếu người để lại di sản đã biết hành vi của họ mà vẫn cho họ
hưởng di sản theo di chúc” (theo Khoản 2 Điều 643 Bộ luật dân sự 2005). Đối
với những người không được hưởng di sản theo quy định của Bộ luật Dân sự
2005 họ chỉ đương nhiên không được hưởng di sản nếu di sản được chia theo
pháp luật, họ vẫn có quyền hưởng phần di sản được chia theo di chúc nếu người
để lại di chúc đã biết hành vi của họ mà vẫn để lại tài sản cho họ trong di chúc.
Khi xác định suất thừa kế theo pháp luật để tính phần thừa kế cho người những
người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc theo quy định tại
Điều 669 Bộ luật Dân sự họ không là tham số trong số chia để tính nhân suất.
Như vậy, những người không được quyền hưởng di sản theo nghĩa rộng
bao gồm những người bị truất quyền hưởng (trừ những người được hưởng thừa
kế theo Điều 669 Bộ luật Dân sự 2005) di sản và bị tước quyền hưởng thừa kế.
Tuy nhiên trong phạm vi bài viết ta chỉ nghiên cứu những trường hợp bị tước
quyền hưởng di sản thừa kế theo Điều 643 Bộ luật Dân sự 2005.
II. NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC HƯỞNG DI SẢN THEO QUY ĐỊNH TẠI
KHOẢN 1 ĐIỀU 643 BLDS 2005.
Khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự 2005 quy định:
“1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án vì hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về
hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm
trọng danh dự, nhân phẩm người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án vì hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác
nhằm hưởng mooyj phần hpawcj toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có
quyền hưởng;
7
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di chúc
trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toan bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

…”
1. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về
hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm người để lại di sản.
1.1 Hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe người để lại di sản:
Hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người để lại di sản là hành vi tước đoạt
tính mạng người để lại di sản một cách trái pháp luật bằng mọi hình thức, dù với
bất cứ động cơ hay mục đích gì, kể cả khi được sự đồng ý, yêu cầu của nạn nhân
hay khi đó chỉ là hành vi chống trả quyết liệt nhưng vượt quá giới hạnh phòng vệ
chính đáng.
Hành vi tước đoạt tính mạng người khác là hành vi có khả năng hiện thực
gây ra cái chết đối với họ, được thực hiện bằng hành động hoặc không hành
động, dưới các dạng chủ yếu như: đánh, đấm, đá, đâm, chém, xô đẩy, đầu độc,
bóp cổ, bịt mặt, miệng, mũi, dìm xuống nước,… (các dạng hành động), bỏ mặc
cho đến chết (dạng không hành động); còn có thể thực hiện thông qua hành động
của người không có năng lực hành vi hình sự (việc xúi giục người dưới 14 tuổi
thực hiện hành vi giết người, lúc này hành vi xúi giục đó sẽ được coi là hành vi
giết người); với công cụ phương tiện thực hiện tội phạm khác nhau: dao, súng,
gậy côn, tuýp, thuốc độc,…
Về mặt chủ quan, hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người để lại
di sản phải được thực hiện với lỗi cố ý, nghĩa là người phạm tội nhận thức dược
rõ hành vi vi phạm của mình là nguy hiểm có thể gây hậu quả chết người nhưng
vẫn mong muốn (cố ý trực tiếp) hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (cố ý
gián tiếp). Như vậy nếu hành ví trên chỉ là hành vi vô ý làm chết người (Điều
8
98,99 BLHS) hoặc vô ý gây thương tích thì nười phạm tội cũng không bị tước
quyền thừa kế tài sản của người bị họ vô ý làm chết hoặc vô ý gây thương tích.
Cũng chỉ có thể tước quyền thừa kế của người có hành vi xâm phạm tính mạng,
sức khỏe của người để lại di sản nếu người có hành vi xâm phạm đã bị kết án về
hành vi đó bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật.

Cơ sở để tước quyền hưởng di sản của người thừa kế có hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của người để lại di sản là việc cơ quan có thẩm quyền xác
nhận hành vi phạm tội bằng một bản án hình sự trong đó kết án họ về các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe người khác theo BLHS 1999 (các Tội giết người
Điều 93, Tội giết con mới đẻ Điều 94, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh Điều 95, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng Điều 96, Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác Điều 104, Tội gây cố ý thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Điều 105, Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng 106 Bộ luật Hình sự 1999) và bản án đó chỉ được coi là căn cứ để
tước quyền hưởng di sản của người khi đã có hiệu lực pháp luật, bởi lẽ “Không
ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của tòa án”
(Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự 2004).
1.2. Hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản
Hành vi ngược đãi là hành vi đối xử tàn nhẫn, tồi tệ đối với người thân,
người lệ thuộc mình thông qua hững hành vi như đánh đập, chửi mắng, nhục mạ,
bỏ mặc, giam hãm, bắt lao động quá nặng nhọc, không cho học hành,… trong
khi bản thân người ngược đãi có đật đủ điều kiện để đối xử tốt hơn.
Hành vi hành hạ là hành vi đối xử tàn ác gây đau đớn về thể xác và tinh
thần cho người khác, đôi khi là sự xúc phạm, làm nhục đối với người lệ thuộc
9

×