Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Khái quát chung về quản lý thuế và và pháp luật quản lý thuế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.64 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Thuế có vai trò rất quan trọng đồi với một quốc gia, đối với đời sống xã hội và sự
phát triển của quốc gia đó. Thuế là công cụ hiệu quả để nhà nước điều tiết nền kinh tế
thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi cho sãn
xuất kinh doanh phát triển, giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội của đất nước, để điều
tiết một phần tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà nước nhằm
đảm bảo nhu cầu chi tiêu chung của nhà nước và xã hội. Hoạt động quản lý thuế là một
hoạt động không thể thiếu trong việc quản lý nèn kinh tế - tài chính của đất nước, nhận
thấy được tầm quan trọng của nó, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã đưa
những chính sách, biện pháp hữu hiệu nhất để có thể từng bước hoàn thiện pháp luật
quản lý thuế. Trong thời gian qua, công tác quản lý thuế ở Việt Nam đã đạt những thành
tựu to lớn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển vượt bậc, nhưng bên cạnh đó còn tồn tại nhiều
hạn chế, thiếu sót cần được khắc phục. Vì vậy cần có một hệ thống pháp luật thuế hoàn
thiện, cơ chế quản lý thuế thích hợp để góp phần đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo
tính dân chủ cao.

NỘI DUNG
I. Khái quát chung về quản lý thuế và và pháp luật quản lý thuế:
1. Về pháp luật thuế:
Quản lý là một phạm trù để chỉ mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa các chủ thể
quản lý và đối tượng quản lý nhằm đạt được những đạt được những mục tiêu đề ra. Trong
pháp luật quản lý thuế có thể hiểu quản lý thuế theo hai nghĩa như sau:
Theo nghĩa rộng: QLT là hoạt động quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực thuế, là quá
trình xây dựng chiến lược phát triển hệ thống thuế, ban hành các luật thuế, thực hiện tổ chức,
quản lý, điều hành, thanh tra, giám sát việc thức hiện pháp luật thuế qua đó kiểm tra, thanh tra
thuế và xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
Theo nghĩa hẹp: quản lý thuế là hoạt động quản lý hành chính của Nhà nước về thuế
thông qua việc thực hiện tổ chức, quản lý, điều hành quá trình thu nộp thuế, bao gồm các hoạt
động nghiệp vụ mang tính chất hành chính trong lĩnh vực thuế, là hoạt động chấp hành theo
kế hoạch và trình tự, thủ tục luật định được tiến hành bởi các cơ quan QLT.



Luật QLT 2006 tiếp cận vấn đề QLT theo nghĩa hẹp, Luật không trực tiếp đưa ra khái
niệm QLT mà chỉ nêu gián tiếp thông qua quy định tại Điều 3. Điều 3 Luật QLT quy định,
nội dung QLT bao gồm:
“1. Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế.
2. Thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế.
3. Xoá nợ tiền thuế, tiền phạt.
4. Quản lý thông tin về người nộp thuế.
5. Kiểm tra thuế, thanh tra thuế.
6. Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
7. Xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
8. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.”
QLT được biểu hiện dưới các đặc điểm cơ bản sau:
Một là: chủ thể trong quan hệ QLT bao gồm 2 đối tượng là: đối tượng QLT và đối
tượng chịu sự QLT. Đối tượng QLT rất rộng, đó là mọi tổ chức, cá nhân và Nhà nước.
Tuy nhiên, để đảm bảo thực thi trách nhiệm QLT, Nhà nước trao quyền hạn QLT trực
tiếp cho cơ quan QLT, cụ thể là cơ quan thuế và cơ quan hải quan ( Điều 2 Luật QLT
2006). Đối tượng chịu sự QLT được xác định rất cụ thể tại khoản 1 Điều 2 Luật QLT, đó
là:“ Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế; Tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước (sau đây
gọi chung là thuế) do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật; Tổ
chức, cá nhân khấu trừ thuế; tổ chức, cá nhân làm thủ tục về thuế thay người nộp
thuế”.
Hai là: QLT là hoạt động nhạy cảm, phức tạp, đòi hỏi phải đảm bảo lợi ích của cả
hai bên chủ thể là Nhà nước và người nộp thuế. Nó đòi hỏi cơ quan QLT phải có những
phương thức quản lý linh hoạt, không thể tùy tiện đề ra các quy định mang tính áp đặt,
độc đoán.
Ba là: QLT là hoạt động quản lý bằng pháp luật với các biện pháp nghiệp vụ, biện
pháp hành chính khác, trong đó, pháp luật là công cụ chủ yếu, là chuẩn mực buộc các
chủ thể phải tuân theo.

Bốn là: hiệu quả của công tác QLT phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: ý thức chấp
hành pháp luật thuế, trình độ, năng lực QLT, cơ sở vật chất của ngành thuế, hệ thống thể
chế quản lý kinh tế - xã hội ( quản lý đất đai, đăng kí kinh doanh, chế độ kế toán…).


2. Về pháp luật quản lý thuế:
Trước năm 2006, nước ta chưa có một văn bản thống nhất về QLT nên các quy
định về QLT nằm rải rác trong rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau, gây khó khăn cho
việc thực hiện. Mặt khác, các quy định trùng lặp, chồng chéo nhau, thậm chí mâu thuẫn
nhau khiến cho việc tuân thủ pháp luật thuế chưa được đảm bảo, hơn nữa, quyền hạn,
nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể tham gia QLT chưa được quy định đầy đủ, rõ
rang, ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện công tác QLT, công tác phòng chống, xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật thuế, chống thất thu thuế còn hạn chế.
Luật QLT được Quốc hội biểu quyết thông qua ngày 22/11/2006 và bắt đầu có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 01/07/2007 đã tạo ra khung pháp lý chung để thực thi tất cả các
Luật, pháp luật về thuế và các khoản thu khác khắc phục được tình trạng chia cắt, tách
biệt về phương thức quản lý giữa các loại thuế. Đồng thời, Luật QLT 2006 ban hành
nhằm đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng đơn giản, rõ rang, minh
bạch, dễ thực hiện, tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của Nhà nước, của xã hội trong
việc thực hiện QLT.
Có thể hiểu, pháp luật QLT là tổng hợp các quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động QLT
của Nhà nước, đó là quan hệ quản lý trong việc thu, nộp thuế cho Ngân sách Nhà nước
(NSNN) của các cơ quan Nhà nước đối với các đối tượng nộp thuế và các đối tượng khác
có liên quan.
Xét về tổng thể, pháp luật QLT tập trung chủ yếu vào các nhóm quy định sau:
Một là: các quy định về điều kiện, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế,
trưng thu và hoàn thuế. Đây là những hoạt động quan trọng trong quá trình thực hiện
chức năng quản lý thuế của các cơ quan Nhà nước có thâm quyền. Hiện nay, quy trình
này về cơ bản đã được thay đổi theo hướng giành quyền chủ động tối đa cho người nộp

thuế trong việc tự đăng thuế, tự kê khai, tính thuế và tự nộp thuế cho Nhà nước trên cơ sở
chịu sự kiểm tra, giám sát trực tiếp, thường xuyên của các cơ quan QLT – với tư cách là
người đại diện cho Nhà nước trong hoạt động hành thu thuế.
Hai là: các quy định về thanh tra, kiểm tra thuế và xử lý các vi phạm pháp luật
thuế. Đây là quy định thể hiện rõ nhất vai trò, chức năng quản lý hành chính của Nhà
nước đối với xã hội nói chung và người nộp thuế nói riêng. Trước đây, hoạt động thanh
tra, kiểm tra được thực hiện theo cơ chế “ tiền kiểm ” – tức là trước khi người nộp thuế
thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Hiện nay, cùng với sự cải cách hành chính thuế đã chuyển
đổi từ “tiền kiểm” sang “ hậu kiểm ”, theo đó cơ quan QLT sẽ tiến hành kiểm tra, thanh
tra sau khi người nộp thuế đã thực hiện các thủ tục chính của quá trình QLT như: đăng kí
thuế, hoàn thuế hay xin miến giảm thuế…


Căn cứ vào kết quả thanh tra, kiểm tra, cơ quan thuế có quyền áp dụng các chế tài
xử lý đối với đối với các hành vi vi phạm pháp luật thuế theo luật định.
Ba là: các quy định về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thuế. Tranh chấp về
thuế là những hệ quả khó thể tránh của quá trình quản lý hành chính, đặc biệt là quản lý
hành chính trong lĩnh vực thuế. Sở dĩ như vậy vì các quy định gần đây của Luật thuế có
chiều hướng gia tăng và ngày càng trở nen phức tạp hơn, chính yêu cầu đó đã đặt ra yêu
cầu cho các nhà lập pháp phải thiết lập những cơ chế giải quyết thích hợp đối với các
tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thuế, thông quan đó nhằm đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp cho các bên tham gia quan hệ pháp luật thuế.
II. Thực trạng pháp luật quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay và một số kiến
nghị, giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật quản lý thuế ở nước ta.
1. Thực trạng pháp luật quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay
Sau gần 4 năm Luật QLT đi và thực tiễn cuộc sống, công tác QLT đã có nhiều
chuyển biến tích cực. Các cấp chính quyền, các tổ chức liên quan như: Kho bạc Nhà
nước, Cơ quan Hải quan, các tổ chức tín dụng khác đã nhận thức rõ hơn về trách nhiệm
của mình trong việc trao đổi, cung cấp thông tin phục vụ công Tác quản lý theo Luật
QLT. Theo đánh giá của Tổng cục Hải quan, thực hiện Luật QLT đã đề cao quyền lợi và

nghĩa vụ của người nộp thuế qua việc thực hiện cơ chế tự tính, tự khai, tự nôp thuế và tự
chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nghĩa vụ thuế như đã đề cập ở trên.
Ngay từ khi được triển khai thực hiện trên thực tế nhìn chung ý thức của người nộp thuế
trong việc đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế tốt hơn. Các cơ sở kinh doanh mới được
thành lập đều làm các thủ tục đăng ký thuế kịp thời, chỉ tính riêng 4 tháng (từ tháng 7 đến
tháng 10/2007) đã có 80.738 cơ sở đăng ký thuế mới 1.221 cơ sở kinh doanh xin đóng mã
số thuế, do ngừng hoạt động kinh doanh, giải thể, cũng đã được giải quyết kịp thời.
Theo số liệu tổng hợp 3 tháng đầu triển khai Luật Quản lý thuế, tổng số tờ khai
chậm nộp của thuế GTGT và TTĐB giảm là 18% (trong khi các tháng trước khi triển khai
luật có tỷ lệ trên 20%). Riêng đối với thuế GTGT đã có 25/64 Cục Thuế có tỷ lệ tờ khai
chậm nộp ở mức dưới 10%; trong đó, có một số địa phương có tỷ lệ chậm nộp rất thấp
như: Quảng Ninh 1%, Khánh Hoà 0,4%, TP. Hồ Chí Minh 4,7% (trong các tháng trước,
tỷ lệ này đều ở mức trên 13%). Vi phạm hành chính về hành vi chậm nộp tờ khai đã giảm
hẳn so với trước ngày 1/7/2007 (riêng TP. Hồ Chí Minh số tiền phạt vi phạm hành chính
về hành vi chậm nộp tờ khai giảm 70% so với trước).
Đối với thuế ở khâu xuất, nhập khẩu, các doanh nghiệp đã chủ động kê khai và
kiểm tra việc kê khai thuế và đã khai bổ sung tăng thuế là 187 tờ khai và khai bổ sung làm
giảm số thuế phải nộp là 299 tờ khai. Cơ quan Hải quan đã thực hiện n định thuế đối với


7.027 tờ khai với số tiền thuế n định 414 tỷ đồng, đã kiểm tra phát hiện 4.345 trường hợp
vi phạm về thuế đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu.
Về phía các cơ quan hành thu cũng có những bước chuyển mạnh mẽ. Cơ quan
Quản lý thuế (nội địa) các cấp được tổ chức lại theo mô hình quản lý thuế chủ yếu theo
chức năng; với một số chức năng chủ yếu: tuyên truyền pháp luật thuế và hỗ trợ người
nộp thuế; quản lý kê khai và kế toán thuế; quản lý về nợ và xử lý nợ đọng thuế; kiểm tra,
thanh tra thuế. Thanh tra thuế đã dựa trên cơ sở thu thập thông tin và phân tích thông tin,
đánh giá mức độ tuân thủ và xác định rủi ro, phân loại doanh nghiệp để quyết định thanh
tra từng trường hợp vi phạm pháp hoặc có rủi ro cao. Năm 2007, tổng số doanh nghiệp
toàn ngành thuế đã tiến hành thanh tra và kiểm tra tăng khoảng 25% so với năm 2006

nhưng số thuế truy thu tăng gấp 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2006.
Tổng cục Thuế đã xây dựng bộ máy quản lý nợ, từ Tổng cục đến các Cục, Chi cục
Thuế; đã phân tích được nguyên nhân và tình trạng nợ trong toàn ngành Thuế. Toàn
ngành Thuế triển khai các biện pháp đồng bộ để xử lý dứt điểm nợ cũ, giảm thiểu nợ mới
phát sinh; thống nhất trong toàn ngành việc xử lý nợ chây ỳ, áp dụng các biện pháp cưỡng
chế, để thu hồi nợ. Tính đến hết 30/6/2007 tổng số nợ bao gồm nợ chờ xử lý, nợ được gia
hạn, các khoản nợ không có khả năng thu, xin ý kiến xử lý... chiếm 3,6% trên tổng số
thuế, tính đến thời điểm 30/9/2007 là 3,54% và ước dự tính đến 31/12/2006 chiếm 3,2%
trên tổng số thuế thu NSNN. Cơ quan Thuế và cơ quan Hải quan đã phối hợp với Ngân
hàng, Kho bạc, tổ chức tín dụng trích các khoản tiền thuế doanh nghiệp được hoàn và
trích tiền gửi của doanh nghiệp để nộp trả nợ NSNN. Năm qua tổng số tiền đã trích nộp là
1.816 tỷ đồng.
Đối với ngành Hải quan qua thời gian đầu thực hiện, chuyển biến rõ nhất trong nội
bộ ngành là bước đầu thay đổi nhận thức của công chức hải quan về mối quan hệ giữa thủ
tục quản lý thuế với thủ tục hải quan: quản lý thuế là một khâu gắn liền, thống nhất với
qui trình thực hiện thủ tục hải quan. Kết quả tác động đến người nộp thuế lớn nhất là hoạt
động xuất nhập khẩu diễn ra thuận lợi, không gây ách tắc. Quyền của người nộp thuế
được đề cao, phương thức quản lý thuế của cơ quan hải quan có sự thay đổi cơ bản.
Số liệu tính từ 16/6/2007 đến hết 15/9/2007 cho thấy: Đã tiến hành phúc tập 84%
số tờ khai hải quan; số tiền đã ra quyết định truy thu 17,9 tỷ đồng; số tiền đã thu được là
12,16 tỷ đồng. Các Cục Hải quan đã tổ chức phúc tập đạt tỷ lệ cao, tính bình quân đạt
84% so với số hồ sơ phải phúc tập. Tổng số cuộc kiểm tra sau thông quan là 188 cuộc,
trong đó: kiểm tra tại trụ sở cơ quan hải quan 175 cuộc; tại trụ sở doanh nghiệp 13 cuộc.
Tổng số đã phát hiện được 67 doanh nghiệp vi phạm với số tiền phải truy thu khoảng 24,8
tỷ đồng; số tiền đã truy thu khoảng 24,5 tỷ đồng; số liệu của Tổng cục Hải quan cũng cho
thấy, chỉ có 1.041 tờ khai Hải quan có vi phạm về thủ tục thuế ( chiếm tỉ lệ 0,06%).


Những kết quả trên cho thấy, Luật QLT đã tạo hành lang pháp rõ rang góp phần
nâng cao ý thức của người dân về việc chấp hàn nghĩa vụ thuế. Với nội bộ ngành thuế,

việc áp dụng Luật Quản lý thuế đã tạo điều kiện để cơ quan quản lý thuế các cấp được tổ
chức lại theo mô hình quản lý theo chức năng; Cán bộ công chức thuế được bố trí, sắp
xếp lại, được đào tạo và đào tạo lại để nâng cao trình độ chuyên sâu trong từng lĩnh vực.
Theo đó, về thanh tra thuế, đã dựa trên cơ sở thu thập và phân tích thông tin, đánh giá
mức độ tuân thủ và xác định rủi ro phân loại doanh nghiệp để quyết định việc thanh tra
thuế đối với từng trường hợp có vi phạm pháp luật thuế hoặc có rủi ro về thuế. Việc thực
hiện thanh tra theo quy định của Luật QLT vừa tập trung được nguồn lực để thực hiện
công tác thanh tra đúng đối tượng theo sự phân loại tốt, chưa tốt, dựa trên mức độ tuân
thủ pháp luật, nhằm chống thất thu về thuế có hiệu quả hơn, và đặc biệt không làm phiền
những trường hợp đã thực hiện tốt pháp luật thuế. Kết quả này thể hiện rõ qua con số:
năm 2007, tổng số doanh nghiệp toàn ngành đã tiến hành thanh tra và kiểm tra tăng
khoảng 25% so với năm 2006 nhưng số thuế truy thu tăng gấp 1,3 lần so với cùng kì năm
2006. Đối với chức năng quản lý nợ, trên cơ sở những điều chỉnh của Luật QLT, ngành
thuế đã xây dựng bộ máy quản lý nợ từ trung ương đến địa phương đã phân tích được
nguyên nhân nợ và tình trạng nợ trong toàn ngành, từ đó triển khai các biện pháp đồng bộ
để xử lý dứt điểm nợ cũ, giảm thiểu nợ mới phát sinh, áp dụng các biện pháp cưỡng chế
để thu hồi nợ.
Trong thời gian đầu triển khai thực hiện Luật QLT, sự phối kết hợp giữa cơ quan
thuế với các tổ chức, cá nhân có liên quan bước đầu đã đạt kết quả nhất định trong việc
cung cấp thông tin và quản lý thuế. Theo đó, Tổng cục Thuế và Tổng cục Cảnh sát nhân
dân đã sửa đổi bổ sung để có quy chế phối hợp mới phù hợp với quy định của Luật QLT;
Bộ Tài nguyên Môi trường đã phối hợp xây dựng Thông tư liên tịch về liên thông một
cửa trong việc thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà ở; Bộ Tài chính - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Toà án nhân dân tối cao
phối hợp xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn việc thông báo, gửi, cung cấp thông tin,
tài liệu liên quan đến người phạm tội, cá nhân và tổ chức vi phạm, nhằm đảm bảo phục vụ
cho công tác phòng, chống, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong các lĩnh vực xuất
nhập khẩu, xuất nhập cảnh và quản lý thuế. Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan phối hợp
với ngân hàng xây dựng Thông tư liên tịch về việc cung cấp trao đổi thông tin giữa cơ
quan thuế với ngân hàng và tổ chức tín dụng, nhằm phát hiện nhanh các trường hợp tổ

chức có dấu hiệu mất khả năng thanh toán để ngăn ngừa các hành vi trốn thuế, ngược lại,
khi phát hiện kinh doanh có dấu hiệu phá sản, giải thể, cơ quan thuế chủ động để ngân
hàng kịp thời thu hồi nợ đã cho vay.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, Luật QLT từ khi có hiệu lực cho đến nay, với sự
nỗ lực của toàn ngành tài chính và ngành thuế, sự phối hợp giữa các Bộ, ngành liên quan,
Ủy ban nhân dân các cấp, công tác QLT đã có những chuyển biến tích cực và mang lại
hiệu quả quản lý cao.


Tuy nhiên, bên cạnh nhứng thành tựu đã đạt được thì việc quy định cũng như thực
thi pháp luật QLT vãn còn nhiều tồn tại, bất cập, tạo thành những “ hạt sạn ” trong pháp
luật QLT:
1.1: Những tồn tại, bất cập trong pháp luật QLT:
Thứ nhất, về nguyên tắc thiết kế của Luật QLT, những người thiết kế đã sử dụng
kết hợp đan xen nhiều nguyên tắc nhưng chủ yếu theo nguyên tắc trình tự thời gian, trong
khi đó bộ máy quản lý thuế được thiết kế theo mô hình chức năng. Điều này sẽ dẫn đến
những điểm chưa thực sự tương thích giữa Luật QLT với thực tiễn vận hành của bộ máy
quản lý thuế trong việc tổ chức thực hiện các luật thuế, đặc biệt, khi áp dụng cơ chế quản
lý thuế theo mô hình “một cửa”. Thực tế cho thấy, việc tổ chức bộ máy ngành thuế theo
chức năng dẫn đến bất kỳ bộ phận nào cũng có thể yêu cầu doanh nghiệp trực tiếp làm
việc, giải trình khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế của mình. Song khi cần hướng
dẫn để được giải quyết các nghiệp vụ cụ thể phát sinh, doanh nghiệp không biết liên hệ
đến bộ phận nào và thuộc thẩm quyền trách nhiệm của ai. Vì vậy, doanh nghiệp gặp
những khó khăn nhất định trong quá trình thực thi pháp luật thuế theo luật. Chẳng hạn,
việc lập và nộp hồ sơ khai thuế, các bộ phận có liên quan đều có chức năng kiểm tra hồ sơ
khai thuế của doanh nghiệp. Cụ thể, hồ sơ khai thuế của doanh nghiệp được thực hiện
kiểm tra từ bộ phận một cửa; sau đó chuyển cho bộ phận kê khai và kế toán thuế; sau đó
lại tiếp tục chuyển đến các bộ phận khác có liên quan như bộ phận kiểm tra, thanh tra, ấn
chỉ... mỗi bộ phận đều có quyền yêu cầu doanh nghiệp giải trình, vì vậy một doanh
nghiệp trong một kỳ kê khai có thể nhận được 4-5 thông báo giải trình của cơ quan thuế

nhưng không biết liên hệ đến những bộ phận nào để giải quyết. Hoặc về công tác thu nộp
thuế, Phòng kiểm tra thuế có chức năng thực hiện kế hoạch thu thuế được giao, vì vậy có
trách nhiệm đôn đốc thu thuế. Tuy nhiên, Luật QLT và các văn bản hướng dẫn thi hành
không quy định rõ Phòng kiểm tra thực hiện đôn đốc thu từ ngày nào đến ngày nào,
Phòng thu nợ và cưỡng chế thuế thực hiện từ khâu nào v.v..
Thứ hai, Luật QLT hiện nay không chỉ quy định những vấn đề chung về tổ chức
thực hiện các luật thuế, mà còn quy định cả những nội dung tổ chức thực hiện riêng của
từng luật thuế (những vấn đề quản lý có tính chất đặc thù của từng sắc thuế) và điều đáng
nói là số lượng của các điều luật quy định các nội dung quản lý đặc thù chiếm tỷ lệ khá
nhiều, đặc biệt là các quy định quản lý về thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Vì vậy giả sử rằng,
khi các luật về chính sách thuế được tiếp tục ban hành và đó là xu thế tất yếu thì đương
nhiên kéo theo sự thay đổi, bổ sung của Luật QLT và theo đó, vô hình chung, đã phá vỡ
tính ổn định của Luật QLT.
Thứ ba, Luật QLT còn có các nội dung “lấn sân” phạm vi điều chỉnh của luật về
chính sách thuế. Chẳng hạn khoản 3, khoản 4, Điều 42 của Luật QLT quy định thời hạn
nộp thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu và điều kiện để được áp dụng thời hạn
nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu:


“3.a) Đối với hàng hoá xuất khẩu là ba mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan;
b) Đối với hàng hoá nhập khẩu là hàng tiêu dùng phải nộp xong thuế trước khi nhận
hàng; trường hợp có bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp thì thời hạn nộp thuế không quá
ba mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan; c) Đối với hàng hóa nhập khẩu là vật
tư, nguyên liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu là hai trăm bảy lăm ngày, kể từ ngày
đăng ký tờ khai hải quan; trường hợp đặc biệt thì thời hạn nộp thuế có thể dài hơn hai
trăm bảy lăm ngày phù hợp với chu kỳ sản xuất, dự trữ vật tư, nguyên liệu của doanh
nghiệp theo quy định của Chính phủ; d) Đối với hàng hoá kinh doanh theo phương thức
tạm nhập, tái xuất hoặc tạm xuất, tái nhập là mười lăm ngày, kể từ ngày hết thời hạn tạm
nhập, tái xuất hoặc tạm xuất, tái nhập; đ) Đối với hàng hoá khác là ba mươi ngày, kể từ
ngày đăng ký tờ khai hải quan;

4. Để được áp dụng thời hạn nộp thuế theo quy định tại các điểm c, d, và đ khoản 3 Điều
này, người nộp thuế phải đáp ứng một trong hai điều kiện sau đây:
a) Có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian ít nhất là ba trăm sáu lăm ngày
tính đến ngày đăng ký tờ khai hải quan mà không có hành vi gian lận thương mại, trốn
thuế, không nợ tiền thuế quá hạn, tiền phạt, chấp hành tốt chế độ báo cáo tài chính theo
quy định của pháp luật;
b) Được tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo quy định của Luật Các tổ
chức tín dụng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
Trường hợp không đáp ứng một trong hai điều kiện trên thì người nộp thuế phải nộp thuế
trước khi nhận hàng”.
Những quy định này thực chất thể hiện chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu ở
Việt Nam và đáng lẽ ra phải được “giữ lại” ở Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005.
Thứ tư, Luật QLT chưa xác định rõ cơ chế bảo đảm thực hiện, vì vậy phần nào đã
hạn chế tính khả thi của các quy định trong Luật QLT và chính điều này chưa thực sự
khuyến khích tính tuân thủ pháp luật của chủ thể có nghĩa vụ thuế. Chẳng hạn, tại Điều
53, Luật QLT quy định trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong trường hợp xuất
cảnh “Người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, người nước ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam phải hoàn thành nghĩa vụ
nộp thuế. Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh có trách nhiệm dừng việc xuất cảnh của cá
nhân trong trường hợp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế theo thông báo của cơ quan
quản lý thuế”. Với quy định này, nếu không xác định rõ cơ chế phối kết hợp giữa cơ quan
quản lý thuế và cơ quan công an thì chắc chắn điều luật này sẽ không có tính khả thi, bởi
thực tế hiện nay, Cục thuế địa phương không thể biết đối tượng nào nợ thuế đang chuẩn
bị xuất cảnh để thông báo cho cơ quan quản lý xuất nhập cảnh và ngược lại.


Thứ năm, Luật QLT đã quy định trách nhiệm việc cung cấp các thông tin, tài liệu
của các bên có liên quan cho cơ quan thuế và ngược lại. Tuy nhiên, chỉ cung cấp khi cơ
quan thuế có yêu cầu, vì vậy có rất nhiều thông tin cần thiết nhưng cơ quan thuế không
biết được đầu mối để cung cấp thông tin và yêu cầu cung cấp thông tin. Chẳng hạn, thông

tin về tài khoản ngân hàng của doanh nghiệp, thường các doanh nghiệp mở rất nhiều tài
khoản ở các ngân hàng thuộc các địa phương khác nhau nhưng cơ quan thuế không biết
doanh nghiệp mở tài khoản ở ngân hàng nào để yêu cầu cung cấp. Vì vậy, cần có quy
định cụ thể trách nhiệm của ngân hàng phải thông báo tài khoản của doanh nghiệp cho cơ
quan thuế trực tiếp quản lý khi đăng ký tài khoản.
Bên cạnh đó, chế độ quy định về thanh toán tiền qua ngân hàng chưa được cụ thể
và chặt chẽ, do vậy sẽ khó khăn cho cơ quan thuế khi thực hiện thu nộp thuế qua tài
khoản vì tài khoản không còn số dư tiền gửi.
Thứ sáu, kỹ thuật lập pháp, lập quy trong Luật QLT chưa đảm bảo tính nhất quán,
có điều luật quy định ở dạng nguyên tắc, có điều luật quy định quá chi tiết, cụ thể mà
đáng lẽ ra những nội dung đó thuộc phạm vi điều chỉnh của các văn bản dưới luật; mặt
khác còn khá nhiều quy định trong Luật QLT được chuyển dịch mang tính chất cơ học từ
các luật thuế, Luật Hải quan, vì vậy ít nhiều không tránh khỏi tính chất khiên cưỡng.
Chẳng hạn, điểm a, điểm b, điểm c, khoản 4, Điều 32, Luật QLT quy định về thời hạn
nộp hồ sơ khai thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu:
“4. Đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thì thời hạn nộp hồ sơ khai thuế là thời
hạn nộp tờ khai hải quan:
a) Đối với hàng hoá nhập khẩu thì hồ sơ khai thuế được nộp trước ngày hàng hoá đến
cửa khẩu hoặc trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày hàng hoá đến cửa khẩu. Tờ khai
hải quan có giá trị làm thủ tục về thuế trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày đăng ký;
b) Đối với hàng hoá xuất khẩu thì hồ sơ khai thuế được nộp chậm nhất là tám giờ trước
khi phương tiện vận tải xuất cảnh. Tờ khai hải quan có giá trị làm thủ tục về thuế trong
thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày đăng ký;
c) Đối với hành lý mang theo của người nhập cảnh, xuất cảnh, thuộc diện chịu thuế xuất
khẩu, nhập khẩu, tờ khai hải quan được nộp ngay khi phương tiện vận tải đến cửa khẩu
nhập hoặc trước khi tổ chức vận tải chấm dứt việc làm thủ tục nhận hành khách lên
phương tiện vận tải xuất cảnh. Hành lý gửi trước hoặc sau chuyến đi của người nhập
cảnh được thực hiện theo quy định tại điểm a khoản này”.
Trong trường hợp này, quy định “Tờ khai hải quan có giá trị làm thủ tục về thuế
trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày đăng ký” không chỉ rõ làm thủ tục về thuế là

thủ tục đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế hay quyết toán thuế?


Thứ bảy, một số quy định của pháp luật QLT còn nhiều thiếu sót, hạn chế, gây khó
khăn trong quá trình thực hiện. Chẳng hạn, trong việc nộp thuế, Luật QLT quy định
nhiều thời hạn nộp thuế khác nhau theo các tiêu chí khác nhau, tùy theo mục đích nhập
khẩu hành hóa để sản xuất, xuất khẩu hay tiêu dùng, hay tạm nhâp tái xuất. Quy định này
tuy một mặt đáp ứng được yêu cầu của tình hình thực tế trong điều kiện các doanh nghiệp
còn thiếu vốn nhưng nó quá phức tạp, cơ quan Hải quan phải phân bổ nguồn lực rất lớn
cho công tác đôn đốc, cưỡng chế thu nợ thuê, nợ phạt...
Ngoài ra còn một số quy định trong Luật QLT chưa đảm bảo tính thích ứng với các
luật, thủ tục khác trong một số lĩnh vực hành chính, kinh tế, dân sự, thương mại...
1.2: Những tồn tại, bất cập trong thi hành pháp luật QLT:
Thứ nhất, theo đánh giá của các chuyên gia đầu ngành, cán bộ thuế ở các chi cục
phần lớn chưa được đào tạo lại hoặc chưa nắm bắt kịp về kiến thức quản lý thuế mới nên
còn bỡ ngỡ trong thời gian đầu triển khai thực hiện luật. Theo quy định của Luật QLT,
việc thanh tra thuế phải có thanh tra viên thuế, chuyên viên chính, kiểm soát viên chính
của cơ quan quản lý thuế được thực hiện thanh tra thuế. Tuy nhiên hiện nay các địa
phương số lượng chuyên viên chính, kiểm soát viên chính quá ít nên chưa đủ lực lượng
để tổ chức các đoàn thanh tra thuế.
Thứ hai, đối với người nộp thuế, đặc biệt là các hộ kinh doanh do kiến thức hạn
chế, lại phân tán rộng trên địa bàn khác nhau nên việc tiếp cận theo phương thức quản lý
thuế mới bước đầu còn nhiều khó khăn. Theo các chuyên gia, vướng mắc lớn nhất hiện
nay của cả người nộp thuế và cơ quan thuế là chưa có đủ cơ sở hạ tầng phục vụ việc khai
thuế "điện tử" nên người nộp thuế vẫn phải nộp hồ sơ khai thuế (bản giấy) cho cơ quan
thuế. Tâm lý người nộp thuế nói chung là đợi đến khi gần hết hạn mới nộp hồ sơ do đó có
tình trạng chen chúc tại cơ quan thuế để nộp hồ sơ khai thuế khi sắp đến hạn trong khi đó
bộ phận nhận hồ sơ khai thuế tuy đã được tăng cường nhưng ở một số cơ quan thuế chưa
thể đáp ứng yêu cầu được phục vụ chu đáo của người nộp thuế, có ngày ở những đô thị
lớn phải tiếp nhận đến hàng trăm ngàn bộ hồ sơ khai thuế.

Thứ ba, phương thức thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn phổ biến, thậm chí ngay cả
các doanh nghiệp khi tiến hành thanh toán với nhau họ cũng sử dụng hình thức thanh toán
bằng tiền mặt. Thói quen này đã dẫn đến hoạt động quản lý Nhà nước về tiền tệ rất khó
khăn. Cụ thể, ngân hàng Nhà nước thì khó kiểm soát được khối lượng tiền trong lưu
thông, do vậy, việc đề ra các biện pháp để ổn định giá trị đồng tiền chưa được kịp thời.
Hơn nữa, khi nền kinh tế chủ yếu sử dụng bằng tiền mặt sẽ dẫn đến chi phí in tiền cao,
đồng thời Nhà nước rất khó kiểm soát các quan hệ mua bán hàng hóa diễn ra trên thị
trường. Chính sự bất cập này đã dẫn đến các đối tượng nộp thuế càng có điều kiện để trốn
thuế nhất là hoạt động bán hàng hóa cho người tiêu dùng vì đây là khâu cuối cùng trong
quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp.


Thứ tư: từ khi chúng ta chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thói
quen mua bán hàng hóa phải xuất và lấy hóa đơn hầu như không được người bán và
người mua quan tâm. Khi người tiêu dùng mua hàng hóa, họ chỉ quan tâm đến giá cả và
chủng loại hàng hóa mà họ cần mua, chứ chưa quan tâm đến việc phải có chứng cứ pháp
lý để khiếu kiện khi hàng hóa kém chất lượng hoặc không đúng quy cách đã thỏa thuận.
Trong khi đó hóa đơn mua hàng, ở một số nước phát triển trên thế giới cũng như ở Việt
Nam là bằng chứng pháp lý rất quan trọng để bảo vệ quyền lợi của ngườivi tiêu dùng.
Người tiêu dùng chỉ thấy sự phiền hà khi phải đòi hóa đơn từ người bán mà chưa thấy
được nếu có tờ hóa đơn trong tay thì vấn đề chứng minh hàng hóa đó được mua ở đâu,
trách nhiệm của người bán khi hàng hóa kém chất lượng, hư hỏng.
Thứ năm: việc thực hiện cải cách hành chính thuế ở nước ta còn gặp nhiều khó
khăn do cơ sở hạ tầng còn thấp, thiếu đồng bộ. Mặc dù ngành thuế đề ra mục tiêu thực
hiện chiến lược cải cách hướng tới mô hình thuế hiện đại, chuyên nghiệp theo các chuẩn
mực quốc tế, nhưng mới chỉ ứng dụng được công nghệ thông tin vào việc đăng kí mã số
thuế, xử lý tờ khai và chứng từ, quản lý nội bộ…mô hình thuế hiện tại mới chỉ tự động
hóa ở một số khâu tính thuế và chưa có sự thống nhất quy trình xử lý thông tin các loại
thuế.

Thứ sáu: tình trạng vi phạm pháp luật thuế như: gian lận thuế, trốn lậu thuế, buôn
bán hóa đơn, chứng từ giả ngày càng nghiêm trọng, phức tạp, phổ biến, xảy ra ở nhiều
nơi, trong đó có cả các thành phố có trình độ quản lý cao như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng…
Thứ bảy: đa số người dân chưa hiểu được tầm quan trọng của thuế đối với Nhà
nước và trách nhiệm của họ trong việc thực hiện nghĩa vụ về thuế. Do vậy trong tiềm
thức, người dân cho rằng trốn thuế không có gì là xấu, người ta có thể lên án hành động
trộm cắp tài sản có giá trị vài trăm nghìn đồng nhưng hành động trốn thuế của chủ một
doanh nghiệp tư nhân lại cho là bình thường, điều này cho thấy sự hiểu biết về pháp luật
thuế của người dân chưa cao.
2: Nguyên nhân của những tồn tại bất cập:
Những tồn tại, bất cập trên của pháp luật thuế xuất phát từ một số nguyên nhân
chính sau:
Thứ nhất: pháp luật QLT ơ nước ta mới được đưa vào thực tiễn áp dụng cách đây
không lâu, quá trình kiểm tra, thử nghiệm còn ngắn, kinh nghiệm lập pháp còn nhiều hạn
chế, thiếu sót.


Thứ hai: sự vận động và phát triển của các quan hệ xã hội nhiều khi khiến cho việc
nắm bắt và điều chỉnh chúng gặp nhiều khó khăn, khiến cho các quy định của pháp luật
QLT không đảm bảo được tính ổn định.
Thứ ba: nền kinh tế nước ta còn non trẻ, đang trong giai đoạn phát triển nên việc
xây dựng các chính sách, đường lối phát triển còn chưa đáp ứng được tính khả thi. Hơn
nữa, quan điểm chỉ đạo chung ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực là “ vừa làm vừa rút kinh
nghiệm ”, sau đó sẽ bổ sung, hoàn thiện dần, chính điều đó đã làm cho các chính sách
không theo kịp sự phát triển của các quan hệ xã hội.
Thứ tư: việc đặt ra quá nhiều mục tiêu, thậm chí mục tiêu rất cao đã làm cho pháp
luật thuế ngày càng phức tạp, phải thay đổi thường xuyên để giảm tải gánh nặng, điều đó
nhiều khi làm cho pháp luật QLT mất tính ổn định.
Thứ năm: trình độ và kĩ thuật lập pháp còn thiếu và yếu, giữa các văn bản luật và

dưới luật còn chồng chéo, mâu thuẫn nhau, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự thống nhất
và đông bộ của hệ thống pháp luật.

3. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật thuế ở
nước ta:
Thứ nhất: tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật về thuế theo hướng bao quát,
đơn giản, lâu dài, chiến lược, thích ứng…khi ban hành các chính sách, quy định, cần bảo
đảm tính thống nhất giữa các bộ, ngành, tránh tình trạng “ việc ai nấy làm”.
Thứ hai: Nhà nước cần quy định và phát triển mạnh hệ thống thanh toán qua ngân
hàng. Khi các quan hệ mua bán hàng hóa buộc phải thanh toán qua ngân hàng, Nhà
nước sẽ dễ kiểm soát được thu nhập của các tổ chức, cá nhân cũng như tạo điều kiện
cho cơ quan thuế quản lý tốt đối tượng nộp thuế. Chính vì những lý do trên đây mà pháp
luật nên quy định thống nhất các quan hệ mua bán hàng hóa phải thanh toán thông qua
ngân hàng. Tuy nhiên do đặc thù 70% dân số Việt Nam là ở nông thôn nên trước mắt
chúng ta chỉ quy định bắt buộc đối với những đối tượng cư trú ở vùng thành thị mà thôi.
Để thực hiện được điều này, cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan như
ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Kho bạc Nhà nước, cơ quan thuế. Cụ thể, ngân hàng
Nhà nước Việt Nam cần phải quy định rõ những quan hệ mua bán nào buộc phải thanh
toán qua ngân hàng, Kho bạc Nhà nước cần tiến hành chi trả tiền lương vào tài khoản
của các cá nhân nhận lương từ ngân sách Nhà nước tại ngân hàng. Cơ quan thuế thì phải
quản lý mã số thuế của đối tượng nộp thuế tương ứng với số tài khoản của cá nhân và tổ
chức tại ngân hàng. Sau khi làm thí điểm đối với những đối tượng được Nhà nước trả
lương một thời gian, pháp luật cần quy định tất cả các khoản chi trả tiền lương của các
doanh nghiệp đối với người lao động cũng phải tiến hành chi trả thông qua tài khoản


của các cá nhân tại ngân hàng. Giải pháp này, trước mắt đối với Việt Nam có thể sẽ rất
khó khăn nhưng thiết nghĩ, trước sau gì chúng ta cũng phải làm. Bởi vì thực hiện được
điều này, chúng ta mới có sự thay đổi căn bản phong cách làm việc của hệ thống ngân
hàng Việt Nam, giúp hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể sánh với hệ thống ngân hàng

các nước phát triển.
Thứ ba: hiện nay, một vấn đề đang gây đau đầu cho các nhà quản lý thuế và là
một trong những nguyên nhân chủ yếu gây thất thu cho ngân sách Nhà nước là tình
trạng hóa đơn do Bộ Tài chính phát hành được đem ra bán một cách công khai trên thị
trường. Hành vi này gây thiệt hại lớn cho Nhà nước không chỉ ở góc độ hợp thức hóa
các khoản chi tiêu không đúng chế độ trong các cơ quan bộ máy Nhà nước mà còn tạo
điều kiện cho một số các doanh nghiệp lợi dụng để rút tiền hoàn thuế từ ngân sách Nhà
nước. Trước tình trạng này Bộ tài chính nên hạn chế tối đa việc bán hóa đơn cho các
doanh nghiệp và kiểm soát chặt chẽ cơ chế tự in hóa đơn sau khi đã đăng ký với cơ quan
thuế, nhất là trong điều kiện hiện nay. Khi các doanh nghiệp tự in hóa đơn thì phải có
trách nhiệm đối với số lượng hóa đơn do mình phát hành, nếu để thất thoát thì tự các
doanh nghiệp đó phải có trách nhiệm bồi thường cho Nhà nước. Đồng thời, Bộ tài chính
phải xây dựng định chế quản lý hóa đơn rõ ràng. Cụ thể, đối với các doanh nghiệp phát
hành hóa đơn phải chịu trách nhiệm đối với hóa đơn của mình khi đã phát hành. Người
thụ hưởng hóa đơn có quyền kiểm soát hóa đơn vì đã ủy quyền cho bên bán hàng nộp
thuế thay mình. Cơ quan thuế có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát hóa đơn khi tiến hành
quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Để thực hiện tốt
những đề xuất trên Nhà nước nên có văn bản quy định bảo vệ quyền sở hữu của người
mua hàng có hóa đơn hợp pháp, bằng cách công nhận quyền sở hữu hàng hóa, dịch vụ
của người mua hàng nếu có tranh chấp dân sự xảy ra để tạo ý thức tự kiểm tra, kiểm
soát đối với chứng từ, hóa đơn của doanh nghiệp đã phát hành.
Thứ tư: pháp luật cần quy định rõ chế tài đối với hành vi trốn thuế và hành vi
chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Chúng ta cũng biết rằng, dựa vào tính chất động viên
vào ngân sách Nhà nước, thuế được phân thành hai loại là thuế trực thu và thuế gián thu.
Thuế trực thu là thuế thu trực tiếp vào đối tượng nộp thuế, đối tượng nộp thuế phải trích
một phần thu nhập của mình để nộp vào ngân sách Nhà nước. Còn thuế gián thu là loại
thuế thu gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa và dịch vụ. Đối với sắc thuế này, người bán
sẽ thu hộ Nhà nước từ người mua thông qua giá bán, sau đó có nghĩa vụ nộp vào ngân
sách Nhà nước. Như vậy, với cách phân loại trên đây, nếu đối tượng nộp thuế không
nộp thuế vào ngân sách Nhà nước thì pháp luật không thể đánh đồng hai hành vi này để

cho rằng đều là hành vi trốn thuế. Vì vậy, đối với thuế trực thu, nếu đối tượng nộp thuế
không đóng thuế cho Nhà nước thì có thể coi là hành vi trốn thuế vì người này đã không
trích một phần từ thu nhập của họ để nộp vào ngân sách Nhà nước. Nhưng đối với thuế
gián thu, nếu đối tượng nộp thuế (người bán hàng) đã tiến hành thu thuế thay Nhà nước
thông qua giá cả hàng hóa và dịch vụ mà sau đó không nộp vào ngân sách Nhà nước thì
phải coi đây là hành vi chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Trên thực tế, theo quy định của


pháp luật thì hai hành vi trên đều được coi là hành vi trốn thuế và áp dụng Điều 161 Bộ
luật Hình sự để xác định trách nhiệm hình sự với mức hình phạt cao nhất là 7 năm tù
giam. Quy định này chưa thật sự hợp lý, bởi vì: thứ nhất: chúng ta không thể gộp hai
hành vi khác nhau để đưa vào một tội trong Bộ luật Hình sự; thứ hai: mức hình phạt quy
định đối với các hành vi này là quá nhẹ, không tương xứng với hành vi vi phạm và chưa
đảm bảo được tính răn đe giáo dục đối với loại tội này.
Chính vì những lý do trên đây mà Bộ luật Hình sự nên phân biệt rõ hai loại tội danh trên
đây căn cứ vào hành vi phạm tội như đã phân tích ở trên, đồng thời phải tăng mức hình
phạt đối với loại tội này để đảm bảo tính răn đe và tương xứng với mức độ nguy hiểm
mà hành vi này gây ra đối với Nhà nước và xã hội.
Thứ năm: Nâng cao chất lượng và vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức thuế qua
việc đào tạo, bồi dưỡng có hệ thống, chuyên sâu, chuyên nghiệp với đầy đủ các kĩ năng
cần thiết. đảm bảo thực thi tốt công vụ, tạo môi trường làm việc tốt kết hợp với chế độ đãi
ngộ xứng đáng.
Nâng cao sự tuân thủ, tự nguyện của người nộp thuế bằng việc cung cấp nhanh
chóng, kịp thời, thuận tiện các thông tin về chính sách, thủ tục, ấn phẩm, tài liệu về pháp
luật thuế cho người nộp thuế. Thường xuyên tìm hiểu nhu cầu của người nộp thuế thông
qua các cuộc điều tra, khảo sát xã hội. tăng cường trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức
trong việc phối hợp với cơ quan thuế như: cung cấp thông tin điều tra, xử lý vi phạm, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và các biện pháp hành chính khác để nâng cao hiệu lực, hiệu quả
pháp luật thuế.
Thứ sáu: Tăng cường công tác thanh – kiểm tra thuế nhằm ngăn ngừa phát hiện và

xử lý kịp thời vi phạm pháp luật thuế. Ngành thuế cần tăng cường phối hợp với các cơ
quan pháp luật, cơ quan quản lý thị trường và các ngành khác có liên quan để đấu tranh
chống buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế…
Tăng cường cơ sở vật chất, máy móc trang thiết bị, công nghệ hiện đại để phục vụ
tốt nhất công tác quản lý thuế. Thực hiện công tác quản lý thuế theo mô hình thuế điện tử,
trang bị hệ thống máy tính hiện đại với các ứng dụng công nghệ thông tin nhằm quản lý
thuế, tư vấn thuế, các dịch vụ hỗ trợ các đối tượng nộp thuế.
Thứ bảy: Tuyên truyền, giáo dục pháp luật theo hướng đa dạng hóa việc sử
dụng các phương tiện truyền thông làm cho tất cả các đối tượng nộp thuế có thể nắm bắt
nội dung pháp luật một cách nhanh chóng, đầy đủ. Khuyến khích các hoạt động tư vấn,
cung cấp các dịch vụ về thuế, kiểm toán, giúp cho các đối tượng nộp thuế hiểu rõ các quy
định của pháp luật về thu.


KẾT BÀI
Hoàn thiện những quy định của pháp luật về quản lý thuế là yêu cầu cấp thiết hiện
nay, bởi nếu hệ thống pháp luật còn bất cập, không đảm bảo công bằng về nghĩa vụ đóng
góp của các chủ thể trong xã hội sẽ dẫn đến bất công. Có một hệ thống pháp luật thuế
hoàn thiện và công bằng cũng như cơ chế quản lý thuế thích hợp sẽ giúp cho các chủ thể
trong xã hội nhận thức được rằng thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước vừa là
quyền vừa là nghĩa vụ, số thu từ thuế sẽ hoàn trả gián tiếp cho người dân thông qua việc
xây dựng các công trình công cộng, đảm bảo các lợi ích về mặt xã hội và phát triển tích
lũy cho nền kinh tế.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, “ Giáo trình Luật thuế Việt Nam”, Nxb. Tư pháp,
Hà Nội, 2010.
2. Luật Quản lý thuế 2006.

3. Nghị định số 85/2007/NĐ/CP của chính phủ ngày 25/5/2007 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật quản lý thuế
4. Thông tư số 60/2007/TT/BTC của Bộ Tài Chính ngày 14/6/2007 hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật quản lý thuế và hướng dẫn thi hành một số điều của nghị định
số 85/2007/NĐ/CP của chính phủ ngày 25/5/200.
5. Thông tư 85/2007/TT/BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật quản lý
thuế về việc đăng ký thuế.
6. Luật xuất, nhập khẩu 2005.
7. “Luật Quản lý thuế - vẫn có những kẽ hở lách thuế”, theo vietbao.vn.
8. “Luật quản lý thuế và những vấn đề cần bàn thêm”, T.S Nguyễn Thị Thương
Huyền, Giảng viên Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
9. “Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về Quản lý
thuế ở Việt Nam”, Th.S Nguyễn Thị Thủy, Giảng viên Trường Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh.
10. Một số website tham khảo:
www.dbnd.vn;
www.luatcongminh.com;
www.vietbao.vn;
www.vietnamnet.vn.


MỤC LỤC

Trang
1

MỞ ĐẦU

NỘI DUNG


I. Khái quát chung về quản lý thuế và và pháp luật quản lý thuế.

1

1. Về pháp luật thuế.

1

2. Về pháp luật quản lý thuế.

3

II. Thực trạng pháp luật quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay và một
số kiến nghị, giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật quản lý thuế ở
nước ta.
1. Thực trạng pháp luật quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay
1.1: Những tồn tại, bất cập trong pháp luật QLT.
1.2: Những tồn tại, bất cập trong thi hành pháp luật QLT.
2. Nguyên nhân của những tồn tại bất cập.
3. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp
luật thuế ở nước ta.

KẾT LUẬN

4

4
7
10
11

12

15



×