Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.26 KB, 23 trang )

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I .KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC
TỔ CHỨC TÍN DỤNG.
1. Khái niệm cho vay của tổ chức tín dụng
Cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện trong xã hội loài
người có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Trong pháp luật dân sự,
hiểu theo nghĩa chung nhất, cho vay là việc một người thỏa thuận để cho người
khác được sử dụng tài sản của mình trong một thời hạn nhất định với điều kiện
có hoàn trả, dựa trên cơ sở sự tín nhiệm của mình với người đó.
Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước tại điều 3 khoản 1“ Cho vay là một hình thức cấp tín
dụng ,theo đó Tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để
sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có
hoàn trả cả gốc và lãi.”
Vậy ta có thể định nghĩa hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng như sau:
Cho vay là một trong những hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng,
theo đó tổ chức tín dụng sẽ chuyển giao cho bên vay (khách hàng) một khoản
vốn tiền tệ, bên vay sẽ sử dụng khoản vốn tiền tệ đó trong một khoảng thời gian
nhất định, sau đó sẽ hoàn trả cho tổ chức tín dụng cả gốc và lãi theo hoả thuận.
2. Đặc điểm hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng:
Ngoài những dấu hiệu chung của quan hệ cho vay, hoạt động cho vay của
tổ chức tín dụng còn thể hiện ở những dấu hiệu có tính đặc thù sau:
Việc cho vay của tổ chức tín dụng là hoạt động nghề nghiệp kinh doanh
mang tính chức năng. Các tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng cũng có
thể thực hiện việc cho vay đối với khách hàng như một hoạt động kinh doanh
nhưng hoạt động cho vay của tổ chức này hoàn toàn không phải là nghề nghiệp
kinh mang tính chức năng.
• Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng là một nghề kinh doanh có điều
kiện, thể hiện ở chỗ hoạt động cho vay chuyên nghiệp của tổ chức tín dụng phải
thỏa mãn một số điều kiện nhất định như phải có vốn pháp định, phải được
Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động ngân hàng trước khi tiến hành


việc đăng ký kinh doanh theo luật định.


Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ngoài sự điều chỉnh của pháp luật
về hợp đồng còn chịu sự điều chỉnh, chi phối của các đạo luật về Ngân hàng, kể
cả tập quán thương mại về ngân hàng.


3. Phân loại cho vay của tổ chức tín dụng:
Với sự phát triển không ngừng và đa dạng hóa nhiều hoạt động ngân hàng
hiện nay, trong thực tế có rất nhiều hình thức cho vay mà mỗi một tổ chức tín
dụng đã tự xây dựng nên. Ở đây chúng ta chỉ đưa ra một số loại dựa vào những
căn cứ sau đây:
1




Căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn vay:

Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng đối với
khách hàng với thời hạn sử dụng vốn vay do các bên thỏa thuận là một năm.
Hình thức này chủ yếu đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động của khách hàng trong
hoạt động kinh doanh hoặc thỏa mãn nhu cầu về tiêu dùng của khách hàng trong
một thời hạn ngắn.
Cho vay trung và dài hạn: hình thức này khác cho vay ngắn hạn là với thời
gian thỏa thuận là từ trên một năm trở lên. Người đi vay sử dụng hình thức này
để thỏa mãn nhu cầu mua sắm tài sản cố định trong kinh doanh, thỏa mãn nhu
cầu sinh hoạt, tiêu dùng như mua sắm nhà ở, phương tiện đi lại…



Căn cứ vào tính chất có bảo đảm của khoản vay:

Cho vay có bảo đảm bằng tài sản: là hình thức cho vay trong đó nghĩa vụ
trả nợ tiền vay được bảo đảm bằng tài sản của bên vay hoặc của người thứ ba.
Việc cho vay này phải được bảo đảm dưới hình thức ký kết cả hai loại hợp đồng,
bao gồm hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay (hợp đồng cầm cố,
hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh). Pháp luật cũng cho các bên có thể thỏa
thuận lập một hợp đồng nên trong trường hợp này các thỏa thuận về bảo đảm
tiền vay được xem là một bộ phận hợp thành của hợp đồng có bảo đảm bằng tài
sản.
Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: là hình thức cho vay trong đó
nghĩa vụ hoàn trả tiền vay không được bảo đảm bằng các tài sản cụ thể, xác định
của khách hàng vay hoặc của -người thứ ba. Thông thường các bên chỉ giao kết
một hợp đồng duy nhất là hợp đồng tín dụng. Trong trường hợp tổ chức tín dụng
cho vay có bảo đảm bằng tín chấp thì vẫn phải xác lập một văn bản cam kết bảo
lãnh bằng uy tín của mình và gửi cho tổ chức tín dụng để khách hàng vay có thể
được tổ chức tín dụng chấp nhận cho vay.


Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:

Cho vay kinh doanh: là hình thức cho vay trong đó các bên cam kết số tiền
vay sử dụng vào mục đích thực hiện các công việc kinh doanh của mình. Nếu
bên vay vi phạm sử dụng vào những mục đích khác thì bên cho vay có quyền áp
dụng các chế tài thích hợp như đình chỉ việc sử dụng vốn vay hoặc thu hồi vốn
vay trước thời hạn…
Cho vay tiêu dùng: bên tham gia vay cam kết số tiền vay sẽ được sử dụng
vào việc thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hay tiêu dùng như mua sắm đồ gia dụng,
mua sắm nhà cửa hoặc phương tiện đi lại, hay sử dụng vào mục đích học tập…

II.CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY
VỐN CỦA CÁC TCTD ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG :
1. Quy trình cho vay vốn của các TCTD
Quy trình cho vay vốn là tổng hợp các bước cụ thể từ khi tiếp nhận nhu cầu
vay vốn của khách hàng cho đến khi TCTD quyết định cho vay , giải ngân và
2


thanh lý hợp đồng tín dụng. Dựa trên những điều kiện của mình thì các TCTD sẽ
tự thiết kế những quy trình cho vay cụ thể ,bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau:
lập hồ sơ xin vay vốn, phân tích điều kiện, quyết định tín dụng, giải ngân, giám
sát và thanh lý tín dụng. Theo Khoản 1 điều 14 Quyết định 1627/2001/QĐNHNN : “Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho tổ chức tín dụng giấy đề
nghị vay vốn và các tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều kiện vay vốn như quy
định tại Điều 7 Quy chế này. Khách hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
về tính chính xác và hợp pháp của các tài liệu gửi cho tổ chức tín dụng.”
Thẩm định hồ sơ tín dụng là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ pháp
lý do TCTD thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay vốn đối với bên vay,
trên cơ sở đó mà quyết định cho vay hay không. Trong thực tế giao dịch ngân
hàng, việc thẩm định hồ sơ tín dụng thường do các nhân viên chuyên trách của
tổ chức tín dụng thực hiện và kết thúc bằng việc lập báo cáo thẩm định hồ sơ tín
dụng. Báo cáo này được trình lên cho người quản lý có thẩm quyền của tổ chức
tín dụng quyết định về việc có cho vay hay không. Do tính đặc biệt quan trọng
của giai đoạn này trong cả quá trình từ cho vay đến thu nợ nên pháp luật đòi hỏi
bên cho vay là TCTD phải triệt để tuân thủ nguyên tắc bảo đảm tính độc lập,
phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới giữa khâu thẩm
định và khâu quyết định cho vay. Khoản 1 Điều 15 Quyết định 1627/2001/QĐNHNNVề việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng : ” Tổ chức tín dụng xây dựng quy trình xét duyệt cho vay theo nguyên tắc
bảo đảm tính độc lập và phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm
giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay”.
Việc thiết lập và không ngừng hoàn thiện quy trình cho vay của các TCTD

có ý nghĩa hết sức quan trọng .Xây dựng một quy trình cho vay hợp lý sẽ góp
phần nâng cao chất lượng ,giảm thiểu rủi ro trong khi cho vay .Hơn nữa,quy
trình cho vay còn là cơ sở cho việc thiết lập các thủ tục ,hồ sơ vay vốn về mặt
hành chính,và thủ tục pháp lý quan trọng đó là thiết lập HĐTD.
2. Hợp đồng tín dụng
Sau khi ra quyết định chấp thuận cho khách hàng vay vốn các TCTD sẽ
hướng dẫn khách hàng ký kết HĐTD. Theo quy định tại điều 17 của Quyết định
1627/2001/QĐ-NHNN” Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng vay
phải được lập thành hợp đồng tín dụng...”.
a. Khái niệm hợp đồng tín dụng:
Hợp đồng tín dụng là là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng
(bên cho vay) với khách hàng (bên vay, tổ chức, cá nhân) nhằm xác lập quyền
và nghĩa vụ nhất định giữa các bên theo quy định của pháp luật, theo đó tổ chức
tín dụng (bên cho vay) chuyển giao một khoản vốn tiền tệ cho khách hàng (bên
vay) sử dụng trong một thời hạn nhất định với điều kiện khách hàng sẽ hoàn trả
khoản tiền đó (tiền gốc) và lãi vay sau một thời gian nhất định.
b. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng:
3




Hợp đồng tín dụng phải được lập dưới hình thức bằng văn bản.

Nội dung hợp đồng thể hiện sự đồng ý giữa bên cho vay chấp nhận cho
bên vay sử dụng một số tiền của mình trong thời hạn nhất định, với điều kiện có
hoàn trả dựa trên sự tín nhiệm.


Về chủ thể: bên cho vay bắt buộc phải là tổ chức tín dụng, có đủ điều kiện

luật định, còn bên vay có thể là tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện vay vốn do
pháp luật quy định. Đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền, bao
gồm tiền mặt và bút tệ.


Hợp đồng tín dụng chứa đựng rất nhiều rủi ro cho quyền lợi của bên cho
vay. Nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn.


Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ: nghĩa vụ chuyển giao tiền vay của
bên cho vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước để làm cơ sở và tiền đề cho
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay.


3. Các nội dung cơ bản của HĐTD
3.1 Chủ thể của hợp đồng tín dụng:
Trong giao dịch tín dụng ,chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng bao gồm bên
cho vay (các TCTD) và bên vay (các tổ chức ,cá nhân có đủ các điều kiện do
pháp luật quy định ).Các chủ thể này khi tham gia giao dịch hợp đồng tín dụng
cần phải thỏa mãn những điều kiện nhất định theo sự dự liệu của pháp luật .Việc
quy định các điều kiện chủ thể đối với bên vay và bên cho vay không chỉ nhằm
tạo cơ sở pháp lý cho sự đánh giá hiệu lực của hợp đồng tín dụng .,mà còn góp
phần năng cao kỹ năng giao kết hợp đồng tín dụng cũng như củng cố kỷ luật
hợp đồng đối với các chủ thể tham gia giao dịch tín dụng .
a. Bên cho vay:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, một tổ chức tín dụng muốn trở
thành chủ thể cho vay trong hợp đồng tín dụng phải thoả mãn các điều kiện sau:


Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp.

Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y.



Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp.



Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín
dụng với khách hàng.


Đối với tổ chức không phải là tổ chức tín dụng (TCTD), muốn trở thành
chủ thể cho vay trong hoạt động tín dụng (HĐTD) thì chỉ cần thoả mãn các điều
kiện như có giấy phép hoạt động ngân hàng, có giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh và có người đại diện hợp pháp. Trong giấy phép hoạt động ngân hàng và
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của loại tổ chức này phải ghi rõ hoạt động
cho vay là hoạt động ngân hàng đươc phép thực hiện.
b. Bên vay:
4


Bên vay là tổ chức, cá nhân phải thoả mãn các điều kiện sau (về nguyên
tắc, những điều kiện này có tính chất bắt buộc chung với mọi chủ thể đi vay
trong mọi hợp đồng tín dụng):
Bên vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với tổ
chức là pháp nhân hay không phải là pháp nhân thì phải có người đại diện hợp
pháp có đủ năng lực và thẩm quyền đại diện cho tổ chức đó khi ký kết hợp đồng
tín dụng.
• Mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp.



Ngoài ra bên vay còn có một số điều kiện chung sau (những điều kiện này
chỉ có tính bắt buộc phải thỏa mãn đối với bên vay khi chúng được các bên thoả
thuận rõ trong hợp đồng tín dụng):



Bên vay có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Bên vay có phương án sử dụng vốn khả thi, hiệu quả.

Bên vay có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh bằng tài sản của
người thứ ba trên cơ sở hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo
lãnh.
3.2 Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng tín dụng:
a. Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay
“Yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án đầu tư, phương
án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời
sống khả thi, khả năng tài chính của mình và của người bảo lãnh trước khi
quyết định cho vay. Từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu thấy không đủ
điều kiện vay vốn, dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn không có hiệu quả,
không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc tổ chức tín dụng không có đủ
nguồn vốn để cho vay”.Tiền gửi là bộ phận quan trọng nhất trong tài sản Nợ của
từng Tổ chức tín dụng, hoạt động kinh doanh tín dụng của các Tổ chức tín dụng
chủ yếu bằng vốn của người khác tức là chủ yếu bằng tiền gửi mà các Tổ chức
tín dụng đã huy động được;do đó chúng ta vẫn thường nói các Tổ chức tín dụng
kinh doanh bằng cách “đi vay để cho vay” hay kinh doanh trên sự kinh doanh
của người khác. Việc cho vay và đầu tư của các Tổ chức tín dụng luôn gắn liền
với rủi ro. Do đó, thực hiện tốt việc thẩm tra tính xác thực của các tài liệu sẽ có
ý nghĩa hết sức to lớn ,ảnh hưởng tới hoạt động của các Tổ chức tín dụng.Vì

vậy, khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, hay vi phạm hợp
đồng .. thì Tổ chức tín dụng được quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước
hạn hoặc khởi kiện khách hàng hoặc người bảo lãnh vi phạm hợp đồng tín dụng
theo quy định của pháp luật.
Nghĩa vụ chuyển giao tiền vay đầy đủ, đúng thời hạn và địa điểm cho
khách hàng vay sử dụng (nghĩa vụ giải ngân).Nghĩa vụ này phát sinh do việc
bên cho vay đã cam kết cho khách hàng vay được sử dụng số tiền của mình
trong thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả.Nếu bên cho vay vi phạm
nghĩa vụ này (nghĩa vụ giải ngân) như giải ngân chậm hoặc không chịu giải
5


ngân theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thì vấn đề trách nhiệm pháp lý của
họ là như thế nào? với hiện trạng pháp luật hiện hành ở Việt Nam, trong trường
hợp đó bên vay được coi là vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, vì thế có trách nhiệm
phải bồi thường các thiệt hại vật chất đã xảy ra cho bên vay. Ngoài ra bên cho
vay còn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình như đã cam kết, trừ trường
hợp cả hai bên cùng thoả thuận chấm dứt hợp đồng tín dụng trước thời hạn.
Nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay và trả nợ của khách hàng.
“Tổ chức tín dụng xây dựng quy trình và thực hiện kiểm tra, giám sát quá trình
vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng phù hợp với đặc điểm hoạt
động của tổ chức tín dụng và tính chất của khoản vay, nhằm bảo đảm hiệu quả
và khả năng thu hồi vốn vay; gửi quy trình kiểm tra giám sát vốn vay của khách
hàng cho Thanh tra Ngân hàng Nhà nước.”.
Quyền yêu cầu bên vay hoàn trả tiền vay đúng thoả thuận, kể cả tiền phạt,
tiền bồi thường thiệt hại (nếu có).” Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả
nợ, nếu các bên không có thoả thuận khác, thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý
tài sản bảo đảm vốn vay theo sự thoả thuận trong hợp đồng để thu hồi nợ theo
quy định của pháp luật hoặc yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh đối với trường hợp khách hàng được bảo lãnh vay vốn; Miễn, giảm lãi vốn

vay, gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ thực hiện theo quy định tại Quy chế này;
mua bán nợ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và thực hiện việc
đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”.
b. Quyền và nghĩa vụ của bên vay
Với tư cách là người hưởng tín dụng, đồng thời là con nợ trong quan hệ cho
vay, bên vay có những quyền và nghĩa vụ cơ bản sau đây:
Quyền từ chôí các yêu cầu không hợp lý của tổ chức tín dụng khi kết, thực
hiện và thanh lý hợp đồng tín dụng.
Quyền năng này được pháp luật quy định nhằm tạo cho khách hàng vay khả
năng chống lại các yêu cầu rõ ràng là không hợp lý của TCTD, có thể gây ra
những bất lợi cho họ nếu buộc phải thoả mãn các yêu cầu này, ví dụ khách hàng
vay có quyền từ chối cung cấp thông tin và hoạt động kinh doanh của mình
nhưng rõ ràng là không liên quan gì đến việc sử dụng vốn và hoàn trả vốn vay
cho tổ chức tín dụng…
Quyền khiếu nại, khởi kiện việc từ chối cho vay không có căn cứ hoặc các
vi phạm HĐTD của TCTD.
Đây là một quyền năng pháp định, với mục tiêu nhằm bảo vệ lợi ích hợp
pháp của khách hàng vay trước những hành vi không có căn cứ hợp pháp của tổ
chức tín dụng. Tuy nhiên, nếu pháp luật cho phép khách hàng vay được quyền
đệ đơn khiếu nại đối với tổ chức tín dụng nhận hồ sơ vay vốn, chỉ vì lý do họ đã
từ chối cho vay không có căn cứ thì rõ ràng không hợp lý, bởi lẽ như vậy nghĩa
là pháp luật đã tước đi một quyền năng nghĩa vụ cơ bản nhất của người kinh
doanh đó là quyền tự do kinh doanh, trong đó có quyền tự định đoạt việc cho
vay hay không đối với khách hàng. Với quy định này, nếu tổ chức tín dụng
6


muốn từ chối cho vay đối với một khách hàng thì họ bắt buộc phải đưa ra các
căn cứ hay lý do chính đáng để từ chối.

Quyền yêu cầu bên cho vay thực hiện nghĩa vụ giải ngân đúng thoả thuận
trong HĐTD.
Quyền năng này của bên vay cũng chính là nghĩa vụ của bên cho vay, đều
phát sinh trên cơ sở các điều khoản của hợp đồng tín dụng. Do có quyền này mà
bên vay được yêu cầu bên cho vay trả tiền bồi thương thiệt hại đã xảy ra cho
mình, trong trường hợp bên cho vay không thực hiện đúng nghĩa vụ giải ngân
theo thoả thuận mà gây thiệt hại.
Nghĩa vụ sử dụng tiền vay hiệu quả đúng mục đích đã thoả thuận trong
HĐTD.
Nghĩa vụ này phát sinh do điều khoản về mục đích sử dụng vốn vay đã
được ghi trong HĐTD, nhằm đặt cho người vay tình trạng bị kiểm tra, giám sát
thường xuyên bởi người cho vay. Tuy nhiên, nghĩa vụ này sẽ không cản trở
người vay áp dụng các biện pháp nhằm đem lại tính hiệu quả cho phương án sử
dụng vốn của mình như được quyền lựa chọn mô hình công nghệ thích hợp nhất
để đầu tư, lựa chọn loại vật tư, nguyên liệu trong nước hay nhập khẩu để mua
sắm bằng nguồn vốn tín dụng được cấp… Ngoài ra, hậu quả pháp lý của việc
bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ này là họ sẽ bị bên cho vay đình chỉ việc
sử dụng vốn hoặc bi thu hồi vốn vay trước thời hạn, sau khi đã được bên cho
vay nhắc nhở bằng văn bản.
Nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi, trả tiền phạt vi phạm HĐTD và
tiền bồi thường thiệt hại cho bên cho vay (nếu có).
Đây là một trong những nghĩa vụ chính yếu của bên vay, phát sinh trên cơ
sở hợp đồng tín dụng hoặc phát sinh trên cơ sở phán quyết đã có hiệu lực pháp
luật của cơ quan tài phán có thẩm quyền. Thông thường, nghĩa vụ hoàn trả tiền
vay cả gốc và lãi sẽ phát sinh khi HĐTD bắt đầu có hiệu lực và chúng phải
được bên vay thực hiện khi thời hạn sử dụng vốn vay đã hết. Còn nghĩa vụ trả
tiền phạt vi phạm hợp đồng hay bồi thường thiệt hại thì chỉ phát sinh khi xảy ra
sự vi phạm hay sự thiệt hại mà các bên đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng,
hoặc phát sinh do một phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Toà án hay trọng
tài. Về nguyên tắc, các nghĩa vụ này của bên vay sẽ chấm dứt khi nào chúng đã

được bên vay thực hiện xong trên thực tế.
3.3 Hình thức của hợp đồng tín dụng:
- Theo quy định tại Điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, mọi hợp đồng tín
dụng đều phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý. Sở dĩ pháp
luật quy định như vậy là vì những ưu điểm sau đây:
- Hợp đồg tín dụng được ký kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng chứng cụ
thể cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng tín dụng.
- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự công bố
công khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý giữa những người lập ước để cho
người thứ ba biết rõ về việc lập ước đó mà có những phương cách xử sự hợp lý,
an toàn trong trường hợp cần thiết.
7


- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản mới có thể khiến cho các cơ
quan có trách nhiệm của chính quyền thi hành công vụ được tốt hơn.
Theo quy định hiện hành, văn bản hợp đồng tín dụng được hiểu bao gồm
văn bản viết và văn bản điện tử. Hợp đồng tín dụng được xác lập thông qua
phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng
văn bản. Các hợp đồng điện tử được coi là có giá trị pháp lý như văn bản hợp
đồng viết và có giá trị chứng cứ trong quá trình giao dịch.
3.4 Nội dung của hợp đồng tín dụng:
Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên
có đủ tư cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và phù
hợp với pháp luật. Các điều khoản này vừa thể hiện ý chí của các bên, đồng thời
cũng làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mỗi bên tham
gia hợp đồng tín dụng.
Theo quy định tại điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, nội dung của hợp
đồng tín dụng bao gồm các điều khoản cơ bản sau đây:

- Điều khoản về điều kiện vay vốn. Khi thỏa thuận điều khoản này, các bên
cần ghi rõ trong hợp đồng tín dụng những tiêu chuẩn cụ thể mà bên vay phải
thỏa mãn thì hợp đồng tín dụng mới có hiệu lực.
- Điều khoản về đối tượng hợp đồng. Trong điều khoản này, các bên phải
thỏa thuận về số tiền vay, lãi suất cho vay, tổng số tiền phải trả khi hợp đồng tín
dụng đáo hạn.
- Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay. Các bên phải ghi rõ trong hợp
đồng tín dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ
ngày ký hợp đồng. Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước
về khả năng này trong hợp đồng tín dụng, còn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thỏa
thuận sau trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng.
- Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay. Đây là một điều khoản
rất quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến việc thu hồi vốn và lãi cho vay. Vì
thế, các bên phải thỏa thuận rõ ràng số tiền vay sẽ được hoàn trả dần hàng tháng
(trả góp) hay là trả toàn bộ một lần khi hợp đồng vay đáo hạn. Nếu khoản vay
được thỏa thuận thanh toán theo từng kỳ hạn thì các bên cũng có thể dự liệu
trước về khả năng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho phù hợp với khả năng tài chính
của bên vay khi trả nợ.
- Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay. Trong điều khoản này, các bên
cần ghi rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì. Việc thỏa thuận điều khoản
này trong hợp đồng tín dụng được xem như một giải pháp đảm bảo sự an toàn về
vốn cho người đầu tư là các tổ chức tín dụng, nhằm tránh trường hợp bên vay sử
dụng vốn một cách tùy tiện vào mục đích phiêu lưu, mạo hiểm. Mặt khác, để
bảo đảm lợi ích của cả hai bên và đảm bảo cho đồng vốn đầu tư được sử dụng
hiệu quả, pháp luật cũng cho phép trong thời gian sử dụng vốn, các bên có
quyền thỏa thuận lại về mục đích sử dụng vốn vay mỗi khi xét thấy thời cơ và
điều kiện sử dụng vốn đã thay đổi.
- Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Đây là điều
khoản mang tính chất thường lệ, theo đó các bên có quyền thỏa thuận về biện
8



pháp giải quyết tranh chấp bằng con -đường thương lượng, hòa giải hoặc lựa
chọn cơ quan tài phán sẽ giải quyết tranh chấp cho mình. Nếu trong hợp đồng
tín dụng không ghi điều khoản này, có nghĩa là các bên không thỏa thuận thì
việc xác định thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
tín dụng đó sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, nếu hợp đồng tín dụng được giao kết có điều kiện bảo đảm bằng
tài sản như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì các bên có thể thỏa thuận một điều
khoản riêng rẽ nằm trong hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính), hoặc lập thành
một hợp đồng phụ đính kèm theo hợp đồng chính.
3.5 Giao kết hợp đồng tín dụng:
Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất kỹ thuật nghiệp
vụ – pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao kết hợp
đồng tín dụng bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau đây:
- Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do một bên thực
hiện dưới hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia, với nội dung thể hiện ý
chí mong muốn được giao kết hợp đồng tín dụng.
- Thông thường, bên đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là các tổ chức, cá
nhân có nhu cầu vay vốn và văn bản đề nghị chính là đơn xin vay, được gửi kèm
theo các giấy tờ, tài liệu chứng minh tư cách chủ thể và khả năng tài chính hay
phương án sử dụng vốn vay. Các tài liệu này do bên vay gửi cho tổ chức tín
dụng để xem xét, thẩm định và được coi như bằng chứng đề nghị giao kết hợp
đòng tín dụng.
Thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng ở Việt Nam trong những năm gần đây
cho thấy, có nhiều trường hợp bên chủ động giao kết hợp đồng tín dụng lại
chính là tổ chức tín dụng chứ không phải là khách hàng, nhằm tăng cường khả
năng cạnh tranh và mở rộng thị trường tín dụng. Những tổ chức tín dụng đã từng
đi tiên phong trong việc lựa chọn phương thức này chính là các ngân hàng cổ
phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.

Trong trường hợp này, văn bản đề nghị là thư chào mời được tổ chức tín dụng
gửi cho tổ chức, cá nhân có khả năng tài chính mạnh, có uy tín trên thương
trường và có nhu cầu vay vốn thường xuyên (gọi là những khách hàng tiềm
năng) mà tổ chức tín dụng lựa chọn là bên đối tác. Trong thư chào mời, bên đề
nghị (tổ chức tín dụng) thường đưa ra những điều kiện có tính chất tổng quát
nhất kèm theo những ước khoản cụ thể để cho bên kia xem xét chấp nhận. Tuy
nhiên, do một thư chào mời có thể không nhất thiết phải là một văn bản dự thảo
hợp đồng nên trong thực tế, nếu bên tiếp nhận thư chào mời có hành vi chấp
nhận toàn bộ nội dung của thư chào mời đó thì không vì thế mà hợp đồng tín
dụng được coi là đã hình thành.
- Thẩm định hồ sơ tín dụng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín
dụng:
Thẩm định hồ sơ tín dụng: là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ –
pháp lý do tổ chức tín dụng thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay vốn đối
với bên vay, trên cơ sở đó mà quyết định cho vay hay không. Do tính đặc biệt
quan trọng của giai đoạn này trong cả quá trình từ cho vay đến thu nợ nên pháp
9


luật đòi hỏi bên cho vay là tổ chức tín dụng phải triệt để tuân thủ nguyên tắc
đảm bảo tính độc lập, phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên
đới giữa khâu thẩm định và khâu quyết định cho vay. Sau khi đã thẩm định hồ
sơ tín dụng của khách hàng, bên cho vay có toàn quyền quyết định việc chấp
nhận hoặc từ chối cho vay. Trong trường hợp từ chối cho vay, tổ chức tín dụng
phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản và phải nêu rõ lí do từ chối cho
vay. Việc từ chối cho vay không có căn cứ xác đáng có thể là lí do để khách
hàng thực hiện hành vi đối kháng với tổ chức tín dụng theo quy định của pháp
luật.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do bên
nhận đề nghị thực hiện dưới hình thức một văn bản chính thức gửi cho bên kia

với nội dung thể hiện sự đồng ý giao kết hợp đồng tín dụng. Theo đó, hành vi
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng chỉ có giá trị như một lời tuyên bố
đồng ý ký kết hợp đồng chứ không thể thay thế cho việc giao kết hợp đồng giữa
các bên. Có nghĩa là việc giao kết hợp đồng tín dụng chỉ được xem là hoàn
thành sau khi các bên đã trải qua giai đoạn thương lượng, đàm phán trực tiếp các
điều khoản của hợp đồng (bao gồm các điều khoản chủ yếu, điều khoản thường
lệ, điều khoản tùy nghi) và người đại diện có thẩm quyền của các bên đã trực
tiếp ký tên vào bản hợp đồng tín dụng.
- Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng: Đây là giai đoạn cuối
cùng, cũng là giai đoạn trọng tâm của quá trình giao kết hợp đồng tín dụng.
Trong giai đoạn này, các bên gặp nhau để đàm phán các điều khoản của hợp
đồng tín dụng. Giai đoạn này được coi là kết thúc khi đại diện của các bên đã
chính thức ký tên vào văn bản hợp đồng tín dụng.
3.6. Các vấn đề liên quan đến hiệu lực của HĐTD
Điều kiện có hiệu lực của HĐTD:Dựa trên các quy định có nguyên tắc của
Bộ luật dân sự năm 2005 về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, một
HĐTD, với tư cách là một giao dịch dân sự đặc thù, chỉ có hiệu lực khi thoả mãn
đầy đủ các điều kiện sau đây:
Chủ thể tham gia HĐTD phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi
dân sự.
Mục đích và nội dung của HĐTD không trái pháp luật và đạo đức xã
hội.Mục đích cho vay và mục đích đi vay của các bên chủ thể hợp đồng nhất
thiết phải được thể hiện rõ ràng trong nội dung của hợp đồng và các mục đích
này không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự nguyện,
bình đẳng và tự do ý chí.Một HĐTD được coi là không có sự đồng thuận khi sự
thoả thuận đó giữa các bên bị các khuyết điểm như sự nhầm lẫn: sự lừa dối,
lường gạt hoặc sự ép buộc, cưỡng bức trong khi giao kết hợp đồng. Trên nguyên
tắc, các khuyết tật này phải có ảnh hưởng mang tính quyết định đến ý trí giao
kết hợp đồng của các bên thì mới được coi là sự kiện pháp lý làm cho hợp đồng

tín dụng vô hiệu.
Hình thức của HĐTD phải phù hợp với quy định của pháp luật ngân hàng.
Đối với hợp đồng tín dụng, do tính chất rủi ro cao cho quyền lợi của các bên
10


trong quá trình thực hiện hợp đồng này nên pháp luật ngân hàng đòi hỏi hình
thức hợp đồng tín dụng phải được xem là một trong những điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng.
Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là điểm mốc thời gian mà kể từ lúc
đó quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia hợp đồng tín dụng bắt đầu
phát sinh. Chẳng hạn như ở Cộng hoà Pháp, do nhà làm luật coi HĐTD là hợp
đồng thực tế nên họ cho rằng thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng tín dụng
chính là thời điểm bên cho vay chuyển giao số tiền vay (đối tượng hợp đồng)
cho bên vay. Với quan điểm này, việc chuyển giao tiền vay của người cho vay
sang co người vay không phải là một nghĩa vụ pháp lý trong hợp đồng tín dụng
mà bên cho vay phải thực hiện. Vì thế, nếu bên cho vay đã hứa sẽ cho vay mà
sau đó lại không chuyển giao tiền vay (với tư cách là đối tượng hợp đồng) thì do
đó hợp đồng tín dụng vẫn chưa hình thành và người hứa cho vay cũng không
phải gánh chịu một chế tài nào cả.
Còn ở Việt Nam, do nhà làm luật coi HĐTD là loại hợp đồng ưng thuận
nên pháp luật quy định tại thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng tín dụng
chính là thời điểm các bên đã thoả thuận xong các điều khoản của hợp đồng và
bên sau cùng đã ký tên, đóng dấu (nếu có) và văn bản hợp đồng tín dụng. Theo
quy định này việc chuyển giao tiền vay (giải ngân) là một nghĩa vụ hợp đồng
của bên cho vay và nếu họ không thực hiện đúng hợp đồng này mà lại gây thiệt
hại tính được thành tiền cho bên vay thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm nộp phạt vi
phạm hợp đồng và chịu cả trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Sự vô hiệu của hợp đồng tín dụng và các hậu quả pháp lý của sự vô hiệu:
HĐTD đựơc coi là vô hiệu tuyệt đối khi mục đích, nội dung và hình thức của

hợp đồng vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội hoặc
phương hại đến lợi ích chung. Khi đó, bất ky ai quan tâm (chứ không phải là
các bên ký kết hợp đồng) đều có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng tín
dụng vô hiệu và thời hạn thực hiện quyền yêu cầu này là không hạn chế. Trong
trường hợp vô hiệu tuyệt đối của hợp đồng tín dụng, các hậu quả pháp lý xảy ra
cho sự vô hiệu này là: Hợp đồng không phát sinh hiệu lực kể từ thời đỉêm ký
kết, các bên phải phục hồi tình trạng ban đầu như trước khi ký kết hợp đồng.
HĐTD bị coi là vô hiệu tương đối khi chủ thể tham gia hợp đồng không có
hành vi dân sự hoặc hợp đồng ký kết không có sự tự nguyện và đồng thuận giữa
các bên ký kết. Đối với trường hợp này, do việc ký kết hợp đồng tín dụng chỉ
phương hại đến lợi ích chung của các bên ký kết chứ không vi phạm các điều
cấm của pháp luật hoặc không phương hại đến trật tự công, lợi ích công nên Nhà
nước cần phải tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên, bằng cách chỉ tuyên bố
vô hiệu đối với hợp đồng khi nhận được yêu cầu của các bên hoặc của một bên
có quyền lợi bị phương hại, hoặc tạo cơ hội cho các bên tự khắc phục các vi
phạm dẫn đến nguy cơ hợp đồng bị vô hiệu. Với trường hợp này, chỉ khi nào hết
thời hạn cho phép để khắc phục các vi phạm đó nhưng các bên không thể khắc
phục được thì khi đó, yêu cầu của bên có quyền lợi bị phương hại. Toà án mới
chính thức tuyên bố HĐTD bị vô hiệu.
11


4. Những quy định của pháp luật về một số vấn đề khác đối với hoạt động
cho vay của TCTD
4.1. Quy định về nguyên tắc vay vốn và điều kiện vay vốn
Những quy định về nguyên tắc vay vốn tại điều 6 Quyết định
1627/2001/QĐ-NHNN” Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm
bảo: Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
….Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng”.

Những quy định về điều kiện vay vốn được quy định tại các văn bản:Luật
các TCTD sửa đổi bổ sung năm 2004,điều 7 Quyết đinh 1627/2001/QĐ-NHNN.
Đây là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo việc kinh doanh có
hiệu quả của các TCTD.Việc tuân thủ các nguyên tắc về vay vốn và điều kiện
vay vốn sẽ giúp các TCTD tránh được các rủi ro trong quá trình kinh doanh ,bởi
các TCTD có thể cho vay theo hình thức,phương thức,thời hạn khác nhau ,điều
đó tùy thuộc vào nhu cầu và mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng với
những đảm bảo cần thiết cho việc vay vốn.Do vậy,nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro
cho các TCTD.Rủi ro có thể từ phía người vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ
gốc và lãi khi đến hạn thanh toán hay rủi ro xuất phát từ phía TCTD do cách tổ
chức, quản lý hoạt động kinh doanh kém, không hiệu quả, kinh doanh không có
lãi.Việc thực hiện đúng các nguyên tắc và điều kiện vay vốn sẽ đảm bảo hoạt
động kinh doanh của TCTD ,cũng như vị trí và uy tín của TCTD đó trên thương
trường.
4.2. Quy định về lãi suất
Pháp luật không có quy định cụ thể về mức lãi suất cho vay,mà mức lãi suất
cho vay là do TCTD và khách hàng thỏa thuận phù hợp với các quy định của
NHNN Việt Nam.Theo các quy định của các văn bản trước đấy thì mức lãi suất
cũng theo sự thỏa thuận của TCTD với khách hàng,và mức lãi suất cũng sẽ
phải“thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại
bằng Đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Tổ chức tín dụng
xác định lãi suất cho vay bằng Đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn thị
trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay là các pháp nhân và cá
nhân Việt Nam, pháp nhân và cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở
tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của
nhóm các tổ chức tín dụng được lựa chọn theo Quyết định của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam trong từng thời kỳ để làm tham khảo và định hướng
lãi suất thị trường, phù hợp với quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam; đồng thời chủ động áp dụng các biện pháp để kiểm soát biến động của lãi

suất thị trường, đảm bảo được yêu cầu và mục tiêu của chính sách tiền tệ trong
từng thời kỳ.(Quyết định 546/2002/QĐ-NHNN).
Theo quy định trên thì NHNN chỉ đề ra mức lãi suất cơ bản chứ không đề
ra một mức lãi suất cụ thể.Một mặt ,tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD trong
việc xác định mức lãi suất phù hợp cho từng đối tượng khách hàng vay khác
nhau.Tuy nhiên,nó cũng bộc lộ một vấn đề đó là liệu có dấn đến việc áp dụng
12


mức lãi suất không công bằng giữa các đối tượng khách hàng có đủ những điều
kiện như nhau ?Liệu có xảy ra trường hợp có sự” ưu ái “ của TCTD đối với đối
tượng khách hàng đặc biệt “?Đây là một vấn đề cần phải xem xét.Có cần thiết
đặt ra một giải pháp nào đó cho vấn đề này?
4.3.Quy định về giới hạn cho vay
Trong hoạt động cho vay ,các TCTDphải tuân thủ các quy định về giới hạn
cho vay .Theo quy định tại điều 79 của Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ
sung năm 2004 và khoản 1,2 điều 18 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN:tổng dư
nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ
chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ
thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của
một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng hoặc khách hàng
có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì các tổ chức tín dụng cho vay hợp
vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. “Trong trường hợp đặc
biệt, tổ chức tín dụng chỉ được cho vay vượt quá mức giới hạn cho vay quy định
tại Khoản 1 Điều này khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép đối với từng
trường hợp cụ thể”.
Hiện nay,trong xu thế hội nhập kinh tế - quốc tế, các doanh nghiệp trong
nước cần phải đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh theo chiều rộng và
chiều sâu, để giải quyết nhu cầu vốn đầu tư lớn này cho các doanh nghiệp đồng
thời vẫn đảm bảo được giới hạn cho vay tối đa của ngân hàng đối với khách

hàng, các ngân hàng đã tiến hành cho vay hợp vốn. Đối với các đối tượng hạn
chế cho vay quy định tại Điều 20 Quyết định1627/2001/QĐ-NHNN, tổng dư nợ
cho vay không được vượt quá 5% vốn tự có của ngân hàng. Ngoài ra, để đảm
bảo an toàn tiền vay, nâng cao khả năng giám sát đối với các hoạt động tín dụng,
pháp luật buộc các TCTD phải thực hiện báo cáo Ngân hàng nhà nước (thông
qua trung tâm tín dụng của ngân hàng nhà nước) các khách hàng có tổng dư nợ
tiền vay từ 5% trở lên so với vốn tự có của ngân hàng. “Tổng dư nợ cho vay đối
với các đối tượng quy định tại Điều 20 Quy chế này không được vượt quá 5%
vốn tự có của tổ chức tín dụng”.
4.4. Quy định về hạn chế cho vay
Theo quy định tại điều 77,78 của Luật các TCTD sửa đổi bổ sung năm
2004 và Điều 19 Quy chế cho vay 1627 xác định rõ những trường hợp mà
TCTD không được cho vay đó là: thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát,
Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc) của TCTD, cán
bộ nhân viên của chính TCTD đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định cho
vay, bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, ban kiểm soát,
Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc).Và các trường
hợp hạn chế cho vay tại điều 20 của quy chế này “ Tổ chức tín dụng không được
cho vay không có bảo đảm, cho vay với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, về
mức cho vay đối với nhữngđối tượng sau đây:Tổ chức kiểm toán, Kiểm toán
viên có trách nhiệm kiểm toán tại tổ chức tín dụng cho vay; Thanh tra viên thực
hiện nhiệm vụ thanh tra tại tổ chức tín dụng cho vay; Kế toán trưởng của tổ
chức tín dụng cho vay; Các cổ đông lớn của tổ chức tín dụng;Doanh nghiệp có
13


một trong những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 77 của Luật Các tổ chức
tín dụng sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó”.
Các quy định này một mặt nhằm ngăn ngừa những hiện tượng lợi dụng
chức vụ quyền hạn, ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra; mặt khác các hạn chế

góp phần bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của các TCTD,giúp các
TCTD hoạt động hiệu quả.Những điều kiện đối với khách hàng là một đảm bảo
an toàn đối với hoạt động cho vay.Tuy nhiên,điều đó chỉ có ý nghĩa với khách
hàng vay,còn việc cho vay hay không,quyền quyết định thuộc về các TCTD.Tuy
nhiên,nó cũng sẽ gây ra khó khăn cho những người có nhu cầu vay vốn thực sự.
4.5. Quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn và dự phòng rủi ro
Quy định này là rất cần thiết vì như chúng ta đã biết thì hoạt động cho vay
là một hoạt động luôn ẩn chứa những rủi ro cho các TCTD ,nó sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến hoạt động kinh doanh ,cũng như sự tồn tại của các TCTD.
Theo quy định tại điều 81,82,Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung
năm 2004,về tỷ lệ bảo đảm an toàn và dự phòng rủi ro.Theo quy định tại khoản
1 điều 81 thì khả năng chi trả của các TCTD được xác định bằng tỷ lệ giữa tài
sản “Có “ có thể thanh toán ngay so với các loại tài sản “NỢ “ phải thanh toán
tại một thời điểm nhất định của TCTD. Để hoàn thiện môi trường pháp lý về
quy chế hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng, ngày 19 tháng 4 năm 2005, Thống
đốc Ngân hàng nhà nước đã ban hành Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN (gọi
tắt là Quyết định 457) về các tỷ lệ bảo đảm an toàn mà các TCTD phải duy trì.
Theo đó, các TCTD phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 25% giữa giá trị các tài sản “Có
“có thể thanh toán ngay và các tài sản” Nợ “sẽ đến hạn thanh toán trong thời
gian 1 tháng tiếp theo, tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản” Có “có thể thanh
toán ngay trong khoảng thời gian 7 ngày làm việc tiếp theo và tổng tài sản Nợ
phải thanh toán trong khoảng thời gian 7 ngày làm việc tiếp theo.
Theo quy định tại điều 82,TCTD phải dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân
hàng .Khoản dự phòng rủi ro này phải được tính vào chi phí hoạt động . Tại
khoản 2 Điều 2 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005
quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng
trong họat động ngân hàng của các TCTD (gọi tắt là Quyết định số 493) định
nghĩa: "Dự phòng rủi ro là là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những
tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của TCTD không thực hiện nghĩa vụ theo
cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí

hoạt động của TCTD". Việc quy định dự phòng rủi ro ở mỗi quốc gia là khác
nhau tuỳ thuộc vào khả năng đánh giá và kiểm soát rủi ro, đồng thời việc xác
định căn cứ để tính tỷ lệ trích lập dự phòng giữa các quốc gia là khác nhau.
Ngoài các biện pháp dự phòng trên, các TCTD còn phải tuân thủ và duy trì tỷ lệ
dự trữ bắt buộc theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Pháp luật về hoạt động cho vay của các Tổ chức tín dụng là một trong
những nội dung quan trọng ,nó có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động của các Tổ
chức tín dụng. Những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ chủ thể, điều
kiện về hợp đồng tín dụng… đảm bảo việc thực hiện đúng các chức năng ,cũng
như các quyền và nghĩa vụ của các Tổ chức tín dụng nói riêng .Từ đó,giúp cho
14


những cá nhân ,tổ chức có nhu cầu vay vốn có thể dễ dàng hơn ,thuân tiện hơn
trong việc vay vốn tại các Tổ chức tín dụng để đáp ứng các nhu cầu cần thiết của
mình. Qua đó,góp phần thúc đẩy sự phát triển của hệ thống các Tổ chức tín dụng
nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế.
III. THỰC TIỄN CHO VAY CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG TẠI
VIỆT NAM
1. Mức lãi suất cho vay của các ngân hàng Việt Nam
a) Giai đoạn trước khi có quyết định ngày 21/10/2008
Từ trước đến nay các ngân hàng trong nước hầu như không có biểu lãi suất
cho vay cố định với tất cả khách hàng, mà các nhà băng tuân thủ lãi suất trần
cho vay ở những thời điểm cụ thể. Tùy thuộc vào từng khách hàng, mục đích vay, thời hạn và tính khả thi của
dự án, hai bên sẽ thương lượng mức lãi suất phù hợp.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên
công khai toàn bộ biểu lãi suất cho vay áp dụng vào đầu tháng 4 này. Theo đó,
lãi suất vay ngắn hạn VND ở mức 17,5% mỗi năm, thấp hơn các nhà băng khác
1%, USD 9,5% mỗi năm. Lãi suất trung và dài hạn ở mức 18% cho VND và
10,6% cho USD. Ngân hàng này cũng cho hay tới đây sẽ điều chỉnh lãi suất trần

cho vay bằng tiền đồng xuống còn 15,5% mỗi năm.
Từ sau thời điểm nhiều ngân hàng suy giảm thanh khoản và chạy đua nâng
lãi suất huy động hồi tháng 2 vừa qua, lãi suất cho vay dài hạn của nhiều ngân
hàng đội lên tới trên 18% mỗi năm.Lãi suất ngắn hạn cũng dao động quanh 1516%.
Hiện lãi suất cho vay được quy định không vượt quá 150% lãi suất cơ bản,
vốn đang ở mức 8,75%.
Ngân hàng Thương Tín (Sacombank) cho hay, do xu hướng lãi suất trên thị
trường đang giảm nhiệt và tính thanh khoản của các nhà băng đã ổn định, nên
ngân hàng này giảm lãi suất cho vay với tất cả kỳ hạn. Các mức lãi suất không
được công bố chi tiết, song Sacombank cho hay, bình quân lãi suất tại nhà băng
này giảm 1% mỗi năm.
Ngân hàng Đông Á cũng điều chỉnh lãi suất giảm 1,2% mỗi năm.Ngân
hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) thông báo đưa các mức lãi suất
xuống khoảng 2% mỗi năm.
Việc hạ lãi suất cho vay hiện chủ yếu diễn ra ở các ngân hàng thương mại
cổ phần lớn, nhờ cân đối tốt nguồn vốn. Các ngân hàng quốc doanh cũng giảm
nhẹ, song do lãi suất tại các nhà băng này vốn không cao bằng các ngân hàng
thương mại, cộng với việc khách hàng đa phần là doanh nghiệp quốc doanh và
nông thôn nên mức giảm không rõ rệt.
* Một số vấn đề phát sinh
Sau một tuần thực hiện cơ chế mới, lãi suất trên thị trường ngân hàng có
nhiều biến động và có một số phát sinh đáng chú ý; trong đó việc thu phí cho
vay đang tạo khó khăn đối với các nhu cầu vay vốn.

15


Theo cơ chế mới, lãi suất cho vay đầu ra VND của các ngân hàng thương
mại được khống chế ở mức 18%/năm, theo tỷ lệ tối đa 150% lãi suất cơ bản như
quy định của Bộ luật Dân sự.

Nhiều ngân hàng lách trần lãi suất cho vay bằng việc áp một số khoản phí
đi kèm, phổ biến từ 0,5% – 4,5% cho mỗi khoản vay; gián tiếp đẩy lãi suất cho
vay vượt trên 18%/năm.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu cho biết việc thu thêm
phí nói trên không nằm trong cơ chế điều hành lãi suất mới (tuân thủ hai bộ luật
là Luật Ngân hàng Nhà nước và Bộ luật Dân sự), mà thuộc phạm vi điều chỉnh
của các văn bản pháp luật khác. Và để giám sát vấn -đề phát sinh nói trên, tránh
những trường hợp thu phí cho vay bất hợp lý, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
đã giao cho các đầu mối trực tiếp phụ trách xây dựng và sớm trình để ban hành
một quyết định về vấn đề thu phí để quản lý và làm cơ sở để giám sát việc cho
vay của các ngân hàng thương mại. Văn bản này sẽ là một hành lang mới, đi
cùng với cơ chế lãi suất hiện hành, đảm bảo việc thực hiện cho vay ra của các
ngân hàng đúng quy định và không có những phát sinh làm khó nhu cầu vay
vốn. Ngoài ra, sau một tuần thực hiện cơ chế mới, Ngân hàng Nhà nước đã phát
hiện một số trường hợp vẫn áp dụng mức lãi suất cho vay trên 18%/năm, chủ
yếu trong ngày 19/5. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã giao Thanh tra ngành
kiểm tra và xử lý những trường hợp phạm luật này và hiện không còn trường
hợp nào cho vay với lãi suất vượt mức quy định. Đến thời điểm này, theo tổng
kết của Ngân hàng Nhà nước, về cơ bản các ngân hàng thương mại đã thực hiện
nghiêm túc các quy định về lãi suất. Hầu hết các thành viên đều đã đồng loạt
điều chỉnh tăng mức lãi suất huy động ngay trong ngày đầu tiên áp dụng cơ chế.
Các mức lãi suất huy động được điều chỉnh tăng từ 1,7% – 3,5%/năm đối với kỳ
hạn từ 6 tháng trở xuống và tăng từ 1,5% – 3,5%/năm đối với kỳ hạn 12 tháng.
Lãi suất huy động VND hiện phổ biến ở mức: Khối ngân hàng quốc doanh,
không kỳ hạn là 4%/năm, 3 tháng là 13,43%/năm, 6 tháng là 13,53%/năm, 12
tháng 13,67%/năm; khối cổ phần, lãi suất không kỳ hạn là 4,49%/năm, 3 tháng
là 14,01%/năm, 6 tháng là 14,16%/năm, kỳ hạn 12 tháng 14,3%/năm và một số
thành viên có mức chung là 15%/năm.
Lãi suất cho vay VND của ngân hàng thương mại hiện phổ biến ở mức:
Khối ngân hàng quốc doanh lãi suất cho vay loại ngắn hạn từ 12,82% –

16,8%/năm, trung và dài hạn là 13,8% – 18%/năm; khối cổ phần đã điều chỉnh
lãi suất sát với mức 18%/năm.
Liên quan đến tính thanh khoản của hệ thống, để ổn định thị trường, trong
tuần thực hiện cơ chế mới, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục chào mua giấy tờ có
giá với các kỳ hạn 7 ngày, lãi suất 12%/năm, khối lượng chào và trúng thầu mỗi
phiên từ 5.000 – 10.000 tỷ đồng/phiên.
Theo nhận định của Ngân hàng Nhà nước, đến nay, nhìn chung các khối
ngân hàng đều dư thừa vốn khả dụng (dư thừa ở mức cao ở khối quốc doanh,
nước ngoài và dư thừa thấp ở khối cổ phần); tuy nhiên mức dư thừa không phân
bố đều giữa các ngân hàng.Ngoài ra, sau khi tăng lãi suất huy động, nguồn vốn
16


chảy về các ngân hàng đã có chuyển biến tích cực; nhiều thành viên có tốc độ
tiền gửi cao gấp 2 – 3 lần so với ngày thường trước đó.
Sau những phản ứng tức thì và có một số vấn đề phát sinh,dự báo từ tuần
tới, lãi suất huy động cũng như hoạt động cho vay của các ngân hàng sẽ ổn
định.Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh các tỉnh, thành phố vẫn tiếp tục
trực tiếp giám sát việc thực hiện cơ chế mới.
b) Giai đoạn sau khi có quyết định ngày 21/10/2008
Ngày 23/10, thị trường ngân hàng đón “đáy” mới của đợt giảm lãi suất cho
vay VND với mức 16,2%/năm, thay cho mức 17%/năm trước đó.Mức lãi suất cho vay nói trên có từ quyết định của Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam (BIDV), một thành viên từng gây bất ngờ khi giảm lãi suất
cho vay xuống 17,5%/năm vào cuối tháng 9 vừa qua. Khác với những lần điều
chỉnh trước đó, trong đợt điều chỉnh này BIDV vào cuộc khá muộn so với một
số ngân hàng cổ phần, nhưng lại là thành viên nổi bật nhất khi tạo mức lãi suất
cho vay thấp nhất trên thị trường hiện nay. Sau loạt quyết định của Ngân hàng
Nhà nước về hướng nới lỏng chính sách tiền tệ và hỗ trợ các ngân hàng thương
mại, ngày 21/10, BIDV thống nhất chính sách lãi suất cho vay ngắn hạn VND
mới, giảm khá mạnh so với trước đó và bắt đầu áp dụng từ ngày 23/10. Đây là

lần giảm thứ 5 liên tiếp của ngân hàng này trong vòng 3 tháng trở lại đây, cũng
là lần điều chỉnh mạnh nhất (giảm từ 1% – 1,3%/năm) với 3 khung lãi suất cho
vay theo chính sách khách hàng cụ thể. Mức lãi suất cho vay tối đa 16,2%/năm
(giảm 1,3%/năm so với mức lãi suất đang áp dụng được công bố ngày
1/10/2008, giảm 4,8%/năm so với thời điểm đầu quý 3/2008) được BIDV áp
dụng đối với các khoản vay tài trợ xuất khẩu, các khoản vay thu mua lúa gạo
khu vực ĐBSCL theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước. Mức lãi suất cho vay tối đa 16,5%/năm (giảm 1%/năm so với
mức lãi suất đang áp dụng được công bố ngày 1/10/2008 và giảm 4,5%/năm so
với thời điểm đầu quý 3/2008) được áp dụng đối với các đối tượng khách hàng
là các tập đoàn, tổng công ty, công ty, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế trực tiếp tạo sản phẩm, tham gia xác lập và bình ổn các cân đối lớn của nền
kinh tế như: xăng dầu, năng lượng, sắt, than, xi măng, thuốc chữa bệnh, phân
bón…; các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mức lãi suất cho vay tối đa 17,2%/năm
được áp dụng đồng loạt đối với tất cả khách hàng (giảm 1%/năm so với mức lãi
suất đang áp dụng được công bố ngày 1/10/2008 và giảm 3,8%/năm so với thời
điểm đầu quý 3/2008).
Cùng với BIDV, ngày 22/10, một ngân hàng quốc doanh khác là Ngân
hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank) cũng chính thức công bố giảm lãi
suất cho vay VND ngắn hạn; giảm thêm 0,4%, từ 18,2%/năm xuống còn
17,8%/năm. Các mức lãi suất cho vay trung và dài hạn của Vietinbank cũng
giảm thêm 1%, từ 19,5%/năm xuống còn 18,5%/năm. Đáng chú ý là với các
khách hàng có truyền thống quan hệ tín dụng, có uy tín cao và đang sử dụng các
sản phẩm, dịch vụ của Vietinbank, hoặc thuộc nhóm ưu tiên khác, có thể được
tiếp cận với mức lãi suất cho vay ưu đãi hơn.
17


Tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank), lãi suất
cho vay VND cũng đồng loạt giảm mạnh, áp dụng cho hai đối tượng khách hàng

truyền thống là hộ sản xuất và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cụ thể, lãi suất cho
vay VND của Agribank đối với các hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp
giảm xuống còn 16,5%/năm (giảm 4,5% so với đầu năm); đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu giảm xuống còn
16,8%/năm. Đây là lần giảm lãi suất cho vay thứ hai liên tiếp của ngân hàng này
trong vòng 10 ngày qua.
Như vậy, sau khi một số ngân hàng thương mại cổ phần vào cuộc giảm lãi
suất cho vay VND, thị trường chính thức đón nhận những quyết định khá mạnh
tay từ các ngân hàng quốc doanh lớn (tất nhiên có chọn lọc trong đối tượng ưu
đãi).
- Trước đó, trong ngày 21/10, Ngân hàng An Bình (ABBank) đã quyết
định giảm lãi suất cho vay VND từ trên 19%/năm xuống còn 18%/năm; Ngân
hàng Liên Việt (LienVietBank) giảm từ mức 18%/năm xuống còn 17%/năm.Và
trong ngày 22/10, Ngân hàng Quốc tế (VIB) cũng thông báo giảm lãi suất cho
vay VND bình quân 3%/năm so với thời điểm cao nhất trước đó (21%/năm).
2) Sự phát triển của các hình thức cho vay
a) Cho vay tiêu dùng:
Còn khoảng 10% nữa mới đạt mức tăng trưởng tín dụng, áp lực cạnh
tranh với ngân hàng ngoại, công ty tài chính và hơn cả là lạm phát đang dần
được khống chế, nhiều ngân hàng trong nước đang có kế hoạch nới cho vay tiêu
dùng.
Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) vừa thông báo sẽ dành 2.000 tỷ đồng cho
các nhu cầu về vay mở rộng sản xuất kinh doanh, vay phục vụ cho nhu cầu tiêu
dùng, vay mua nhà, sửa chữa nhà để ở. Cụ thể, khách hàng vay vốn tại ACB để
mua sắm trang thiết bị, hàng hóa phục vụ kinh doanh vào dịp cuối năm sẽ được
vay với thời hạn lên đến 3 năm, hạn mức vay tùy thuộc vào khả năng trả nợ của
khách hàng.
2.000 tỷ đồng cũng là con số mà Ngân hàng Ngoài quốc doanh (VPBank)
dự kiến dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân vay mua
nhà, mua ô tô trả góp. Theo đại diện VPBank, ngân hàng này sẽ tiến hành thẩm

định kỹ lưỡng đối với các khoản vay, ưu tiên những khoản vay có độ an toàn
cao.
Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng như: Techcombank, DongAbank,
Eximbank… cũng đang triển khai cho vay tiêu dùng bằng cách liên kết với các
trung tâm mua sắm lớn.
- Dư nợ cho vay tiêu dùng còn quá thấp
Vai trò của cho vay tiêu dùng
Mức tiêu dùng phản ánh kỳ vọng về thu nhập tương lai của dân cư. Nó là
động lực, là cầu chi trả về hàng hóa, dịch vụ cho sản xuất kinh doanh. Ngay cả
các nhu cầu tiêu dùng về ôtô, nhà ở, đồ gia dụng, thậm chí mỹ phẩm cũng liên
quan mật thiết với nhau không thể tách rời thu nhập kỳ vọng và đó là động lực
của sản xuất. Vì vậy tín dụng tiêu dùng từ lâu được coi là một phần quan trọng
18


của ngân hàng bán lẻ (phần quan trọng nhất). Thậm chí theo Peter Drugger tín
dụng tiêu dùng là cứu cánh của ngân hàng thương mại (NHTM) từ thập niên 70,
khi mà tín dụng doanh nghiệp bị cạnh tranh khốc liệt bởi các công ty tài chính,
các quỹ đầu tư và thị trường chứng khoán (TTCK). Khảo sát của tập đoàn tư vấn
BCG cũng cho thấy mặc dù cho vay tiêu dùng chỉ chiếm 30%-35%/tổng dư nợ
nhưng tạo ra trên 60% lợi nhuận của các NHTM hàng đầu châu Á. Lý do rất đơn
giản cạnh tranh khốc liệt đã khiến cho tín dụng doanh nghiệp có mức sinh lời
ngày càng giảm, trái lại tín dụng tiêu dùng (kể cả thẻ tín dụng) đang có tốc độ
tăng mạnh mẽ. Đối với dân cư, đặc biệt là thế hệ trẻ và người thu nhập thấp, họ
không thể đợi cho đến già mới tiết kiệm -đủ tiền để mua nhà, mua ôtô và các đồ
dùng gia đình khác. Tín dụng tiêu dùng giúp họ có được một cuộc sống ổn định
ngay từ khi còn trẻ, bằng việc mua trả góp những gì cần thiết, tạo cho họ động
lực to lớn để làm việc, tiết kiệm, nuôi dưỡng con cái. Đối với doanh nghiệp, tín
dụng tiêu dùng kéo nhu cầu tương lai về hiện tại, quy mô sản xuất tăng nhanh,
mức độ đổi mới và phong phú về chất lượng ngày càng lớn .Chính điều này đã

làm cho toàn bộ quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng diễn ra nhanh
chóng và hiệu quả, đó chính là nền tảng tăng trưởng kinh tế.
Thực trạng cho vay tiêu dùng ở nước ta
Đến hết tháng 9, dư nợ tín dụng tiêu dùng của cả hệ thống là 79.700 tỉ
đồng, chiếm 6,54% tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế. So với ngày
31/12/2007, con số này tăng 1.056 tỉ đồng nhưng xét về tỉ trọng trong tổng dư
nợ lại giảm 1,03%. Tính trung bình mức dư nợ vay tiêu dùng theo đầu người chỉ
đạt khoảng 921.000 đồng/người – một con số thấp hơn nhiều so với tiềm năng
thị trường của đất nước có 86,5 triệu dân và có mức tăng trưởng kinh tế vào
hạng cao như Việt Nam.
Cho vay tiêu dùng được xem là nghiệp vụ chiếm thị phần lớn và đem lại lợi
nhuận nhiều nhất cho các tổ chức tín dụng. Hầu hết tổ chức tín dụng đều đã tiến
hành cho vay tiêu dùng từ 10 năm nay, nhưng thị trường này chỉ thật sự sôi động
trong khoảng 2 năm trở lại đây, khi có sự tham gia của các ngân hàng thương
mại, công ty tài chính nước ngoài.
Nó chứng tỏ phần lớn người VN không có quan hệ với NH, nó cũng chứng
tỏ hệ thống thanh toán món nhỏ, lẻ còn rất sơ khai và chi trả tiền mặt của dân cư
là rất lớn kể cả tiền điện, nước, điện thoại, học hành, chữa bệnh và cuối cùng nó
cũng cho thấy tiềm năng về phát triển NH bán lẻ và dịch vụ thanh toán là rất lớn
ở VN.
Các hình thức cấp tín dụng chủ yếu là cho vay theo hợp đồng tín dụng từng
lần, cho vay bằng hình thức thấu chi tài khoản qua thẻ tín dụng… với lãi suất
cho vay 0%, cho vay mua nhà với giá trị lên đến 100%.
Tuy nhiên, hoạt động cho vay tiêu dùng của khối ngân hàng thương mại đã
phải ngừng lại khoảng giữa đầu năm nay, vì lý do lạm phát, hạn mức tín dụng
30% và vì thiếu thông tin về… khách hàng. Thiếu các trung tâm thông tin dữ
liệu khách hàng cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp nhỏ và vừa khi Trung tâm
thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC) mới chỉ cung cấp thông tin về
doanh nghiệp, khiến ngân hàng không có cơ sở để đánh giá mức độ an toàn và
19



rủi ro đối với khách hàng cá nhân vay vốn của mình. Tuy nhiên, trong bối cảnh
giảm phát, giá cả các mặt hàng được kiềm chế ở mức tối đa, sức mua của người
dân cũng suy giảm và đặc biệt, quy định về mức tăng trưởng tín dụng 30% của
Ngân hàng Nhà nước vẫn còn một khoảng cách khá xa, khối ngân hàng thương
mại cổ phần đã chú tâm trở lại với hoạt động cho vay tiêu dùng.
b) Cho vay doanh nghiệp
Các ngân hàng hiện đang muốn đẩy mạnh việc cho vay đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ thông qua nhiều ưu đãi về tín dụng lẫn lãi suất dành cho khối
khách hàng được xem là tiềm năng này.
Cuối tuần trước, các ngân hàng quốc doanh đã lần lượt công bố hạ lãi suất
cho vay đối với các khách hàng là doanh nghiệp thì đầu tuần này, các ngân hàng
thương mại cổ phần cũng thông báo hạ lãi suất và đưa nhiều chương trình ưu đãi
cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tuy là ngân hàng mới trong khối ngân hàng, nhưng Ngân hàng Liên Việt
(LienVietBank) đã công bố sẽ giảm lãi suất cho vay các doanh nghiệp xuống
còn 18% bắt đầu từ ngày 1-10. Bên cạnh việc giảm lãi suất, ngân hàng đang xây
dựng đề án ưu tiên hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ với mục tiêu phấn đấu trở
thành ngân hàng cổ phần thân thiết với đối tượng khách hàng này. Hiện, tổng dư
nợ của LienVietBank là 2.000 tỉ đồng, trong đó dư nợ cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ chiếm tỷ trọng 50%.
Cũng trong ngày 1-10, Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank)
cũng cho biết sẽ thực hiện tài trợ vốn lưu động với lãi suất ưu đãi 17,5% cho đối
tượng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây được xem là mức lãi suất cho vay
thấp nhấp trong khối ngân hàng thương mại cổ phần, bằng mức lãi suất cho vay
của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV), bắt đầu áp dụng từ hôm nay.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện cũng là đối tượng khách hàng được quan
tâm của những ngân hàng nước ngoài.Ngân hàng HSBC Việt Nam vừa cho ra
đời sản phẩm ngân hàng trọn gói dành riêng cho khối doanh nghiệp vừa và nhỏ

với lý do đây là nhóm khách hàng tiềm năng mà họ muốn tập trung phát triển
trong thời gian tới.
* Dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
Theo Vụ Tín dụng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, một trong những đối
tượng được ngân hàng chú trọng đầu tư vốn là các doanh nghiệp nhỏ và vừa
(DNNVV), đặc biệt là DNNVV trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, nông
nghiệp và nông thôn. Hiện nay, đang có 50% trong tổng số DNNVV có quan hệ
tín dụng với ngân hàng và tỷ trọng vốn vay ngân hàng của các doanh nghiệp này
chiếm 45,31% trong tổng nguồn vốn hoạt động của họ.
Để DNNVV phát triển và tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng ngân
hàng, từ cuối năm 2007 đến nay, trong bối cảnh cả nước thực hiện các biện pháp
kiềm chế lạm phát và chính sách tiền tệ thắt chặt, ngành ngân hàng đã có những
chỉ đạo cụ thể, linh hoạt trong hoạt động tín dụng; thực hiện điều chỉnh cơ cấu
tín dụng, giảm tín dụng đầu tư trong lĩnh vực phi sản xuất để tăng tín dụng đầu
tư cho lĩnh vực trực tiếp sản xuất.
20


Trong 7 tháng của năm 2008, doanh số cho vay của các ngân hàng thương
mại (NHTM) đối với DNNVV là 289.100 tỷ đồng, trong đó, khối NHTM Nhà
nước chiếm 47,7%, khối NHTM cổ phần chiếm 47,07%; khối ngân hàng liên
doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài chiếm 2,5%.
Dư nợ cho vay DNNVV đến 31/7/2008 của các ngân hàng thương mại đạt
299.472 tỷ đồng (chiếm 27,3% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế), tăng 16,65% so
với 31/12/2007 và tăng 70,5% so với 31/12/2006. Riêng trong lĩnh vực nông
nghiệp, dư nợ chiếm 5,1% trên tổng dư nợ, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng
chiếm 38,51%, lĩnh vực thương mại, dịch vụ 56,39% . Đi đầu trong việc cho vay
các DNNVV là các NHTM Nhà nước, chiếm tỷ trọng 56,98% toàn ngành; tiếp
đến là các NHTM cổ phần. Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, 23% trong
số các DNNVV có quan hệ tín dụng với các ngân hàng thương mại hiện đang

hoạt động kinh doanh có hiệu quả; 73,2% hoạt động trung bình và 3,8% gặp khó
khăn; trong đó chỉ có 1,42% có khả năng mất vốn. Tỉ lệ nợ xấu cho vay DN nhỏ
và vừa của toàn hệ thống theo số liệu mới nhất chiếm 3,64% (10.886 tỉ đồng) và
tăng khoảng 1% so với năm 2007. Trong đó tỉ lệ nợ xấu của khối ngân hàng
thương mại nhà nước lên tới 4,59%, ngân hàng thương mại cổ phần là 2,44%,
ngân hàng liên doanh và nước ngoài 1,45%.
* Tình hình cho vay chứng khoán hiện nay của các tổ chức tín dụng
Dư nợ cho vay chứng khoán
Dưới đây là tín hiệu lạc quan cho thị trường chứng khoán: Dư nợ cho vay
kinh doanh CK được phép đến 20%. Theo TPO, ngày 29/1/2008, Ngân hàng
Nhà nước đã chấp thuận cho vay kinh doanh CK theo hướng không áp dụng
cứng nhắc tỷ lệ 3% trên tổng dư nợ như trước, thay vào đó sẽ kiểm soát thông
qua áp dụng hệ số rủi ro và tính hạn mức trên vốn điều lệ.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) yêu cầu các tổ chức tín dụng ban
hành quy trình nghiệp vụ cho vay kinh doanh chứng khoán làm cơ sở cho việc
thanh tra, giám sát hoạt động cho vay, đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động
của tổ chức tín dụng theo quy định của NHNN, nhất là tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
8%, có tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ tín dụng dưới 5%, thực hiện hạch toán
thống kê chính xác, báo cáo các khoản cho vay để phục vụ quản trị kinh doanh
nội bộ và giám sát của NHNN.
Hệ số rủi ro của các khoản cho vay kinh doanh chứng khoán được áp dụng
khoảng 200-250% để tính hệ số an toàn vốn tối thiểu, cao hơn mức quy định
hiện nay (150%).
Mức dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán tương ứng khoảng 15-20% so
với vốn điều lệ của tổ chức tín dụng. NHNN khẳng định cơ chế cho vay này
giúp các NH cổ phần có dư nợ cho vay ở mức thấp so với vốn điều lệ vẫn có thể
tiếp tục cho vay.
Trước tình hình khủng hoảng tài chính ở Mỹ trong giai đoạn hiện nay
đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra chỉ thị số 05/2008/CT- NHNN. Theo
chỉ thị, để đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động kinh doanh trong những tháng

cuối năm 2008 và đầu năm 2009, Thống đốc yêu cầu các tổ chức tín dụng thực
hiện ngay các biện pháp cơ bản như :Kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng;
21


trong đó, tiến hành phân tích, đánh giá, phân loại các khoản cho vay kinh doanh
bất động sản để có giải pháp phù hợp đối với từng đối tượng vay vốn; tiếp tục
tăng tín dụng đối với lĩnh vực xuất khẩu, nông nghiệp, nông thôn, các dự án
trọng điểm quốc gia, các nhu cầu vốn sản xuất -có hiệu quả, chú trọng mở rộng
cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa mà các khoản vay đó đáp ứng được
các điều kiện theo quy định của pháp luật và khả năng cân đối vốn của các
TCTD

C.KẾT LUẬN
Nhìn chung, bên cạnh những mặt tích cực trong pháp luật điều chỉnh hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng, thì vẫn còn tồn tại những hạn chế (như
đã phân tích ở các nội dung trên) có thể gây ra những rủi ro cho các tổ chức tín
dụng. Vấn đề đặt ra là cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật để đảm bảo an
toàn cho hệ thống các tổ chức tín dụng, nói rộng ra là sự an toàn cho hệ thống tài
chính nước nhà. Trước những biến động của nền tài chính thế giới ít nhiều sẽ
ảnh hưởng đến tài chính trong nước và sự điều chỉnh liên tục mức lãi suất cơ bản
của ngân hàng nhà nước sẽ ảnh hưởng mạnh đến chính sách cho vay của các tổ
chức tín dụng thì pháp luật điều chỉnh hoạt động hoạt động cho vay của tổ chức
tín dụng cần thiết phải hoàn thiện.

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Giáo trình luật ngân hàng – ĐH Luật Hà Nội – NXB Công an nhân dân

2007.
2. Luật các tổ chức tính dụng số 07/1997-12/12/1997.
3. Luật số 20/2004/QH 11 ngày 15/06/2004 về sửa đổi bồ sung một số điều
của luật các tổ chức tín dụng.
4. Bộ luật dân sự 2005.
5. Nghị định số 178/1999/NĐ- CP ngày 29 tháng 12 năm 1999 của Chính
phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
6. Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25 tháng 10 năm 2002 của Chính phủ
về sửa đổi, bổ sung Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm
1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
7. Thông tư số 07/2003/TT-NHNN ngày 19/5/2003 hướng dẫn thực hiện
một số quy định về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
8. Một số tài liệu khác lấy từ internet.

23



×