1
-
-
-
A. MỞ BÀI
Hiện nay, thuế đã trở thành nguồn thu chính cho ngân sách tất cả các quốc
gia, cũng như pháp luật về thuế luôn được quan tâm xây dựng và hoàn thiện.
Để xây dựng được một hệ thống pháp luật thuế toàn diện, các nhà làm luật
cần chú ý đến các nguyên tắc khi đánh thuế. Chính vì thế, đề tài bài tập nhóm
số 2 chúng em lựa chọn đó là: Phân tích các cơ sở và ý nghĩa của việc đặt ra
các nguyên tắc đánh thuế - Hãy làm rõ mức độ thể chế hóa các nguyên tắc
đánh thuế đó trong pháp luật thuế ở nước ta hiện nay.
B. NỘI DUNG
I. Khái niệm nguyên tắc đánh thuế và các nguyên tắc đánh thuế
1 khái niệm nguyên tắc đánh thuế.
Thuế là một thuật ngữ phổ biến, nhưng chưa có một định nghĩa nào đấy
đủ hoàn toàn về thuế. Theo Các Mác, thuế là cơ sở của bộ máy nhà nước, là
thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu tiền hay tài sản của nhân dân để dùng vào
việc chi tiêu của nhà nước. Như vậy, thuế là sự đóng góp của nhân dân chủ
yếu bằng tiền vào Ngân sách nhà nước nhằm phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu
của nhà nước.
Với các cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu có thể đưa ra các
khái niệm về thuế khác nhau. Tuy nhiên, thuế bao giờ cũng mang những đặc
tính nhất định. Đặc biệt khi đánh thuế, Nhà nước cần phải dựa trên những
nguyên tắc đánh thuế để có thể đưa ra những quy định phù hợp nhất cho hệ
thống pháp luật thuế với các đối tượng chịu thuế, thuế suất…
Nguyên tắc đánh thuế
Nguyên tắc được hiểu là những điều cơ bản nhất phải tuân theo trong một
loạt các việc làm. Mỗi ngành khoa học, mỗi lĩnh vực lại có những nguyên tắc
đặc thù. Trong lĩnh vực thuế, các nguyên tắc đánh thuế là những điều kiện cơ
bản cần tuân theo khi tiến hành ban hành một sắc thuế cụ thể.
Nguyên tắc đánh thuế của nhà nước là hệ thống quan điểm chỉ đạo chi phối
sâu sắc đến việc đề ra hoặc xóa bỏ hệ thống thuế của quốc gia, có ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình vận hành của hệ thống pháp luật thuế quốc gia. Thuế
có liên quan đến quyền lợi trực tiếp của người nộp thuế và nhà nước, chính là
quyền và nghĩa vụ tương ứng từ thuế đã nộp cho nhà nước . Rõ ràng, khi nộp
thuế- mất đi một phần tài sản mà không thu lại được gì sẽ ảnh hưởng đến tâm
lí của người nộp thuế dẫn đến trốn tránh nghĩa vụ. Nhà nước không thu đủ
thuế cũng khó hoạt động và thực hiện chức năng quản lí xã hội của mình.
Những nguyên tắc đánh thuế cần được xác định khoa học, khách quan và
được thể hiện rõ ràng trong hệ thống pháp luật thuế quốc gia.
2
Các nguyên tắc đánh thuế cơ bản:
+ Đảm bảo đánh thuế phải công bằng
Nội dung nguyên tắc công bằng là mọi đối tượng có năng lực chịu thuế
đều phải nộp thuế và mọi người đều có điều kiện liên quan đến thuế như nhau
phải được đối xử về thuế như nhau. Nguyên tắc công bằng khi đánh thuế
không có nghĩa là cào bằng trong xã hội, điều này được thể hiện ở chỗ,nếu
điều kiện khác nhau thì các đối tượng khác nhau nhưng cùng loại được đối xử
với nhau tương ứng. Nguyên tắc công bằng đã trở thành nguyên tắc cơ bản
khi xây dựng hệ thống pháp luật thuế ở Việt Nam: Các đối tượng có điều kiện
như nhau phải nộp các loại thuế giống nhau.
+ Nguyên tắc đánh thuế đảm bảo được sự cân bằng lợi ích giữa nhà nước và
người nộp thuế.
Nội dung của nguyên tắc này là thuế phải đảm bảo cho người nộp thuế
không rơi vào tình trạng khốn cùng, nhưng nhà nước lại có thể đảm bảo được
nguồn thu từ thuế. Nguyên tắc này không được hiểu là phân chia lợi ích giữa
nhà nước và người dân mà giúp cho hệ thống thuế được hài hòa, Nhà nước
không có các biện pháp thu thuế làm người nộp thuế phải chịu một nghĩa vụ
quá lớn khiến họ trở nên khánh kiệt, còn người dân thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế để Nhà nước có nguồn tài chính ổn định nhằm thực hiện các hoạt động
và chức năng.
+Nguyên tắc đánh thuế phải đảm bảo dễ hiểu, đạt hiệu quả.
Nội dung của nguyên tắc này là các loại thuế phải đảm bảo rõ rành, dễ hiểu
cho mọi đối tượng và có tính ổn định đồng thời hệ thống thuế phải được tổ
chức sao cho chi phí quản lí thu thuế không được cao hơn mức mà mục tiêu
đề ra cho phép. Nguyên tắc này đặc biệt có ý nghĩa khi ban hành một đạo luật
thuế, văn bản hướng dẫn cho các đối tượng có liên quan. Bởi các đối tượng
nộp thuế cần hiểu rõ quyền và nghĩa vụ nhằm thực hiện đúng pháp luật và
không trốn tránh các nghĩa vụ thuế.
+ Nguyên tắc đánh thuế đảm bảo không xảy ra tình trạng một đối tượng tính
thuế phải chịu một loại thuế nhiều lần.
Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu với các hệ thống pháp luật thuế một quốc
gia cần bóc tách những phần thuộc đối tượng tính thuế đã nằm trong diện chịu
thuế đó ở giai đoạn trước. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật thuế giữa các quốc
gia cũng cần tính tới khả năng các nhà đầu tư, công dân của quốc gia này
nhưng có đối tượng tính thuế ở một quốc gia khác. Việc đánh hai lần cùng
một loại thuế lên một đối tượng chịu thuế không chỉ thể hiện sự yếu kém
3
-
trong hệ thống pháp luật thuế của quốc gia, mà còn làm cho người nộp thuế
chịu nhiều bất công ngay khi gánh quá nhiều trách nhiệm với nhà nước.
2. Cơ sở và ý nghĩa việc đặt ra các nguyên tắc đánh thuế.
Cơ sở đặt ra các nguyên tắc đánh thuế
- Xuất phát từ đặc điểm của thuế để xác định các nguyên tắc đánh thuế
Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu có thể đưa ra khái
niệm phục vụ riêng cho mục đích nghiên cứu, nhưng thuế bao giờ cũng mang
những đặc trưng nhất định. Thuế có lịch sử gắn với sự ra đời của mỗi nhà
nước, là khoản thu có tính lâu đời nhất trên thế giới, do vậy có thể thấy được
sự đồng nhất giữa các quốc gia trong việc xác định các đặc điểm quan trọng
nhất của thuế và các tư tưởng chủ đạo khi xây dựng hệ thống pháp luật thuế.
Việc xác định các đặc điểm của thuế có thể giúp ta nhận ra thuế trong các
hình thức thu nhập tài chính và trên phương diện pháp luật, đặc điểm của thuế
hình thành nên các nguyên tắc đánh thuế mà từ đó hệ thống pháp luật thuế
được xây dựng hoàn thiện. Các đặc điểm của thuế có ảnh hưởng trực tiến đến
việc hình thành các nguyên tắc đánh thuế là
+ Thuế là khoản thu bắt buộc cho Ngân sách nhà nước
Đặc điểm này đã đề cập đến tính bắt buộc của thuế trong nguồn thu ngân
sách, không giống với lệ phí, phí hay các nguồn thu khác. Thuế là nghĩa vụ
tài chính mà người nộp thuế phải thực hiện với nhà nước. Đối với cơ quan thu
thuế cũng không được có hành vi phân biệt đối xử với người nộp thuế. Đặc
tính bắt buộc này chi phối đến toàn bộ hệ thống pháp luật thuế. Đồng thời ảnh
hưởng đến các nguyên tắc đánh thuế công bằng, cân bằng lợi ích của nhà
nước và người nộp thuế, nguyên tắc thuế đánh dễ hiểu, đạt hiệu quả. Vì tính
bắt buộc nên người nộp thuế không được từ chối nghĩa vụ này, nhưng cần
đánh thuế hợp lí để người nộp thuế không lâm vào cảnh kiệt quệ vì thuế,
không chịu nghĩa vụ nặng hơn quyền lợi được hưởng từ nhà nước.
+ Thuế là khoản thu không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp
Khác với phí hay lệ phí, người nộp thuế không nhận được những quyền lợi
trực tiếp từ việc nộp thuế. Bởi vì các khoản thu này được sử dụng cho các
mục đích công, không tương ứng với mức độ sử dụng như phí và lệ phí.
Chính vì thế nguyên tắc đánh thuế công bằng đặt ra giữa các chủ thể nộp thuế
“mọi đối tượng có năng lực chịu thuế đều phải nộp thuế và mọi người có điều
kiện liên quan đến thuế như nhau phải được đối xử về thuế như nhau”( Giáo
trình Luật thuế Việt Nam- trang 18)
Tinh thần chung của các sắc thuế trên thế giới
4
-
-
-
-
Theo tinh thần chung của các sắc thuế trên thế giới thì các sắc thuế cần thỏa
mãn các điều kiện sau đây
Trung lập: sự ra đời của thuế không làm cho hoạt động sản xuất bị bóp méo,
không làm cho phúc lợi xã hội của nền kinh tế giảm đi.
Đơn giản: việc thiết kế sắc thuế và tiến hành thu thuế cần đơn giản về thủ tục
và nội dung để tránh gây những tốn kém không đáng có.
Công bằng: đây là yêu cầu thiết yếu đặt ra, nhằm hướng đến mọi đối tượng
nộp thuế có những điều kiện khác nhau thì mức thuế suất là khác nhau, dựa
vào các điều kiện luật định để xác định.
Ý nghĩa việc đặt ra các nguyên tắc đánh thuế
Trở thành các tư tưởng chủ đạo trong quá trình quản lí nhà nước với
các quan hệ xã hội phát sinh thuộc lĩnh vực thuế. Thuế tác động đến các đối
tượng rộng trong xã hội, phát sinh trong hầu hết các quan hệ. Do đối tượng
tác động rộng, nên nếu không có những nguyên tắc chung thì hoạt động thu
thuế, nộp thuế trở nên phức tạp, khó quản lí và trở thành gánh nặng cho nhà
nước. Ngày nay, tài chính nói chung và thuế nói riêng đã tách ra khỏi quản lí
hành chính nhà nước, nên những nguyên tắc của thuế cũng cần được xác định
và thực hiện độc lập.
Thống nhất về quản lí nhà nước với thuế. Bởi các nguyên tắc này được
thể chế hóa thành các đạo luật về thuế, có thể nhận thấy những nội dung
nguyên tắc này khi tìm hiểu nội dung của các luật thuế như Thuế thu nhập cá
nhân 2007, Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005…
Nhà nước có thể đặt ra các luật thuế hợp lí nhằm tạo nguồn thu ngân
sách. Các lĩnh vực hiện nay được thu thuế rất rộng, đồng thời thuế suất cũng
không tương đương. Tuy nhiên điều này lại là hợp lí nhằm điều chỉnh sản
xuất và các quan hệ xã hội theo hướng phát triển của nhà nước.
Là căn cứ đánh giá sự hợp lí của một sắc thuế.
Dần hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế theo hướng khoa học, hợp lí và
gắn với thực tiễn nhiều hơn
3. Mức độ thể chế hóa các nguyên tắc trong hệ thống pháp luật thuế
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “thể chế” là “những quy định, luật lệ của
một chế độ xã hội, buộc mọi người phải tuân theo”. Như vậy, thể chế theo cách
hiểu này chỉ bao gồm những quy định, luật lệ, mà không bao hàm bản thân các
tổ chức và thiết chế xã hội được thành lập để đảm bảo những quy định đó. Thể
chế có thể bao gồm thể chế chính thức (như nguyên tắc, pháp luật, hiến pháp) và
những luật lệ không chính thức (như văn hóa, giá trị, nguyên tắc đạo đức…). Mà
ở Việt Nam, Đảng và nhà nước chính là chủ thể có quyền ban hành các quy
5
định, luật lệ trong xã hội và bảo đảm thực hiện chúng trong cuộc sống bằng con
đường “pháp luật”. Vì vậy, có thể hiểu “thể chế hóa” là việc Đảng và nhà nước
thiết lập lên một hệ thống pháp luật bao gồm những quy tắc xử sự mang tính bắt
buộc chung trong xã hội. Nói cách khác, thể chế hóa là việc đưa những quy
định, luật lệ vào chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật của Đảng và nhà
nước, để từ đó tổ chức thực hiện tại Việt Nam.
Theo đó, thể chế hóa các nguyên tắc đánh thuế được hiểu là việc đưa những
nguyên tắc đánh thuế vào hệ thống pháp luật thuế Việt Nam. Việc thể chế hóa
các nguyên tắc đánh thuế trong pháp luật thuế của nước ta là điều vô cùng cần
thiết, bởi, nguyên tắc đánh thuế là hệ thống các quan điểm chỉ đạo chi phối sâu
sắc việc đề ra hoặc xóa bỏ hệ thống thuế của một quốc gia, có ảnh hưởng trực
tiếp đến quá trình vận hành của hệ thống pháp luật thuế.
Qua tìm hiểu có thể thấy các nguyên tắc này đã được vận dụng cơ bản trong các
đạo luật thuế, tạo thành một hệ thống pháp luật khá toàn diện của quốc gia.
- Nguyên tắc đánh thuế phải đảm bảo công bằng
Đây là nguyên tắc chung của pháp luật và được thể chế hóa rất cụ thể
trong các đạo luật thuế.
Theo các quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân có thể thấy mọi đối
tượng có năng lực chịu thuế đều phải nộp thuế. Những đối tượng ở những
điều kiện khác nhau, làm những công việc khác nhau, có thu nhập từ những
nguồn khác nhau những là thu nhập cá nhân sẽ phải nộp thuế thu nhập cá
nhân và họ được đối xử về thuế tương ứng với các khoản thu nhập đó. Luật
thuế thu nhập cá nhân 2007 đã quy định những thu nhập chịu thuế và thu nhập
tính thuế tại mục 1 Chương 2 Luật này. Đảm bảo công bằng trong thuế không
có nghĩa là cào bằng xã hội, không có nghĩa là mọi cá nhân đều phải nộp mức
thuế khi có một mức thu nhập bằng nhau. Chính vì thế Điều 19 Luật thuế thu
nhập cá nhân nă 2009 quy định về giảm trừ gia cảnh: là số tiền được trừ vào
thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền
lương,tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú. Có thể hiểu như
sau: Hai cá nhân A và B cùng có mức thu nhập là 200.000.000 đồng/năm từ
tiền lương, tiền công và họ phải chịu thuế thu nhập cá nhân theo quy định.
Nhưng nhà nước không thể thu của cả 2 người như nhau với thuế suất là 15%
( số tiền là 30.000.000 đồng). Bởi anh A không có người phụ thuộc, trong khi
anh B lại có 3 người phụ thuộc. Anh B sẽ có mức giảm trừ gia cảnh là
57.600.0000 đồng cho 3 người phụ thuộc và mức đóng thuế thu nhập cá nhân
6
-
-
của anh còn lại 142.400.000 đồng, mức thuế suất là 15% và số tiền thuế phải
đóng là 21.360.000 đồng.
Nguyên tắc thuế đảm bảo cân bằng lợi ích giữa nhà nước và người nộp
thuế.
Thuế không thể trở thành gánh nặng hoặc làm cho người nộp thuế lâm vào
cảnh khốn cùng, không thể bóp méo sản xuất hoặc làm đảo lộn đời sống của
người dân. Chính vì thế cần một biểu thuế phù hợp cho từng loại thuế, đảm
bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đảm bảo định hướng phát triển cho
các ngành sản xuất, lại vừa ổn định đời sống nhân dân.
Trong Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010, Nhà nước đã quy
định về việc các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình khi sử dụng diện tích đất phi
nông nghiệp thep quy Điều 2 thì phải nộp thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.
Nguyên nhân của quy định này xuất phát từ chế độ sở hữu toàn dân với đất
đai mà nhà nước là đại diện. Đất đai do nhà nước quản lí, các cá nhân, hộ gia
đình, các tổ chức được sử dụng đất do nhà nước giao cho, cho thuê hoặc cấp
đất thì phải đóng tiền thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. ( Diện tích đất sản
xuất, kinh doanh phi nông nghiệp bao gồm: đất xây dựng khu công nghiệp,đất
làm mặt bằng sản xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất khai thác, chế
biến khoảng sản, đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm). Việc quy định
thuế sử dụng đất nông nghiệp tạo một nguồn thu đáng kể cho nhà nước, lại
đảm bảo chính sách đất đai nhất quán. Nhà nước có thể hạn chế tình trạng đầu
cơ, tích trữ đất đai và làm cho thị trường bất động sản phát triển hơn. Diện
tích đất phi nông nghiệp nằm trong đối tượng chịu thuế là các diện tích đất
kinh doanh, sản xuất nên lợi nhuận chắc chắn cao hơn sản xuất nông
nghiệp.Chính vì thế nhà nước quy định thuế suất 0,03%/1m 2 với các diện tích
trong hạn mức vẫn là hợp lí, đảm bảo thuế sử dụng đất không quá nặng nề, lại
đảm bảo có một nguồn thu bền vững trong quá trình sử dụng đất của người sử
dụng. Sự bảo đảm quyền lợi cho người sử dụng qua các nghĩa vụ tài chính mà
cụ thể là thuế đã nộp cho nhà nước đó là: Nhà nước đảm bảo cho họ sử dụng
lâu dài, ổn định, không chủ thể nào được phép xâm phạm bất hợp pháp, nếu
có dự án quy hoạch thuộc nhà nước sẽ có đền bù thỏa đáng.
Nguyên tắc thuế đảm bảo dễ hiểu và đạt hiệu quả
Nguyên tắc này là yêu cầu về cả nội dung và hình thức của một luật thuế
để tất cả các đối tượng nộp thuế hiểu được vì sao mình phải có nghĩa vụ đó,
các yêu cầu mà nhà nước đặt ra, quyền lợi được hưởng từ việc nộp thuế. Xét
cho cùng, người lao động trong xã hội là người lao động nên cần dễ hiểu để
đảm bảo thuế thu về cho nhà nước, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật thuế.
7
Trong Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008 nguyên tắc đánh thuế phải
đảm bảo dễ hiểu, đạt hiệu quả cũng được Luật thuế tiêu thụ đặc biệt thể hiện
qua các quy định rất cụ thể, dễ hiểu, đầy đủ các vấn đề liên quan đến thuế tiêu
thụ đặc biệt đó là; quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu
thuế, người nộp thuế, căn cứ tính thuế, hoàn thuế, khấu trừ thuế và giảm thuế
tiêu thụ đặc biệt. Đặc biệt, quy định về thuế suất trong biểu thuế tiêu thụ đặc
biệt tại Điều 7 khá chi tiết nhưng vẫn rất dễ hiểu, đó là có sự phân biệt loại
hàng trong cung một nhóm hàng. Ví dụ cùng là rượu, tùy theo nồng độ cồn và
công dụng của rượu mà thuế suất được quy định thành bốn bậc khác nhau:
thuế suất cao nhất là 45% đánh vào rượu mạnh từ 40 độ trở lên và thấp nhất là
15% đánh vào rượu, thuốc lá...Ngoài ra, thuế suất của một số mặt hàng như
rượu, bia còn được quy định theo thời gian nên đảm bảo được tính ổn định và
thể hiện được định hướng của nhà nước.
Nguyên tắc thuế tránh đánh hai lần cùng một loại thuế đối với một đối
tượng chịu thuế.
Nguyên tắc này nhằm đảm cho thuế không đánh trùng lên thuế với một
đối tượng, không phải là trường hợp đánh nhiều loại thuế lên một đối tượng
mà là một loại thuế đánh hai lần.
Trước khi Luật thuế giá trị gia tăng ra đời năm 1990, ở Việt Nam vẫn
đánh thuế doanh thu. Căn cứ tính thuế doanh thu là doanh thu tính thuế và
thuế suất. Theo đó, doanh thu tính thuế là toàn bộ doanh thu phát sinh của
mỗi khâu sản xuất lưu thông, như vậy hàng hóa càng qua nhiều khâu lưu
thông thì số tiền thuế càng nhiều và giá cả càng lớn. Hiện tượng thuế đánh
chồng lên thuế được coi là hạn chế cơ bản vì đánh thuế dựa trên toàn bộ giá
trị hàng hóa. Thuế giá trị gia tăng ra đời chính thức năm 1997 và áp dụng từ
1999, đã khắc phục những hạn chế trên. Thuế giá trị gia tăng chỉ đánh thuế
vào phần tăng thêm của hàng hóa qua quá trình sản xuất, lưu thông chứ không
đánh vào toàn bộ.
Hoặc đối với thuế thu nhập cá nhân, vấn đề thu thuế thu nhập cá nhân
đối với khoản thu mà công dân Việt Nam có được trên lãnh thổ nước ngoài,
cần dựa vào các điều ước quốc tế giữa Việt Nam và quốc gia hữu quan để hạn
chế tình trạng thuế thu nhập cá nhân phải nộp ở cả Việt Nam và nước ngoài.
4.
Hạn chế trong việc thể chế hóa các nguyên tắc đánh thuế
Thuế chưa đảm bảo cân bằng về lợi ích của nhà nước và người nộp
thuế.
Trong nguồn thu ngân sách nhà nước, thuế là nguồn thu quan trọng
nhất vì nó thể hiện nội lực kinh tế của quốc gia, chúng ta không thể trông chờ
8
vào viện trợ hay vay nợ, còn phí và lệ phí không thể đóng góp nhiều cho ngân
sách. Tuy nhiên, nguồn thu từ thuế vẫn chưa thể hiện được vai trò chủ đạo
trong nguồn thu ngân sách.
Thuế suất ở Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực về thuế giá
trị gia tăng hay thuế sử dụng đất phi nông nghiệp vẫn là quá thấp. Thuế giá trị
giá trị gia tăng ở Việt Nam là 10%, trong khi ở Đức lên đến 23% và còn tiếp
tục tăng cao. Thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam đánh vào các đối tượng ở mọi
công đoạn, nhưng tỉ suất không cao và không đóng góp được nhiều cho ngân
sách.
Bên cạnh đó chúng ta cũng thấy: Thuế được nộp cho ngân sách nhà
nước, thì người nộp thuế muốn nhận được quyền lợi tương xứng với số thuế
mà mình đã nộp. Nhưng trên thực tế, những gì mà người nộp thuế nhận lại
được từ nhà nước thông qua phúc lợi xã hội là còn quá ít, gần như là không
có. Người nộp thuế chưa nhận được những quyền lợi trực tiếp mà nhà nước
bảo đảm cho họ qua việc nghĩa vụ thuế được hoàn thành. Ví dụ như ở Mĩ,
một người nếu được xác nhận là hoàn thành tất cả các nghĩa vụ thuế thì khi có
các hoạt động như mua nhà, họ sẽ được ngân hàng cho vay tiền chả trậm,
hoặc mua nhà trả dần…Nhưng ở Việt Nam điều đó gần như là không có. Tiền
thuế được sử dụng cho các mục đích đầu tư phát triển nhưng lại không được
quản lí tốt dẫn đến thất thoát ngân sách. Cho dù năm nào Dự toán ngân sách
cũng đặt mục tiêu là tập trung đầu tư cho phát triển con người nhưng hiệu quả
lại chưa thật sự cao.
- Nguyên tắc thuế dễ hiểu và hiệu quả chưa thật sự được thực hiện đúng.
+ Bởi ngay trong bản thân Luật thuế thu nhập cá nhân, các quy định về
giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế gặp phải nhiều bất cập trong thực tiễn,
nhiều người lao động đủ điều kiện nộp thuế không biết mình phải chịu thuế
bao nhiêu, cho các khoản thu nhập nào. Đến năm 2011, Chính phủ ban hành
Nghị định số 101/2011 ban hành bổ sung nhằm tháo gỡ các khó khăn của
doanh nghiệp, cá nhân, theo đó, điều 4 quy định về miễn giảm thuế thu nhập
cá nhân. “Miễn thuế thu nhập cá nhân từ ngày 01 tháng 8 năm 2011 đến hết
ngày 31 tháng 12 năm 2012 đối với cổ tức được chia cho cá nhân từ hoạt
động đầu tư vào thị trường chứng khoán, góp vốn mua cổ phần của doanh
nghiệp từ cổ tức được chia từ các ngân hàng cổ phần, quỹ đầu tư tài chính, tổ
chức tín dụng.
2. Giảm 50% số thuế thu nhập cá nhân từ ngày 01 tháng 8 năm 2011 đến hết
ngày 31 tháng 12 năm 2012 đối với thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng
chứng khoán của cá nhân.
9
-
5.
3. Miễn thuế thu nhập cá nhân từ ngày 01 tháng 8 năm 2011 đến hết ngày 31
tháng 12 năm 2011 đối với cá nhân có thu nhập tính thuế từ tiền lương, tiền
công và từ kinh doanh đến mức phải chịu thuế thu nhập cá nhân ở bậc 1 của
Biểu thuế lũy tiến từng phần quy định tại Điều 22 Luật Thuế thu nhập cá
nhân.
Thu nhập tính thuế làm căn cứ xác định việc miễn thuế quy định tại khoản
này là thu nhập tính thuế bình quân của cá nhân thực nhận trong năm 2011.”
Trong khoảng thời gian 4 tháng thực hiện điều kiện miễn giảm thuế thu nhập
cá nhân theo Nghị định 101/2010, từ 1/1/2012 lại trở lại điều chỉnh bằng Luật
thuế thu nhập cá nhân gây nên nhiều tranh cãi về sự không ổn định của các
chính sách pháp luật.
Bên cạnh đó, Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007 đến năm 2012 đã
có dự thảo sửa đổi bổ sung và vẫn chưa được thống nhất khi không đồng nhất
trong mức thu nhập đánh thuế. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản hướng dẫn
nhiều Nghị định liên quan khiến cho người nộp thuế khó xác định được các
quy định chi tiết nào cần áp dụng.
+ Luật thuế bảo vệ môi trường năm 2010 có quy định về việc đánh
thuế đối với túi nilong tại khoản 4 Điều 3. Túi nilong thuộc diện chịu thuế có
mức thuế suất cụ thể là 30.000-50.000 đồng/kg. Đồng thời trong Nghị định
67/2011 hướng dẫn chi tiết thi hành Luật thuế bảo vệ môi trường có hướng
dẫn về túi nilong không thuộc diện chịu thuế đó là các bao bì đóng gói sẵn và
theo đúng tiêu chuẩn thân thiện với môi trường của Bộ Tài nguyên và môi
trường. Nhưng vấn đề đặt ra là: Bộ Tài nguyên và môi trường chưa đưa ra
một tiêu chuẩn cụ thể về bao bì thân thiện với môi trường để các doanh
nghiệp có thể chuyển sang sản xuất các loại túi nilong thân thiện với môi
trường. Ngoài ra, các sản phẩm nhựa gia dụng và hàng hóa trên thị trường đều
có đến 90% đóng gói nilong và việc quy định thuế suất cao như vậy sẽ khiến
giá cả hàng hóa tăng lên. Tuy việc sử dụng túi nilong gây hại cho môi trường,
nhưng biện pháp đánh thuế cao để hạn chế sử dụng không phải là cách tốt
nhất.
Nguyên tắc tránh đánh hai lần thuế trên một đối tượng chưa được thực
hiện nghiêm chỉnh. Các tình trạng nói trên chủ yếu tồn tại trong trường hợp có
liên quan đến quốc gia khác về thu nhập cá nhân khi công dân Việt Nam
hưởng thu nhập hợp pháp từ quốc gia đó.
Đề xuất biện pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế Việt Nam
dựa trên các nguyên tắc đánh thuế
10
-
Nhằm xây dựng tốt nguyên tắc thuế đảm bảo lợi ích của nhà nước và
người nộp thuế, cần có biện pháp điều chỉnh thuế suất trên một lĩnh vực và
tăng cường phúc lợi xã hội bằng nhiều biện pháp.
+ Ví dụ điển hình là đối với thuế thu nhập doanh nghiệp: chuyển biến từ 28%
xuống 25%là một chuyển biến tích cực.Tuy vậy, trong thời kì nhà nước đang
sử dụng biện pháp tài khóa thắt chặt đi kèm với chính sách tiền tệ thắt chặt,
mức thuế thu nhập doanh nghiệp nên được giảm hơn nữa tạo điều kiện cho
doanh nghiệp phát triển và huy động vốn. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu cho
rằng, đối với các doanh nghiệp nước ngoài, đánh thuế 25% là thấp và chưa
đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, đồng thời tạo nên sự bất bình đẳng với các
doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp dùng biện pháp chuyển giá để
mang lại hiệu quả kinh doanh cho đơn vị mình thay vì đầu tư sản xuất kinh
doanh mang lại hiệu quả và thu lãi thì áp dụng chuyển giá để tranh việc bị nhà
nước Việt Nam đánh thuế và đem thuế nộp cho quốc gia khác có mức thu
thuế thấp hơn, điều này đã khiến cho ngân sách nhà nước thất thu những
khoản tiền khổng lồ và thực chất thì nó đã không đạt được mục đích là cân
bằng lợi ích giữa nhà nước và người nộp thuế.
+ Tăng cường các khoản phúc lợi và trợ cấp xã hội cho người lao động.
Chúng ta có thể áp dụng các biện pháp kích thích người hoàn thành nghĩa vụ
thuế với nhà nước như các nước phát triển đã áp dụng rất thành công như: có
hỗ trợ vay vốn cho họ trong các hoạt động tài chính khác, hoặc tăng phúc lợi,
trợ cấp cho các đối tượng đủ điều kiện.
- Nguyên tắc hiệu quả của thuế cũng cần được xem xét lại. Ví dụ như đối với
Thuế giá trị gia tăng. Đối với thuế giá trị gia tăng hiện nay chúng ta vẫn quy
định hàng hóa dịch vụ của cá nhân có thu nhập bình quân tháng thấp hơn mức
lương tối thiểu vào danh mục không chịu thuế giá trị gia tăng tuy nhiên xét về
bản chất, thuế giá trị gia tăng là loại thuế được xác định trên cơ sở hàng hóa
dịch vụ khi tiều dùng, bán ra chứ không phải dựa trên thu nhập của chủ thể
kinh doanh. Đưa đối tượng này vào sẽ gây phức tạp trong quản lý thuế và
không phù hợp với thông lệ quốc tế, như vậy sẽ không đảm bảo được nguyên
tắc hiệu quả. Thực tế cho thấy phương pháp tính thuế trực tiếp được áp dụng
chủ yếu đối với các cơ sở kinh doanh nhỏ, có chế độ kế toán hóa đơn chứng
từ chưa hoàn thiện. Doanh số hoạt động của các cơ sở này thấp, quản lý thu
tốn kém và không hiệu quả. Kinh nghiệm các nước áp dụng thuế VAT cho
thấy họ thường quy định ngưỡng doanh thu chịu thuế, những đối tượng nào
không đạt mức doanh số này thì chuyển sang áp dụng thuế khoán ấn định trên
doanh thu còn các hộ kinh doanh còn lại buộc phải thực hiện đầy đủ chế độ kế
11
-
-
-
toán, hóa đơn, chứng từ theo phương pháp khấu trừ thuế để đảm bảo được
hiệu quả cao nhất trong việc hành thu. Một điểm nữa, những người xây dựng
luật thuế giá trị gia tăng chưa đảm bảo được tính hiệu quả cũng như tính dễ
hiểu trong một sắc thuế đó là với các mặt hàng không chịu thế giá trị gia tăng
thì với các mặt hàng đó chi phí đầu vào không được khấy trừ như vậy nết
dùng cho sản xuất kinh doanh chịu thế giá trị gia tăng thì tính như thế nào?
Với các doanh nghiệp bán hàng chịu thuế giá trị gia tăng bằng 0 thì chi phí
đầu vào cũng không được khấu trừ thuế giá trị gia tăng như vậy sẽ bất lợi với
các doanh nghiệp trong thời gian đầu chưa có nhiều doanh thu, như vậy liệu
có đảm bảo được nguyên tắc cân bằng lợi ích hay không?
Rà soát hệ thống thuế và đảm bảo không xảy ra tình trạng thuế đánh
trùng lên thuế. Ví dụ về việc đánh thuế túi nilong và thuế bảo vệ môi trường ở
trên cho thấy hiện tượng thuế đánh trùng lên thuế vẫn còn tồn tại ở Việt Nam.
Nhà nước nên có một chính sách cụ thể cho từng lĩnh vực, khi cần đề xuất
một sắc thuế mới cần kiểm tra kĩ lưỡng về vấn đề này đã được quy định trong
một văn bản quy phạm pháp luật nào khác hay không. Do đó cần hoạt động
thật hiệu quả của cơ quan lập pháp.
Hệ thống các cơ quan thu thuế cần hoạt động hiệu quả, có trách nhiệm
hơn. Người nộp thuế hiện nay vẫn gặp những khó khăn khi thực hiện đúng
nghĩa vụ của mình với nhà nước. Cơ quan thu thuế vẫn còn sự phân biệt giữa
các đối tượng nộp thuế, hoặc không thực hiện đúng nhiệm vụ của mình khi
người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ.
Hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến các ngành
và lĩnh vực thuế.
C. KẾT LUẬN
Thuế với vai trò là nguồn thu chính của Ngân sách nhà nước đặt
ra yêu cầu việc thu thuế và sử dụng nguồn thu hiệu quả. Hệ thống pháp luật
thuế Việt Nam còn có những điểm chưa tương đồng với hệ thống pháp luật
thế giới và chưa đáp ứng được các yêu cầu của ngân sách nhà nước. Các
nguyên tắc đánh thuế là cơ sở cho việc xây dựng một hệ thống pháp luật thuế
hiệu quả, toàn diện trong hệ thống pháp luật quốc gia.
A. MỞ BÀI
B. NỘI DUNG
I.
Khái niệm nguyên tắc đánh thuế và các nguyên tắc đánh thuế
1. khái niệm nguyên tắc đánh thuế.
2
Cơ sở đặt ra các nguyên tắc đánh thuế
12
2.1 Ý nghĩa việc đặt ra các nguyên tắc đánh thuế
3. Mức độ thể chế hóa các nguyên tắc trong hệ thống pháp luật thuế
4. Hạn chế trong việc thể chế hóa các nguyên tắc đánh thuế
5. Đề xuất biện pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế Việt Nam dựa trên
các nguyên tắc đánh thuế
C. KẾT LUẬN