Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

người được cử ra để phân xử, giải quyết những vụ tranh chấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.11 KB, 19 trang )

B – NỘI DUNG:
I – KHÁI QUÁT VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI:
1 – Khái niệm, đặc điểm của trọng tài thương mại:
a. Khái niệm:
Theo từ điển tiếng Việt thì trọng tài là “người được cử ra để phân xử, giải quyết
những vụ tranh chấp”. Tuy nhiên, trọng tài không chỉ bao hàm một cá nhân mà còn là
một cơ quan giải quyết tranh chấp gần với tính quy mô và có tổ chức. “Trọng tài bao
gồm những cá nhân được các bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ
các vụ việc dân sự của họ” hay “trọng tài là cơ quan trung gian được các bên đương
sự giao tranh chấp cho để xét xử”.
Trọng tài thương mại (TTTM) là một khái niệm đã phổ biến trên thế giới. Trong
khoa học pháp lý, khái niệm này được nghiên cứu dưới rất nhiều hình diện khác nhau
nhưng có hai cách tiếp cận chủ yếu : TTTM là một phương thức giải quyết tranh chấp
và TTTM là một cơ quan giải quyết tranh chấp.
Pháp luật Việt Nam hiện hành định nghĩa: “Trọng tài thương mại là phương
thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của
luật này” ( khoản 1 Điều 3 LTTTM 2010 ). Như vậy, với tư cách là một phương thức
giải quyết tranh chấp, TTTM có thể được hiểu một cách chung nhất là phương thức mà
các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận với nhau để ủy thác việc giải quyết tranh chấp
đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ cho TTTM. Trên cơ sở các tình tiết khách quan của tranh
chấp, TTTM được quyền đưa ra quyết định cuối cùng để giải quyết tranh chấp và quyết
định này có giá trị bắt buộc đối với các bên.
Bên cạnh đó, TTTM với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp cũng là
cách tiếp cận khá phổ biến. Với tư cách là cơ quan giải quyết tranh chấp, TTTM có thể
được tổ chức thành các cơ quan chuyên biệt, có trụ sở làm việc, danh sách nhân sự,
điều lệ cũng như quy tắc hoạt động riêng của mình.

1


b – Đặc điểm:


* Đặc điểm của trọng tài thương mại với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh
chấp:
Với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp, TTTM có những đặc trưng
riêng so với Tòa án – cơ quan giải quyết tranh chấp thương mại thuộc hệ thống cơ quan
nhà nước, đó là :
- Trọng tài là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp được thành lập nên để giải quyết
tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, đặc điểm này thường gắn với các
TTTT (trung tâm trọng tài). Mỗi TTTT đều có Điều lệ hoạt động riêng, có trụ sở, bộ
máy giúp việc, danh sách TTV và quy tắc tố tụng riêng của mình. Các TTTT hoạt động
theo nguyên tắc tự hạch toán, tự trang trải, lấy thu bù chi. Cơ cấu tổ chức của bộ máy
trọng tài nhìn chung gọn nhẹ và linh hoạt.
- Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TTTM phát sinh từ chính sự thỏa thuận
của các chủ thể tranh chấp chứ không phải do pháp luật ấn định. Nếu không có sự thỏa
thuận tự nguyện, hợp pháp của các bên về việc đưa tranh chấp đã và sẽ phát sinh giữa
họ ra TTTM giải quyết thì TTTM không thể giải quyết vụ tranh chấp đó.
- TTTM là một cơ quan giải quyết tranh chấp độc lập với Tòa án, không phải là
cơ quan xét xử của nhà nước, không do Nhà nước lập nên, khi xét xử, TTTM không
nhân danh Nhà nước đề ra các phán quyết. Do đó, phán quyết của TTTM không có tính
cưỡng chế thi hành án như các bản án, quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, để đảm bảo
giá trị pháp lý của phán quyết của TTTM, pháp luật Việt Nam quy định, phán quyết
của TTTM nếu không được các bên đương sự tự nguyện thi hành thì có thể nhờ sự hỗ
trợ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cưỡng chế thi hành.
* Đặc điểm của trọng tài thương mại với tư cách là một phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại:
Với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại, trọng tài có
những đặc điểm cơ bản sau:
-

- TTTM là phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba (có


thể là một HĐTT hoặc một TTV duy nhất) có quyền đưa ra phán quyết.
2


-

- TTTM là phương thức giải quyết tranh chấp có thủ tục tố tụng khá chặt chẽ.

Khi đưa vụ tranh chấp của mình ra TTTM giải quyết, các bên đương sự và TTV giải
quyết vụ tranh chấp phải tuân thủ 1 quy trình tố tụng của TTTT hoặc quy trình tố tụng
đã thống nhất lựa chọn trước đó (nếu giải quyết bằng trọng tài vụ việc).
-

- Kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại TTTM là phán quyết của TTV duy

nhất hoặc HĐTT. Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và không có tính
cưỡng chế thi hành.
2 – Các hình thức trọng tài thương mại:
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức chủ yếu: trọng tài vụ việc (trọng
tài ad-hoc) và trọng tài thường trực.
a - Trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc):
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài xuất hiện sớm nhất, được sử dụng rộng
rãi tại các nước trên thế giới. Đó là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa
thuận lập ra để giải quyết một tranh chấp cụ thể hơn giữa họ và trọng tài này sẽ chấm
dứt sự tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp. Đặc điểm của loại trọng tài này là
không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành, không có danh sách TTV và
không có quy tắc tố tụng riêng. Do đó, các bên phải tự chịu trách nhiệm thành lập
HĐTT, xây dựng quy tắc tố tụng riêng và phải thỏa thuận trực tiếp vấn đề thù lao cho
các trọng tài viên.
b - Trọng tài thường trực (trọng tài quy chế):

Trọng tài thường trực là hình thức trọng tại có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hoạt động
thường xuyên để giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền của mình khi được các bên
tranh chấp yêu cầu. Thông thường, trọng tài thường trực có điều lệ hoạt động, trụ sở,
bộ máy giúp việc, danh sách TTV và quy tắc tố tụng riêng.
3 – Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại:
a - Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài:
“Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng
tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh” (Khoản 2 Điều 3 LTTTM 2010).
3


Khác với tố tụng tòa án, tố tụng trọng tài chỉ được tiến hành khi có thỏa thuận trọng tài
được xác lập có hiệu lực giữa các bên tranh chấp.
Theo đó thỏa thuận trọng tài có vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết
tranh chấp bằng Trọng tài. Một tranh chấp muốn được Trọng tài giải quyết thì nguyên
tắc đặt ra là trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa
thuận trọng tài đó có hiệu lực. Những vi phạm liên quan đến thỏa thuận trọng tài
(không có thỏa thuận trọng tài hoặc có thỏa thuận trọng tài nhưng thỏa thuận trọng tài
bị vô hiệu…) có thể là căn cứ để Tòa án xem xét hủy quyết định trọng tài khi được một
hoặc các bên tranh chấp yêu cầu (điều 68 LTTTM 2010).
Khi các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài hợp lệ thì chỉ trọng tài mới có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó. “Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thỏa
thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ
trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện
được” (Điều 6 LTTTM 2010).
Trọng tài sẽ mất đi bản chất vốn có của nó nếu thiếu vắng thỏa thuận trọng tài –
cơ sở pháp lý ghi nhận sự thỏa thuận thống nhất ý chí của các bên về việc cùng trao gửi
vụ tranh chấp cho trọng tài giải quyết.
b - Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan:
Đây là nguyên tắc rất quan trọng nhằm đảm bảo tính hiệu quả của việc giải quyết

tranh chấp bằng trọng tài. Sự độc lập, vô tư và khách quan thể hiện ở chỗ các trọng tài
viên(TTV) hoàn toàn độc lập với nhau và độc lập với các bên tranh chấp.
LTTTM 2010 quy định TTV phải có đủ các điều kiện nhất định để đảm bảo rằng họ vô
tư, độc lập, khách quan khi giải quyết tranh chấp. Theo đó, TTV phải là người có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ, có trình độ đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã
học từ năm năm trở lên. Đặc biệt để tạo điều kiện cho các bên tranh chấp có thể lựa
chọn TTV phù hợp với những tranh chấp đòi hỏi chuyên môn cao, điểm c khoản 1
Điều 20 LTTTM 2010 còn quy định trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ
chuyên môn cao và nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tuy không có đủ năm năm kinh
4


nghiệm thực tế theo đúng ngành vẫn có thể được chọn làm TTV. Quy định này phù
hợp với nguyên tắc và thông lệ quốc tế khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Một người không được tham gia với tư cách là TTV để giải quyết vụ tranh chấp
nếu người này là người thân thích với một trong các bên và càng không được tham gia
nếu có những lợi ích tài chính liên quan đến kết quả vụ kiện. Thẩm phán, Kiểm sát
viên, điều tra viên, chấp hành viên, công chức thuộc tòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án không được làm TTV (điểm a khoản 2
Điều 20 LTTTM 2010). TTV phải có khả năng tư duy một cách sáng suốt, vô tư và
khách quan để đưa ra được những lý lẽ và bằng chứng mà cả hai bên tranh chấp đều
thừa nhận.
c – Nguyên tắc trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật:
Trọng tài viên là người được các bên có tranh chấp lựa chọn giải quyết tranh chấp
cho họ. Để giải quyết tranh chấp một cách công bằng, hợp lí, bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của các bên, trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật. Các đánh giá, kết luận
đưa ra phải dựa trên cơ sở pháp luật. Khi tiến hành giải quyết tranh chấp, TTV phải
tuân thủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 21 LTTTM 2010. Nếu
trọng tài viên không căn cứ vào pháp luật, nhận hối lộ hoặc có hành vi vi phạm đạo đức
trọng tài viên thì các bên có quyền yêu cầu thay đổi trọng tài hoặc có thể trở thành căn

cứ yêu cầu hủy quyết định trọng tài nếu bên yêu cầu chứng minh được ( Điều 68
LTTTM 2010). Tư tưởng chỉ đạo đối với trọng tài viên là pháp luật, chỉ có căn cứ vào
pháp luật, trọng tài viên mới giải quyết được các tranh chấp một cách vô tư, khách
quan. Có như vậy mới được các nhà kinh doanh tín nhiệm.
d - Nguyên tắc trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên:
Một trong những ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài là
các bên có tranh chấp được đảm bảo tối đa quyền tự do định đoạt trên nhiều phương
diện. Tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết tại Trọng tài nếu có thỏa thuận trọng
tài, hay nói cách khác, quyền hạn giải quyết tranh chấp của trọng tài là do các bên giao
5


cho. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất và xuyên suốt quá trình giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài. Khi giải quyết tranh chấp tại Trọng tài, ý chí tự do thỏa thuận của các bên
được đề cao. Các bên được tự do thỏa thuận về thẩm quyền của Trọng tài, về trình tự,
thủ tục giải quyết vụ tranh chấp, luật áp dụng, ngôn ngữ trọng tài, địa điểm trọng tài…
Các bên có quyền lựa chọn TTV để thành lập HĐTT giải quyết vụ việc; nếu nghi ngờ
tính vô tư , khách quan của TTV thì một hoặc các bên có thể yêu cầu thay đổi TTV.
Các bên tranh chấp tự quyết định về phạm vi yêu cầu đề nghị TTV giải quyết; được
quyền rút lại , thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu. Các bên còn lại được tự thỏa thuận để
hòa giải với nhau trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng.
e - Nguyên tắc giải quyết một lần:
Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp thương mại là nhanh chóng , dứt điểm,
tránh dây dưa kéo dài làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Với cách là một tổ
chức phi chính phủ, TTTM không có cơ quan cấp trên, phán quyết của trọng tài có giá
trị chung thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm như bản án sơ
thẩm của Tòa án và cũng không có thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm:”Phán quyết trọng
tài là chung thẩm””. (Khoản 5 Điều 4 LTTTM 2010). Phán quyết trọng tài là quyết
định cuối cùng về nội dung đơn kiện sau khi HĐTT đã nghiên cứu hồ sơ, thu nhập
chứng cứ, lấy lời khai nhân chứng, nghe các bên , tranh luận giữa các TTV và bỏ phiếu

theo nguyên tắc đa số. Trường hợp nêu không đạt được đa số thì phán quyết được lập
theo ý kiến của Chủ tịch HĐTT ( Điều 6 LTTTM 2010). Như vậy, các tranh chấp
thương mại chỉ được giải quyết một lần tại trọng tài.
Nếu bên phải thi hành quyết định trọng tài không có yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài nhưng cũng không tự nguyện thi hành thì bên được thi hành có quyền làm đơn
yêu cầu cơ quan có thẩm quyền buộc bên phải thi hành thi hành phán quyết trọng tài
( Khoản 1 Điều 66 LTTTM 2010). Ngoài ra, thông qua một loạt công ước quốc tế, đặc
biệt là Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành quyết định của Trọng
tài nước ngoài, các quyết định của Trọng tài sẽ được công nhận và thi hành tại hầu hết
6


các quốc gia, lãnh thổ trên thế giới. Đây là một ưu thế quan trọng của việc giải quyết
tranh chấp thương mại bằng Trọng tài.
4 – Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại:
Trọng tài thương mại được thành lập là để giải quyết các tranh chấp thương mại.
Nhưng tranh chấp thương mại cũng chỉ có thể thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng
tài thương mại nếu các bên có tranh chấp có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài
này có hiệu lực.
Như vậy, một tranh chấp sẽ thuộc thăm quyền giải quyết của trọng tài thương
mại khi có hai điều kiện sau;
Thứ nhất, tranh chấp được gửi đến trọng tài thương mại phải là tranh chấp
thương mại.
Thứ hai, giữa các bên có tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài.
Nếu thiếu một trong hai điều kiện trên, vụ việc sẽ không thuộc thẩm quyền giải quyết
của trọng tài thương mại.
II – ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CẢU TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI KHI
GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI:
1 – Ưu điểm:
Thứ nhất, phán quyết của trọng tài thương mại có tính chung thẩm: đa số các

quyết định trọng tài không bị kháng cáo, chỉ trừ trường hợp một bên trong tranh chấp
yêu cầu và có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 điều 68 luật trọng tài năm
2010 thì quyết định trọng tài bị hủy theo quyết định của tòa án.
Thứ hai, các quyết định trọng tài được công nhận quốc tế thông qua một loạt các
công ước quốc tế được kí kết đặc biệt là công ước New York năm 1958 về thi hành
quyết định trọng tài nước ngoài.
Thứ ba, cơ quan trọng tài hoàn toàn trung lập, các trọng tài viên có trình độ
chuyên môn cao. Để trở thành trọng tài viên thì cá nhân phải đáp ứng những yêu cầu
7


mà pháp luật quy định, theo luật trọng tài của nước CHXHCN Việt Nam năm 2010 thì
người đáp ứng đủ các yêu cầu quy định tại điều 20 thì có thể làm trọng tài viên.
Thứ tư, trọng tài thương mại mang tính linh hoạt, đảm bảo tốt hơn quyền tự định
đoạt của các bên. Nghĩa là các bên có quyền tự quyết định chọn hình thức tổ chức trọng
tài cũng như trọng tài viên mà mình ưa thích; có quyền lựa chọn địa điểm, thời gian sao
cho tiện với doanh nghiệp.
Thứ năm, trọng tài thương mại mang tính bí mật: các phiên họp giải quyết tranh
chấp của trọng tài không được tổ chức công khai và chỉ có các bên nhận được quyết
định. Đây là một ưu điểm lớn của phương thức trọng tài khi các tranh chấp liên quan
đến các bí mật thương mại và phát minh.
Thứ sáu, giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức trọng tài có thế
giúp các bên tiết kiệm được thời gian và chi phí hơn so với phương thức thông qua tòa
án. Trọng tài có thể tiến hành rất nhanh trong vòng vài tuần hoặc vài tháng nếu các bên
mong muốn. Trong hợp đồng với tổ chức trọng tài, các bên có thể thỏa thuận giới hạn
thời gian cần thiết để đưa ra quyết định trọng tài.
2 - Nhược điểm:
Thứ nhất là các trọng tài viên có thể gặp khó khăn trong quá trình điều tra, xác
minh và thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng vì tuy pháp luật có ghi nhận các
quyền này tại Điều 45, 46 và 47 Luật trọng tài thương mại năm 2010 nhưng quyền của

họ chỉ dừng lại ở mức được “yêu cầu” còn việc có cung cấp chứng cứ hay không phải
dựa vào sự tự nguyện và thiện chí của các bên và người làm chứng.
Thứ hai là trọng tài ad-hoc phải phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của các bên.
Nếu một bên không có thiện chí, quá trình tố tụng sẽ luôn có nguy cơ bị trì hoãn, và
nhiều khi không thể thành lập được Hội đồng Trọng tài bởi vì không có quy tắc tố tụng
nào được áp dụng và không có tổ chức nào giám sát việc tiến hành trọng tài và giám sát
các Trọng tài viên. Vì vậy, kết quả phần lớn phụ thuộc vào việc tiến hành tố tụng và
khả năng kiểm soát quá trình tố tụng của các Trọng tài viên. Cả Trọng tài viên và các
bên sẽ không có cơ hội nhận được sự ủng hộ và trợ giúp đặc biệt từ một tổ chức trọng
8


tài thường trực trong trường hợp phát sinh sự kiện không dự kiến trước và trong trường
hợp các Trọng tài viên không thể giải quyết được vụ việc. Sự hỗ trợ duy nhất mà các
bên có thể nhận được là từ các Tòa án.
Thứ ba là hình thức Trọng tài quy chế có nhược điểm là tốn kém nhiều chi phí.
Rõ ràng giải quyết tranh chấp tại Trọng tài quy chế, ngoài việc phải trả chi phí thù lao
cho các Trọng tài viên, các bên còn phải trả thêm các chi phí hành chính để nhận được
sự hỗ trợ của các trung tâm trọng tài. Ngoài ra trong một số trường hợp quá trình giải
quyết tranh chấp bị kéo dài mà Hội đồng Trọng tài các các bên bắt buộc phải tuân thủ
vì phải tuân theo các thời hạn theo quy định của Quy tắc tố tụng trọng tài làm giảm
hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
III – ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI 2010 SO VỚI PHÁP LỆNH TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 2003:
1. Luật Trọng tài thương mại đã khắc phục những tồn tại của Pháp lệnh Trọng
tài thương mại năm 2003 (Pháp lệnh TTTM): khắc phục việc phân định không rõ ràng
phạm vi thẩm quyền của Trọng tài đối với các tranh chấp thương mại, trên cơ sở đó
bảo đảm sự tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật Dân sự, Bộ
luật Tố tụng dân sự, Luật Thương mại, Luật Đầu tư và các luật chuyên ngành khác với
Luật Trọng tài thương mại (Luật TTTM). Luật TTTM đã dỡ bỏ hạn chế của Pháp lệnh

TTTM về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại của Trọng tài thông qua
việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan
đến quyền và lợi ích của các bên (Điều 2 Luật TTTM). Đây là một trong những điểm
mới quan trọng nhất của Luật TTTM so với Pháp lệnh TTTM và hoàn toàn phù hợp với
thực tiễn sử dụng Trọng tài của các nước trên thế giới.
2. Khắc phục sự không rõ ràng của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003
về các tình huống có thể làm vô hiệu thoả thuận trọng tài. Điều 18 của Luật TTTM
giới hạn 6 tình huống theo đó thoả thuận trọng tài vô hiệu. Đặc biệt, còn có quy định
trường hợp thỏa thuận trọng tài không rõ ràng thì bên khởi kiện (nguyên đơn) có quyền
được tự do lựa chọn tổ chức trọng tài thích hợp để khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi
9


ích hợp pháp của mình. Với quy định này sẽ ngăn chặn và giảm bớt tình trạng thỏa
thuận trọng tài bị vô hiệu hoặc tình trạng không có cơ quan nào giải quyết tranh chấp.
3. Luật TTTM có quy định tại Điều 17 nhằm bảo vệ người tiêu dùng trong việc
lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp.
Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng,
mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp
hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng
vẫn được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp
hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng
chấp thuận.
Quy định này dựa trên một thực tế là thông thường người tiêu dùng bị đặt ở một
vị thế có nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi các điều kiện và điều khoản trong hợp đồng in
sẵn của người bán hàng hoặc người cung cấp dịch vụ, do vậy cần có quy định bảo vệ
họ trong các tình huống cần thiết.
4. Kế thừa Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Điều 20 Luật TTTM có
các quy định về tiêu chuẩn tối thiểu đối với Trọng tài viên nhằm hình thành ở nước ta
một đội ngũ trọng tài viên nòng cốt có năng lực, có tính chuyên nghiệp, có chuyên môn

và uy tín xã hội. Theo đó, cá nhân có năng lực hành vi dân sự, có trình độ đại học trở
lên và đã qua thực tế công tác từ năm năm trở lên có thể là trọng tài viên. Đặc biệt,
Luật dành cho các Trung tâm trọng tài quyền được đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn đối
với các Trọng tài viên trong danh sách của mình. Tuy nhiên, về nguyên tắc, Trọng tài
viên trong trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài hoặc do
Trọng tài vụ việc giải quyết đều do các bên đương sự tự lựa chọn dựa trên niềm tin của
họ vào tính chuyên nghiệp, kiến thức chuyên môn, uy tín của cá nhân đó và trong
trường hợp đó thì nhà chuyên môn nào cũng có thể được các bên chọn làm Trọng tài
cho vụ việc của họ. Đó là quá trình sàng lọc mang tính xã hội.
Khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Luật
Trọng tài thương mại không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt Nam. Điều
đó có nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm trọng tài viên ở Việt
10


Nam nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm họ. Quy định này đáp ứng
nhu cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Về trọng tài quy chế, so với Pháp lệnh TTTM, Luật TTTM bổ sung một số
điểm mới sau đây:
Thứ nhất, Luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý về Trọng tài quy chế để thay cho
khái niệm “Hội đồng trọng tài được thành lập tại Trung tâm trọng tài” do Pháp lệnh
năm 2003 quy định. Theo đó, Trọng tài quy chế là hình thức trọng tài được tiến hành
tại Trung tâm trọng tài và theo quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài (khoản 6 Điều 3
Luật TTTM).
Thứ hai, Luật cho phép các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng
trọng tài phù hợp với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm để tăng
thêm tính hấp dẫn đối với các bên tranh chấp.
6. Cho phép các tổ chức trọng tài nước ngoài được mở chi nhánh, văn phòng đại
diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên (Chương XII với 07 Điều).

7. Nâng cao vị thế của Trọng tài thông qua việc cho phép Hội đồng Trọng tài
được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm
thời (Điều 47, 48, 49 và 50). Quy định của Luật đã tiếp thu quy định của Luật mẫu
UNCITRAL được thông qua năm 2006 nhằm giúp cho tố tụng trọng tài vận hành có
hiệu quả hơn.
8. Hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài bị Tòa án tuyên hủy bởi quy định
không phù hợp của Pháp lệnh TTTM như quy định về quyền của một bên được gửi đơn
lên Toà án yêu cầu huỷ quyết định trọng tài nếu “không đồng ý với quyết định trọng
tài”, bởi vì các quy định này của Pháp lệnh đã làm cho tố tụng trọng tài trở nên rất rủi
ro và làm mất đi tính chung thẩm của phán quyết trọng tài mà pháp luật của hầu hết các
nước đều công nhận.
9. Luật TTTM là đã tiếp thu nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn trong tố tụng là
nguyên tắc rất quan trọng đã hình thành lâu đời trong pháp luật tố tụng của các nước
phát triển. Quy định mới của Luật (Điều 13) xác định, khi một bên nhận thấy những
11


quy định của Luật hoặc của thoả thuận trọng tài bị vi phạm mà vẫn tiếp tục thực hiện tố
tụng trọng tài và không phản đối vi phạm đó trong thời hạn luật định thì mất quyền
phản đối tại Trọng tài hoặc Toà án. Quy định này nhằm ngăn chặn một cách có hiệu
quả các hành vi cơ hội trong tố tụng trọng tài.
10. Một trong những điểm quan trọng nhất của Luật TTTM là thể hiện rõ nét
mối quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ tranh
chấp của các bên. Luật đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định mối quan
hệ pháp lý quan trọng này: xác định rõ Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng
tài và liệt kê 8 nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng tài bao gồm:
thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán quyết trọng tài; tuyên thoả thuận
trọng tài vô hiệu; xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; giải quyết và yêu cầu
huỷ phán quyết trọng tài; bảo đảm sự có mặt của người làm chứng; áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời; chỉ định, thay đổi trọng tài viên. Quy định tại các điều luật khác liên

quan đã cụ thể hoá nội dung những thẩm quyền này của Toà án. Quy định này đã khắc
phục được những bất cập của Pháp lệnh TTTM, tạo điều kiện để các Tòa án và Hội
đồng trọng tài cũng như các bên tranh chấp tránh được lúng túng trong các trường hợp
cụ thể, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để trọng tài hoạt động có hiệu quả.
11. Quy định phù hợp hơn về thủ tục Tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài
Khác với Pháp lệnh TTTM, thủ tục tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng
tài theo Luật TTTM chỉ có một cấp và có giá trị chung thẩm. Luật quy định một Hội
đồng gồm 03 thẩm phán xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài và quyết định
của Hội đồng là chung thẩm có hiệu lực thi hành ngay là phù hợp (Điều 71).
12. Nhằm khuyến khích hoạt động của các tổ chức trọng tài, tạo điều kiện cho
các Trọng tài viên nâng cao trình độ nghiệp vụ trọng tài, bảo vệ các quyền và thực hiện
tốt nghĩa vụ, Luật TTTM có 01 điều quy định về việc thành lập Hiệp hội trọng tài. Hiệp
hội trọng tài là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Trọng tài viên và các Trung tâm trọng
tài. Việc thành lập và hoạt động của Hiệp hội trọng tài được thực hiện theo quy định
của pháp luật về hội nghề nghiệp (Điều 22 Luật TTTM).
12


IV – THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG
MẠI TẠI TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN:
1 – Thực trạng:
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả và khá
thông dụng trên thế giới, song tại Việt Nam trọng tài thương mại lại rất mờ nhạt. Con
đường tài phán này hiện không nhận được sự quan tâm của doanh nghiệp. Thực tiễn áp
dụng việc giải quyết các tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại được thể hiện
qua các khía cạnh sau:
- Về phía các trung tâm trọng tài: Hiện nay trên cả nước chỉ có 6 trung tâm trọng
tài. Theo thống kê, trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) mỗi năm chỉ xử lý

được 20 – 25 vụ, các trung tâm trọng tài khác khoảng 5 – 7 vụ, thậm chí còn có trung
tâm trọng tài không có vụ nào. Các tổ chức trọng tài thương mại hiện nay thực sự yếu
cả về tổ chức, chất lượng cũng như năng lực trọng tài viên.
- Về phía các doanh nghiệp: theo tài liệu thống kê, có đến 84% doanh nghiệp
không biết đến việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Điều này cũng dễ hiểu bởi còn
nhiều doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh theo lối cũ, khi xảy ra tranh chấp thì nhờ cơ
quan chủ quản hoặc bộ chủ quản giải quyết. Bên cạnh đó, theo thống kê của trung tâm
trọng tài quốc tế Việt Nam, trong khoảng 2 năm trở lại đây, trong các vụ tranh chấp
thương mại, có đến gần 60% các vụ tranh chấp xảy ra giữa các doanh nghiệp trong
nước và đối tác nước ngoài. Và doanh nghiệp Việt Nam thường thua thiệt trước các
doanh nghiệp nước ngoài do thiếu kinh nghiệm thương trường và kém hiểu biết về
trọng tài thương mại. Thông thường, các điểu khoản về giá cả, chất lượng hàng hóa,
thời gian giao hàng, phương thức thanh toán… vẫn được các doanh nghiệp chú trọng
hơn là các điều khoản về giải quyết tranh chấp. Chính tâm lý đó đã tạo ra những sai sót
không đáng có cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng.
- Về phía các trọng tài viên: Các trọng tài viên hiện nay hầu hết đều là
nhhuwngx người kiêm nhiệm trong các lĩnh vực thương mại. Vì vậy một số trọng tài
13


viên còn chưa chuyên nghiệp. Cùng với đó, các tranh chấp ngày càng sâu và phức tạp,
nhất là những tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Hiện nay cũng tồn tại thực trạng có một
số ít trọng tài viên chưa nắm chắc kiến thức pháp luật quốc tế bao gồm luật các nước và
các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã là thành viên hoặc sắp là thành viên, từ đó sẽ ảnh
hưởng đến chất lượng xét xử.
2 – Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trong tài:
LTTTM năm 2010 mới ra đời đã mang đến nhiều quy định mới tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động của TTTM. Sau đây là một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định của pháp luật vào việc giải quyết tranh chấp thương mại

bằng trọng tài thương mại:
- Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về trọng tài thương mại. Cần có
những văn bản hướng dẫn chi tiết, dễ hiểu để tránh sự nhầm lẫn cho các chủ thể khi áp
dụng trong thực tế.
- Đảm bảo cơ chế thực hiện những quy định của LTTTM năm 2010 về sự hỗ trợ
của Tòa án, Viện Kiểm sát, cơ quan thi hành án đối với TTTM. Không phải là một cơ
quan Nhà nước nên hoạt động của TTTM không có tính quyền lực Nhà nước. Điều này
gây không ít khó khăn cho các TTV khi giải quyết tranh chấp cũng như khó khăn cho
các thương nhân khi yêu cầu thi hành phán quyết của trọng tài. Để đảm bảo hoạt động
của trọng tài được hiệu quả, rất cần có sự hỗ trợ của Nhà nước mà cụ thể là Tòa án,
Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án đối với hoạt động trọng tài.
- Các doanh nghiệp cần phải trang bị thật kĩ cho mình những kiến thức về trọng
tài thương mại. Khi ký kết hợp đồng cần lưu ý phải ghi rõ trung tâm trọng tài nào sẽ xử
lý khi tranh chấp xảy ra. Các tranh chấp càng chi tiết càng tốt.
- Để cơ chế trọng tài trở thành một thành tố không thể thiếu trong hoạt động
thương mại thời gian tới, các trung tâm trọng tài nói chung và VIAC nói riêng vẫn cần
phải liên tục khẳng định năng lực xét xử của mình. Các trung tâm trọng tài cần tiến tới
14


không chỉ là chỗ dựa tin cậy của doanh nghiệp Việt Nam mà còn có thể là sự lựa chọn
của các doanh nghiệp nước ngoài trong các giao thương quốc tế.
- Cần nâng cao hơn nữa trình độ, năng lực của các trọng tài viên. Tăng cường tập
huấn, đào tạo thêm kĩ năng nghiệp vụ về tố tụng trọng tài. Đồng thời tranh thủ và tận
dụng sự hỗ trợ của Nhà nước về kinh phí và trụ sở…
- Nâng cao hiểu biết của các thương nhân về hoạt động của TTTM và khuyến
khích các thương nhân giải quyết tranh chấp bằng TTTM.

15



C – KẾT LUẬN:
Muốn khắc phục những hạn chế của giải quyết tranh chấp Trọng tại tại Việt Nam
trước hết phải bắt đầu bằng việc xác định lại và định hướng thay đổi tâm lý doanh
nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, những doanh nghiệp được điều hành bởi
những con người mới nhưng chịu sức ép từ những điểm tồn cùa văn hóa truyền thống –
nét văn hóa có cái gốc là văn hóa nông nghiệp và một cơ chế có thể nói là chưa được
thông thoáng. Có thể đây cũng là xu thế tất yếu, có cầu ắt sẽ có cung, một khi doanh
nghiệp ý thức được những lợi thế trong các con đường giải quyết tranh chấp thì cơ chế
pháp lý sẽ thay đổi, chỉ khi đó các Trung tâm Trọng tài mới có thể chuyển mình mạnh
mẽ trong các lối đi mới.

16


A – LỜI MỞ ĐẦU:
Trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, khi các doanh nghiệp ngày càng có
điều kiện được thành lập với nhiều hình thức khác nhau và trong nhiều ngành nghề
khác nhau thì việc liên kết, hợp tác hay thậm chí là cạnh tranh nhau đang ngày càng trở
nên phổ biến. Bên cạnh những hợp đồng hợp tác, những giao kết “thuận buồm xuôi
gió” vẫn còn tồn tại khá nhiều những mâu thuẫn, bất đồng thậm chí vi phạm quyền lợi
lẫn nhau giữa các doanh nghiệp. Từ đó gây ra những thiệt hại cho các bên và cho cả
nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, thuật ngữ “tranh chấp thương mại” hay “tranh
chấp kinh doanh” đã là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước
trên thế giới và mới được sử dụng rộng rãi, phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây.
Trong bối cảnh hội nhập này, sự ra đời của trọng tài thương mại - một tổ chức xã
hội - nghề nghiệp do các trọng tài viên thành lập trên cơ sở giấy phép của Bộ Tư pháp
nhằm giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh – là điều
phù hợp và tất yếu. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu về: “Phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại bằng trọng tài thương mại và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam”


17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1 – Luật trọng tài thương mại năm 2010;
2 – Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003;
3 – Giáo trình Luật thương mại (tập 2), Tường đại học Luật Hà Nội, NXB. CAND, Hà
Nội, 2009;

18


MỤC LỤC:
STT
ABI1ab2ab3abcde4II 12III IV 12C-

NỘI DUNG
Lời mở đầu
Nội dung
Khái quát chung về trọng tài thương mại
Khái niệm, đặc điểm của trọng tài thương mại
Khái niệm
Đặc điểm
Các hình thức trọng tài thương mại
Trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc)
Trọng tài thường trực (trọng tài quy chế)
Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
thương mại
Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài

Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan
Nguyên tắc trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật
Nguyên tắc trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên
Nguyên tắc giải quyết một lần
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại
Ưu điểm và nhược điểm của trọng tài thương mại khi giải quyết các
tranh chấp thương mại
Ưu điểm
Nhược điểm
Đánh giá một số điểm mới của Luật Trọng tài thương mại năm 2010
so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003
Thực trạng áp dụng việc giải quyết các tranh chấp thương mại tại
trọng tài thương mại và giải pháp hoàn thiện
Thực trạng
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trong tài
Kết luận

19

TRANG
1
1
1
1
2
3
3
3
3

3
4
5
5
6
7
7
7
8
9
13
13
14



×