Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Nguyên tắc cơ bản của hệ thống thương mại WTO và các vấn đề đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.47 KB, 27 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới đã đóng góp rất nhiều cho thế
giới loài người. Tăng năng suất lao động góp phần đáp ứng các nhu cầu của con
người cả về vật chất lẫn tinh thần. Làm cho con người ở các quốc gia khác nhau
gần nhau hơn về văn hoá – chính trị. Những xu hướng toàn cầu hoá với những ưu
điểm của mình còn bộc lộ nhiều nhược điểm. Sự phát triển mạnh mẽ của hội nhập
kinh tế thế giới đã làm tiêu tan ranh giới của các quốc gia. Các quốc gia không chỉ
tiếp thu những cái hay những cái xấu của quá trình hội nhập như Thái Lan với
chính sách mở cửa của mình. Làm cho nền kinh tế phát triển mạnh đứng đầu Đông
Nam Á nhưng bù lại họ cũng là nước đứng đầu về số người mắc bệnh sida. Thái
Lan đã chấp nhận điều này để có thể phát triển mạnh nền kinh tế của mình. Nhưng
Việt Nam của chúng ta thì sao cũng là một nước trong khu vực Đông Nam Á.
Trong những năm gần đây nền kinh tế của nước ta đã có nhiều thay đổi do chúng ta
đã thực hiện nhiều cải cách kinh tế cho phù hợp với nền kinh tế thế giới. Nhưng
chúng ta không như Thái Lan, chúng ta hoà nhập nhưng không hoà tan, một mặt
phát triển nền kinh tế thế giới mặt khác khắc phục những nhược điểm của xu thế
toàn cầu hoá như vậy có thể nói xu thế toàn cầu hoá bắt nguồn từ sự phát triển của
lực lượng sản xuất, từ tính chất xã hội của nền sản xuất trên quy mô quốc tế. Với
nền kinh tế toàn cầu hoá việc tổ chức sản xuất và khai thác thị trường trong phạm
vi một nước đã nhanh chóng chuyển sản xuất hàng hoá và khai thác thị trường trên
phạm vi toàn thế giới và theo đó sự phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng
đều vượt ra ngoài biên giới quốc gia dân tộc. Toàn cầu hoá ngày nay là sản phẩm
của nền văn minh nhân loại và do đó là cơ hội để mọi quốc gia đón nhận, tự nguyện
hội nhập và góp sức mình thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế toàn cầu

1


B. NỘI DUNG
I. Nguyên tắc cơ bản của hệ thống thương mại WTO và các vấn đề đặt ra.
1. Những nguyên tắc cơ bản của WTO.


Các nguyên tắc thương mại của WTO bao gồm 29 văn bản pháp lý riêng
biệt, bao trùm mọi lĩnh vực từ nông nghiệp, dệt may, dịch vụ, mua sắm của Chính
phủ đến các quy tắc về xuất xứ và sở hữu trí tuệ; ngoài ra còn có 25 tuyên bố bổ
sung, quyết định và văn bản ghi nhớ ở cấp bộ trưởng quy định những nghĩa vụ và
cam kết khác của các thành viên WTO. Đặc biệt, có một số nguyên tắc cơ bản
xuyên suốt nội dung các văn bản này, đó là: không phân biệt đối xử, 2 bên cùng có
lợi, những cam kết thực hiện mang tính pháp lý, tính minh bạch, và nguyên tắc bảo
hộ.
a. Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Nguyên tắc không phân biệt đối xử là nguyên tắc bao trùm nhất của WTO và
được áp dụng như một nguyên tắc cơ bản trong các hiệp định thương mại song
phương và đa phương. Nguyên tắc này có 2 hợp phần chính: đó là quy chế tối huệ
quốc và quy chế đãi ngộ quốc gia. Quy chế tối huệ quốc (MNF) quy định các bên
tham gia ký kết trong quan hệ buôn bán sẽ dành cho nhau những điều kiện ưu đãi
mà mình đã và sẽ dành cho các nước khác. Điều đó có nghĩa là: một sản phẩm
được sản xuất ở 1 nước thành viên phải được đối xử bình đẳng như một hàng hoá
tương tự với nó có nguồn gốc ở bất kỳ một quốc gia nào khác. Khi 2 nước có sự
thoả thuận về ưu đãi mậu dịch, cũng có nghĩa là thoả thuận đó sẽ có hiệu lực áp
dụng cho tất cả các nước thành viên tham gia. Quy chế đãi ngộ quốc gia (NT) quy
định đối với những hàng hoá nước ngoài (nhập khẩu), ngay sau khi thoả mãn các

2


thủ tục hải quan ở biên giới phải được đối xử bình đẳng như hàng hoá tương tự sản
xuất trong nước về phương diện thuế nội địa. Điều đó có nghĩa là, hàng hoá có
nguồn gốc xuất xứ từ nước ngoài được lưu thông trong nước phải chịu các loại
thuế, các khoản thu và những quy định bình đẳng như đang được áp dụng cho
những hàng hoá tương tự có xuất xứ trong nước. Nguyên tắc này xác định chuẩn
mực công bằng giữa các nước nhằm hạn chế sự bảo hộ sản xuất trong nước thông

qua chính sách thuế và phí nội địa.Nguyên tắc 2 bên cùng có lợi quy định nếu một
nước có các biện pháp mở cửa thị trường như hạ thấp thuế nhập khẩu, xoá bỏ một
phần hay toàn bộ hàng rào phi thuế quan đối với hàng nhập khẩu... thì họ có quyền
đòi hỏi các nước thành viên khác cũng có những nhượng bộ tương tự. Nguyên tắc
này yêu cầu các nước thành viên phải tìm cách cân bằng những lợi ích thu được và
nghĩa vụ của mình đối với các nước khác trong các đàm phán song phương và đa
phương.
Những hiệp định và cam kết về tự do hoá thương mại tuân theo các nguyên
tắc nhất định của cuộc chơi sẽ có rất ít giá trị nếu chúng không được thực hiện
nghiêm chỉnh. Những cam kết về thuế quan được các thành viên WTO xây dựng
trong vòng đàm phán thương mại đa phương và sự cắt giảm thuế quan được liệt kê
dần trong lịch trình cắt giảm tạo ra những “ràng buộc trần”. Một khi các cam kết về
thuế quan được quy định, điều quan trọng là sẽ không được sử dụng các phương
sách phi thuế quan khác có tác động làm vô hiệu hoá hoặc làm giảm giá trị của việc
cắt giảm thuế quan.
b. Nguyên tắc công khai minh bạch
Yêu cầu tất cả các luật và chính sách tác động đến thương mại được ban
hành phải có tính hợp lý để giảm sự tuỳ tiện, tránh tham nhũng. Các nước thành
viên phải đưa ra những quy định đối xử công bằng với các bạn hàng, giảm bớt bảo

3


hộ mậu dịch, luật lệ thương mại, các thủ tục hành chính liên quan đến quá trình
nhập khẩu, loại trừ các biện pháp mang tính bảo hộ quá mức.Theo quy định của
WTO, các nước thành viên được áp dụng hành động tự vệ trong một số trường hợp
đặc biệt: khi lượng tăng hàng nhập khẩu có thể đe doạ hoặc gây tổn hại nghiêm
trọng cho các nhà sản xuất trong nước; khi có hoạt động bán phá giá, hoặc nước
xuất khẩu áp dụng các biện pháp trợ cấp mà không được phép. Các biện pháp áp
dụng có thể là nâng cao mức thuế quan, ban hành các loại thuế chống bán phá giá,

thuế đối kháng, thực hiện phụ thu đối với hàng nhập khẩu, hoặc những quy định về
hạn chế định lượng.
2. Những vấn đề đặt ra
Chính sách thương mại hiệu quả là trọng tâm để các nước tiến tới hội nhập
với hệ thống kinh tế quốc tế và có được sự tăng trưởng do hội nhập mang lại. Trong
đó, chính sách thuế là tâm điểm của chính sách thương mại trong hệ thống thị
trường. Mặc dù thương mại quốc tế nói chung đưa lại những lợi ích to lớn, nhưng
với nhiều lý do khác nhau, mỗi quốc gia có chủ quyền đều có hệ thống chính sách
thuế riêng thể hiện ý chí và mục tiêu của mình trong việc can thiệp và điều chỉnh
các hoạt động thương mại quốc tế có liên quan đến nền kinh tế quốc gia. Do sự
phát triển không đồng đều giữa các quốc gia, do môi trường kinh tế quốc tế còn
chịu sự chi phối của nhiều mối quan hệ chính trị và các mục tiêu phi kinh tế khác,
cho nên chính sách thuế của mỗi quốc gia cũng phải đáp ứng nhiều mục tiêu khác
nhau. Nhiệm vụ của chính sách thuế của mỗi quốc gia có thể thay đổi qua mỗi thời
kỳ nhưng đều có mục tiêu chung là điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế
theo chiều hướng có lợi cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Khi gia nhập
WTO, chính sách thuế của mỗi quốc gia còn có thể ảnh hưởng đến nhiều quốc gia
khác, bởi vậy nó chịu sự chi phối bởi các nguyên tắc thương mại của WTO. Những

4


vấn đề chủ yếu đặt ra đối với hệ thống thuế của các nước thành viên khi gia nhập
WTO là:
a. Đảm bảo thực hiện đúng các cam kết và thông lệ quốc tế, đồng thời vẫn
đảm bảo được tính đặc thù ở từng bước
Tư cách thành viên của WTO đã dẫn đến các cuộc cải cách cụ thể về hệ
thống chính sách thuế. Để là thành viên của WTO, các nước phải chấp thuận một
tập hợp nhất định các quy tắc, thể chế như: không phân biệt đối xử trong chính sách
thương mại và công nghiệp, minh bạch trong công bố các quy tắc thương mại, bảo

hộ quyền tác giả và bằng sáng chế phù hợp với quy định của WTO, các ràng buộc
về thuế quan đã cam kết trong các vòng đàm phán... Đồng thời, trong quá trình phát
triển có thể xuất hiện những xu hướng và biến đổi chung, khi đó nền kinh tế cũng
cần phải có những chuyển biến thích hợp. Mặt khác, không có sự tồn tại những mô
hình kinh tế giống hệt nhau, do vậy, hệ thống chính sách thuế phải đảm bảo thực
hiện đúng các cam kết và thông lệ quốc tế, đồng thời, vẫn đảm bảo được tính đặc
thù riêng cơ ở từng quốc gia thành viên. Chỉ có như vậy, mỗi nước mới có thể hoàn
toàn chủ đồng trong quá trình hội nhập, khai thác những lợi thế và thế mạnh của
mình nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và thực hiện tự do hoá thương mại.

b. Đảm bảo sự ổn định nguồn thu ngân sách
Tự do hoá thương mại đã tác động đến nguồn thu ngân sách, đặc biệt ở các
nước đang phát triển. Trên thực tế, tác động của tự do hoá thương mại tới nguồn
thu ngân sách phụ thuộc vào những cải cách thương mại được thực hiện và hoàn
cảnh ban đầu của từng nước.

5


c. Thuế quan hoá các hàng rào phi thuế quan
Các hàng rào phi thuế quan bao gồm một loạt các biện pháp như hạn ngạch, các
lệnh cấm, giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu, và độc quyền thương mại nhà nước.
Hạn ngạch và các lệnh cấm không mang lại nguồn thu cho ngân sách và tạo ra
nhiều cơ hội cho các hành vi trục lợi hoặc buôn lậu. Thuế quan hoá bao hàm việc
thuế quan sang các đại lượng tương đương thuế quan sẽ làm tăng thu cho ngân sách
nhà nước. Phương pháp được sử dụng là tính “khoảng cách giá”, tức là sự khác
nhau bằng tiền giữa giá tham khảo của hàng hoá trong nước và ngoài nước, được
biểu thị như một loại thuế đặc định, loại thuế này có thể được tính theo trị giá, hoặc
trong một số trường hợp, tính như thuế hỗn hợp. Sự chuyển đổi hạn ngạch thuế
quan tương đương hoặc xoá bỏ các lệnh cấm sẽ có ảnh hưởng tích cực ngay lập tức

tới các khoản thu ngân sách, trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, vì các
khoản đặc lợi được chuyển cho Chính phủ dưới dạng các khoản thuế gián thu. Vì
vậy, các nước cần sớm thực hiện các biện pháp để thuế quan hoá các hàng rào phi
thuế quan khi thực hiện tự do hoá thương mại.
d. Loại bỏ việc miễn thuế (không bao gồm các chương trình hoàn thuế xuất
khẩu) và trợ cấp liên quan đến thương mại
Việc miễn thuế quan, đặc biệt là miễn thuế tuỳ tiện, không chỉ khuyến khích
các nhà nhập khẩu tìm kiếm sự miễn thuế hơn nữa, mà còn làm tăng động cơ phân
loại các sản phẩm chịu thuế thành các sản phẩm miễn thuế, có ảnh hưởng tiêu cực
đến nguồn thu. Loại bỏ các quy định về miễn thuế tuỳ tiện và các trợ cấp khác sẽ có
tác động tích cực trực tiếp tới nguồn thu ngân sách đồng thời góp phần cải thiện
công tác quản lý.

6


e. Cắt giảm thuế và giảm bớt tốc độ phân tán của thuế quan
Tác động tài khoá của việc cắt giảm thuế quan còn phụ thuộc vào mức thuế
ban đầu và phạm vi đánh thuế, kể cả mức độ giảm thuế. Về nguyên tắc, với mức
nhập khẩu không đổi, khi giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu sẽ làm giảm nguồn
thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, mức thuế suất thấp hơn có thể
làm tăng nhu cầu nhập khẩu, và sẽ tác động thuần tới nguồn thu. Tác động này phụ
thuộc vào độ co giãn theo giá của nhu cầu nhập khẩu. Độ co giãn càng cao thì càng
có tác động tích cực tới các khoản thu ngân sách. Hơn nữa, cắt giảm thuế nhập
khẩu là nhân tố làm tăng kim ngạch xuất khẩu và thúc đẩy sản xuất trong nước, từ
đó tạo ra khả năng tăng nguồn thu ngân sách nhà nước. Đồng thời, việc cắt giảm
thuế nhập khẩu làm giảm giá hàng nhập khẩu đối với các nguyên vật liệu, giảm chi
phí đầu vào của các ngành sản xuất, góp phần hạ giá thành sản phẩm, tăng sản
lượng sản xuất. Điều này dẫn đến khả năng tăng thu ngân sách ở một số loại thuế
khác.

Ở các nước có mức thuế quan cao, hành động trốn thuế thông qua việc áp
mã sai, buôn lậu hoặc tránh nộp thuế được diễn ra phổ biến. Việc hạ thấp mức thuế
quan có khả năng tạo ra nguồn thu cao hơn vì đã làm giảm chi phí thực thi và tăng
lượng hàng hoá mua bán chịu thuế do các hoạt động buôn lậu giảm bớt. Nói rộng
hơn, sự giảm bớt mức độ phân tán của thuế quan sẽ có xu hướng làm tăng nguồn
thu vì giảm các động cơ trốn thuế.
Một hệ thống thuế quan đồng nhất, hoặc chỉ vài nhóm thuế suất, sẽ giảm
thiểu việc trốn thuế, giảm chi phí hành thu do giảm bớt khả năng áp mã sai và các
sai sót khi định giá. Đồng thời, việc đơn giản hoá cấu trúc thuế quan có thể làm
tăng tính minh bạch và làm giảm bớt sự méo mó trong thương mại và sản xuất. Đa
số các thành viên của WTO đều áp dụng mức thuế suất là 0% cho nguyên liệu thô,

7


thuế suất từ thấp đến vừa phải cho các sản phẩm trung gian và thuế suất cao hơn
cho thành phẩm. Điều này sẽ làm tăng tính hiệu quả của chính sách thuế, thúc đẩy
thương mại và sản xuất phát triển.
Nếu một nước đã thực hiện cải cách thương mại đáng kể, tại thời điểm nào
đó, việc cắt giảm hơn nữa thuế suất thuế nhập khẩu sẽ làm giảm nguồn thu, ít nhất
trong ngắn hạn. Tuy nhiên với các lợi ích tăng trưởng dài hạn của cải cách thương
mại, hành động thích hợp nhất là bù đắp sự giảm sút nguồn thu bằng các loại thuế
khác ít bóp méo và có cơ sở tính thuế rộng hơn. Các sắc thuế gián thu khác (ngoài
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu) nên được áp dụng bình đẳng cho cả hàng hoá sản
xuất trong nước và hàng nhập khẩu. Khi đó, sự bóp méo gây ra đối với nền kinh tế
do đánh thuế cả hàng nhập khẩu và hàng hoá sản xuất trong nước là ít hơn so với
trường hợp chỉ đánh thuế đối với hàng nhập khẩu, và việc đánh thuế ở cả 2 khâu sẽ
tạo ra nguồn thu lớn hơn.
Đối với các nước đang phát triển mà tỷ trọng các loại thuế gián thu trong
tổng thu ngân sách thường là cao, việc giảm mức thuế quan bình quân sẽ có ảnh

hưởng tiêu cực tới nguồn thu và làm cản trở đến quá trình tự do hoá thương mại
tiếp theo. Trong trường hợp này, việc huy động các nguồn thu khác và đa dạng hoá
nguồn thu thuế ngoài thuế gián thu là quan trọng, nhưng có thể sẽ là một quá trình
lâu dài, đòi hỏi phải sớm hướng tới một cơ sở thuế rộng hơn. Các biện pháp tự do
hoá thương mại sẽ có tác động tích cực hoặc trung lập đến nguồn thu ngân sách.
Trên thực tế, cần thúc đẩy nhanh hơn nhu cầu sử dụng các nhân tố làm tăng nguồn
thu, đặc biệt là thuế quan hoá các hàng rào phi thuế quan và cắt giảm diện miễn
thuế.

8


f. Đảm bảo sự ổn định của thị trường trong nước
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình mở cửa, tự do hoá nền kinh tế, hay nói
khác đi là quá trình đưa nền kinh tế ra đương đầu với thế giới bên ngoài, nên một
trong những thách thức lớn nhất có thể xảy ra là các rủi ro đối với nền kinh tế.
Trong mọi trường hợp, chính sách tài chính nói chung và chính sách thuế nói riêng
phải góp phần ngăn ngừa và hạn chế tới mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra đối
với nền kinh tế.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc tuân thủ các điều ước quốc tế
và tham gia dỡ bỏ các biện pháp thuế quan và phi thuế quan có tính chất bóp méo
thương mại là một trong những yêu cầu tất yếu. Mặt khác, khi thuế quan giảm có
thể tác động đến thị trường trong nước, mức bảo hộ với các ngành nghề cũng giảm
đi, những ngành kém sức cạnh tranh quốc tế dễ rơi vào tình trạng kinh doanh khó
khăn. Gia nhập WTO sẽ kéo theo những thách thức cho một số ngành nghề lâu nay
dựa vào bảo hộ của nhà nước, giá thành sản phẩm cao, sức cạnh tranh trên thị
trường kém. Vì vậy, việc tạm thời bảo hộ một số ngành sản xuất trong nước cũng là
một việc làm chính đáng. Về lý thuyết, WTO chỉ thừa nhận các loại thuế quan như
thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và các biện pháp tự vệ là công cụ bảo
hộ hợp pháp duy nhất. Nhưng trên thực tế, các nước vấn không ngừng sử dụng các

biện pháp phi thuế quan mới, vừa đạt được mục đích bảo hộ, vừa không trái với
thông lệ quốc tế. Mỗi công cụ có những điểm mạnh, yếu riêng nên chúng thường
được sử dụng bổ sung cho nhau. Biện pháp thuế quan thì rõ ràng, ổn định, dễ dự
đoán, dễ đàm phán cắt giảm mức bảo hộ nhưng lại không tạo được rào cản nhanh
chóng, tức thời. Biện pháp phi thuế quan thì đa dạng, đa dụng nhưng lại không rõ
ràng và khó dự đoán, khó khăn tốn kém trong quản lý. Nếu biết kết hợp hài hoà hai
công cụ này, sản xuất trong nước sẽ được bảo hộ, hỗ trợ có thời hạn để nâng cao

9


năng lực cạnh tranh, từng bước thích nghi với các định chế và nguyên tắc chung
của môi trường thương mại quốc tế. Xu hướng chung trong việc sử dụng các biện
pháp phi thuế quan để bảo hộ sản xuất trong nước là chuyển từ các biện pháp hạn
chế số lượng sang các biện pháp tinh vi hơn, không trái với các cam kết quốc tế,
dựa trên các tiêu chuẩn kỹ thuật, các quy định về xuất xứ, nhãn hiệu, môi trường
lao động...
g. Củng cố chính sách thuế và những thể chế trong nước để tham gia vào
thương mại quốc tế
Trật tự mang tính pháp chế là một đặc trưng cơ bản của WTO đối với các
thành viên. Nghĩa vụ được đặt ra với các nước không chỉ là cắt giảm các hàng rào
thương mại nói chung mà còn bao gồm việc thực hiện các cải cách đáng kể trong
hệ thống chính sách thuế nói riêng để tham gia vào thương mại quốc tế về hàng hoá
và dịch vụ. Môi trường chính sách chất lượng cao là một môi trường cung cấp
những tín hiệu rõ ràng cho các nhà sản xuất và các nhà đầu tư, ngăn chặn sự trục
lợi, không lãng phí các nguồn lực kinh tế, phù hợp với năng lực hành chính của các
nước, và duy trì được sự ổn định trong nước. Mục tiêu của cải cách hệ thống chính
sách thuế nói riêng và chính sách thương mại nói chung là nhằm tạo ra được một
môi trường chính sách chất lượng cao.
Mặc dù có những khác biệt rất lớn về môi trường thể chế và chính sách thuế

giữa các nước xin gia nhập WTO, nhưng nhiều nước và các nền kinh tế đang phát
triển phải đối mặt với nhiều thách thức khá giống nhau khi thiết lập hệ thống chính
sách thuế và những thể chế cần thiết nhằm thực hiện những cam kết gia nhập WTO.
Thách thức lớn nhất là sự cần thiết phải đưa ra các bộ luật và thể chế cho sự hoạt
động của các doanh nghiệp tư nhân và thị trường tự do không chịu sự kiểm soát của

10


nhà nước – ngoài những quy định của WTO. Chính vì vậy, cần xây dựng một hệ
thống chính sách thuế thống nhất áp dụng đối với mọi thành phần kinh tế.
Hơn nữa, trong phạm vi những nguyên tắc và luật lệ của WTO, mỗi nước có
sự lựa chọn phù hợp về mức độ hạn chế hoặc tự do hoá chế độ thương mại của
mình. Về nguyên tắc, thực hiện tự do hoá thương mại đồng nghĩa với việc xóa bỏ
các hàng rào thuế quan. Không có những quy tắc cụ thể như mức độ tối đa mà một
nước phải giới hạn mức thuế quan của mình, bao nhiều ngành dịch vụ sẽ được tự
do hoá, nước đó có muốn đưa ra quy định về chống bán phá giá hay không hoặc
phải tự do hoá nông nghiệp nhanh như thế nào. Do đó các nước cần đưa ra sự lựa
chọn chiến lược trong suốt giai đoạn đàm phán: tự do hoá chế độ thương mại như
thế nào để phù hợp với những nguyên tắc của WTO. Việc chấp nhận các nguyên
tắc của WTO có thể góp phần gia tăng sự an toàn và khả năng dự đoán khi tiếp cận
thị trường. Bên cạnh đó, xu hướng phát triển của thương mại thế giới ngày càng trở
nên phong phú, đa dạng và phức tạp. Để thực sự tham gia đầy đủ vào cuộc chơi của
thế giới, ảnh hưởng của các xu hướng phát triển trong thương mại quốc tế tới chính
sách thương mại dịch vụ, thương mại đầu tư, thương mại sở hữu trí tuệ... của các
nước thành viên là những nhân tố cần phải tính đến. Chính sách thuế là một trong
những yếu tố quan trọng của chính sách thương mại ở các nước, có tác động một
cách trực tiếp và hiệu quả đến hoạt động thương mại nói chung. Chỉ có nắm bắt
được tính chất và nội dung của các xu hướng phát triển trong thương mại quốc tế,
các nước mới có thể định hình một cách tương đối chuẩn xác chính sách và pháp

luật về thuế để phục vụ có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế thương mại thế giới.

11


II. Những thách thức đối với Việt Nam.
Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế đã phát triển ngày càng mạnh mẽ, thu hút sự quan tâm nghiên cứu
của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều chuyên gia ở mọi quốc gia trên thế
giới.Trong bối cảnh đó, Đảng ta khẳng định cần phải: “Chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân
tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”. Tham
gia WTO là việc đã được Việt Nam đặt ra từ năm 1995 khi tổ chức này ra đời. Cho
đến nay, tiến trình hội nhập của Việt Nam đã đạt được những thắng lợi quan trọng
bước đầu, tuy nhiên vẫn còn không ít khó khăn thách thức trước mắt trên con
đường hội nhập đầy chông gai của ta.
1. Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam
Ngày 4/1/1995, Việt Nam chính thức gửi đơn xin gia nhập lên Đại hội đồng
WTO; ngày 30/1/1995, nhóm Công tác về việc gia nhập của Việt Nam được thành
lập; ngày 26/8/1996, Việt Nam nộp Bản ghi nhớ về cơ chế ngoại thương cho nhóm
Công tác. Đến cuối tháng 2/2000, chúng ta đã trả lời được 1.216 câu hỏi trong số
1.376 câu hỏi nhận được. Việt Nam cũng đã đưa ra chương trình thể chế hoá pháp
luật và tiến hành xây dựng một số tài liệu theo mẫu quy định của WTO như: Bảng
Hiện trạng về hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản; Bảng doanh
nghiệp thương mại nhà nước và Bảng trợ cấp công nghiệp. Chúng ta cũng đang tích
cực chuẩn bị cho phiên họp cuối năm 2005 theo hướng tiếp tục minh bạch hoá
chính sách, đã và đang tiến hành các cuộc đàm phán song phương với một số thành
viên WTO như EU, Thuỵ Sỹ, Achentina, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ôxtraylia... bằng


12


các bản chào mở cửa thị trường Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực hàng hoá và dịch
vụ.
Tính từ khi chúng ta nộp đơn gia nhập WTO đã trải qua 10 năm. Là một
quốc gia với trên 82 triệu dân, có tiềm năng của một thị trường lớn nên gói đàm
phán của Việt Nam được nhiều nước quan tâm, trong đó có những thành viên quan
trọng như Hoa Kỳ, EU và các nước thành viên (nay lên đến 25 quốc gia), Nhật
Bản, Canada, Trung Quốc, Ấn Độ, Ôxtraylia, Niu Dilân (những nước này cũng là
các bên đàm phán song phương). Nhóm Công tác đã họp 9 lần, lần gần đây nhất là
tháng 12.2004 và Bản dự thảo đầu tiên của Nhóm công tác đã được hoàn thành.
Các quan chức WTO khẳng định việc gia nhập của WTO của Việt Nam được coi là
công việc “lớn nhất” trong thời điểm hiện nay.
Trong đàm phán với EU, đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, phía
đối tác đã đòi chúng ta phải sử dụng mức thuế trung bình 16% đối với hàng công
nghiệp (trong phiên họp đa phương ta đưa ra mức 17%), 22% đối với thuỷ sản và
24% đối với hàng nông sản (ta đề xuất mức thuế bình quân 25,3%). Việt Nam còn
phải cam kết trong nhiều lĩnh vực khác như tài chính, ngân hàng, vận tải, bưu chính
viễn thông, môi trường và du lịch...
Mục tiêu của Việt Nam là gia nhập WTO vào tháng 12.2005 tại Hội nghị
Bộ trưởng WTO ở Hồng Kông. Sau cuộc họp của nhóm Công tác tháng 12.2004
vừa qua, nhiều thành viên cho rằng vẫn còn nhiều việc phải làm. Hơn nữa, đàm
phán song phương vẫn đang được tiến hành vì mới chỉ có một số nước trong nhóm
Công tác là hoàn tất.
Tuy vậy, những nhà đàm phán của chúng ta không vì thời hạn chót mà bất
chấp hậu quả. Trong chuyến thăm Hoa Kỳ tháng 7 vừa qua, Phó Thủ tướng Vũ

13



Khoan tuyên bố Việt Nam muốn trở thành thành viên WTO càng sớm càng tốt,
nhưng không phải với bất kỳ giá nào. Điều cực kỳ quan trọng là Việt Nam cũng
như các nước đang đàm phán gia nhập phải dành thời gian thích đáng để nghiên
cứu cẩn thận thực chất của vấn đề nhằm nhận rõ những tác động của việc gia nhập
đối với công cuộc phát triển của đất nước. Mặc dù gia nhập WTO có thể là một
mục tiêu kinh tế-xã hội nhưng khi đã bắt tay vào thương thảo thì bao giờ chi tiết
của các hiệp định cũng mang tính chất then chốt.
2. Gia nhập WTO - những tác động tới kinh tế Việt Nam
a. Những tác động tích cực
Động lực quan trọng nhất của quá trình hội nhập WTO đối với Việt Nam là
lực đẩy mà chúng ta hy vọng tư cách thành viên sẽ mang lại cho ngành xuất khẩu,
nhờ cải thiện được khả năng tiếp cận thị trường quốc tế. Sau khi được kết nạp làm
thành viên WTO năm 2001, Trung Quốc đã tăng xuất khẩu một cách ngoạn mục:
xuất khẩu sang Hoa Kỳ: năm 2001: 266,1 tỷ USD; năm 2002: 325,6 tỷ USD; năm
2003: 438,4 tỷ USD. Nếu các nước phát triển làm như đã hứa lúc bắt đầu Vòng
đàm phán Doha, mà trên hết là cải thiện điều kiện tiếp cận thị trường và giảm trợ
cấp cho nông nghiệp của họ, lợi ích của Việt Nam và các nước phát triển khác sẽ
thực chất hơn. Cùng với việc mở rộng bán các sản phẩm nông nghiệp và hàng dệt
may, Việt Nam cũng hy vọng tăng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với khu
vực sản xuất hàng xuất khẩu. Là thành viên WTO đầy đủ, Việt Nam sẽ có tiếng nói
trong việc xây dựng luật lệ thương mại. Chúng ta cũng sẽ có cơ hội tiếp cận cơ chế
Xử lý tranh chấp có trách nhiệm đôn đốc chấp pháp thương mại quốc tế.
Quy chế đối xử Tối huệ quốc có thể giúp chúng ta cải thiện việc tiếp cận các
thị trường quốc tế một khi trở thành thành viên của WTO, theo đó các điều kiện

14


thương mại một nước thành viên này dành cho một nước thành viên khác, chủ yếu

là thuế suất, phải được dành cho tất cả các đối tác thương mại khác. Tuy nhiên, cơ
cấu kinh tế các nước gia nhập WTO sau như Việt Nam có thể chưa được hưởng
thuế suất thấp như các nước thành viên hiện hữu.
Một lợi ích nữa mà chúng ta có thể đạt được nếu giữ vững một điều khoản
trong Hiệp định nông nghiệp là Cơ chế bảo vệ đặc biệt (SSM) để đối phó với
trường hợp tăng đột biến nhập khẩu từ nước khác và được miễn không phải giảm
thuế đối với một số “sản phẩm đặc biệt” có tầm quan trọng sống còn đối với an
ninh lương thực của đất nước. Do Việt Nam phải cạnh tranh trực tiếp với những
nhà xuất khẩu nông nghiệp lớn nhất, việc sử dụng công cụ SSM có ý nghĩa then
chốt đối với những mặt hàng nhạy cảm.
Thoả thuận Xử lý tranh chấp (DSU) - một quy trình và thủ tục mang tính
ràng buộc của WTO để giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các nước thành
viên cũng sẽ tạo cho Việt Nam cơ hội để khắc phục hành động không công bằng
của các đối tác thương mại. Hoa Kỳ chẳng hạn, đã hạn chế nhập khẩu tôm và cá da
trơn của Việt Nam hay những vụ kiện do các nước đang phát triển lớn hơn theo
đuổi, như trường hợp Brazil kiện Hoa Kỳ trợ cấp bông vải và EU trợ cấp cho ngành
mía đường, đó là việc bán phá giá bất hợp pháp, và thắng lợi của Brazil có thể thúc
đẩy những thay đổi về chính sách làm lợi cho tất cả thành viên WTO.
Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, với tư cách là thành viên WTO, Việt
Nam sẽ có một môi trường kinh doanh thuận lợi, và nhờ đó, sẽ thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào khu vực xuất khẩu và khu vực sản xuất cho thị trường nội địa.
Thu hút 49 tỷ USD năm 2004, Trung Quốc trở thành nước đứng đầu thế giới về thu
hút FDI. Một phần của dòng đầu tư đó có thể là kết quả của các biện pháp tự do
hoá mà nước này tiến hành theo cam kết trong quá trình đàm phán gia nhập, mặc

15


dù trước khi trở thành thành viên WTO Trung Quốc cũng đã thu hút những khoản
đầu tư rất lớn.

Việt Nam cũng đã thành công trong việc hấp dẫn đầu tư. Năm 2003, Việt
Nam đứng thứ 50 trong xếp hạng của UNCTAD về FDI nhận được tương quan với
quy mô của nền kinh tế. Chỉ có Trung Quốc (thứ 3) và Singapore (thứ 6) đứng cao
hơn Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á. Tổng FDI vào Việt Nam năm 2004 là
2,67 tỷ USD. Trong đánh giá tác động giảm nghèo của Vòng phát triển Doha,
Trung tâm vì tiến bộ nông thôn có trụ sở tại Hà Nội cho rằng những thay đổi trong
hệ thống pháp lý của Việt Nam qua tiến trình đàm phán gia nhập sẽ đưa tới kết quả
sẽ có nhiều minh bạch và trách nhiệm hơn trong các quy định liên quan đến đầu tư,
sẽ tạo nên một môi trường thuận lợi hơn cho cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
b. Những thách thức đặt ra
Trong số các nước đang phát triển, Việt Nam vẫn là một quốc gia có thu
nhập bình quân đầu người thấp, đang đứng trước một loạt những khó khăn thách
thức cho sự phát triển.
Trong tiến trình đàm phán gia nhập, các nước thành viên nhóm Công tác đã
đòi Việt Nam tự do hoá nhiều hơn các nước đang phát triển đã là thành viên WTO,
thúc giục Việt Nam nhượng bộ trên một loạt yêu sách “WTO cộng” có ảnh hưởng
tiêu cực đến quá trình phát triển của Việt Nam, nhất là đối với lĩnh vực nông
nghiệp. Một kết quả của tự do hoá nông nghiệp hơn nữa là thu nhập của nông dân
sẽ giảm do sự tăng cường cạnh tranh từ nước ngoài. Điều đó làm sâu sắc thêm
những bất bình đẳng về thu nhập giữa thành thị và nông thôn. Hơn nữa, những thua
thiệt trong thu nhập nông nghiệp còn có hậu quả khuếch tán. Báo cáo của Viện
Nghiên cứu chính sách Lương thực quốc tế cho thấy cứ mỗi Đôla làm được trong

16


thu nhập của trang trại thì có thêm 4 Đôla thông qua trao đổi trong khu vực kinh tế
nông thôn.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, dưới sức ép của các thành viên trong nhóm
Công tác, Việt Nam đề xuất cam kết chung về thuế nông nghiệp ở mức bình quân

25,3%, nói cách khác đó là trần thuế, mức hiện hành là 27,1%. Là một nước đang
phát triển, đa số nhân dân sống dựa vào nông nghiệp, nếu chúng ta hạ thấp mức
thuế hơn nữa thì sản xuất nông nghiệp sẽ có nguy cơ tổn thất nặng nề. Những điều
khoản này đối với Trung Quốc có phần nặng nề hơn, nước này buộc phải cam kết
mức thuế nông nghiệp là 15,5%. Tuy nhiên, Trung Quốc có một thị trường nội địa
rộng lớn, nhu cầu lương thực rất lớn nên có thể nhập khẩu nhiều lương thực từ
nước ngoài mà không ảnh hưởng mấy đến sản xuất trong nước.
Có một số sản phẩm đặc biệt nhạy cảm đối với Việt Nam, trong đó có đường
và ngô. Nghiên cứu của Oxfam ở Quảng Tây – địa phương sản xuất đường hàng
đầu của Trung Quốc cho thấy sự cạnh tranh gay gắt về đường được trợ giá từ EU
khiến cho nhiều nông dân phải bỏ nghề. Để ngăn chặn không cho tình hình tương
tự như vậy xảy ra ở Việt Nam, các sản phẩm nhạy cảm đó không phải được tiếp tục
bảo hộ trước cạnh tranh quốc tế thông qua công cụ thuế hoặc hạn ngạch thuế suất
(TRQs).
Trong đàm phán gần đây, phần lớn các thành viên nhóm Công tác WTO đã
yêu cầu bên Việt Nam không áp dụng TRQs và SSGs, mặc dù đề xuất của Việt
Nam khiêm tốn hơn Trung Quốc rất nhiều, chúng ta chỉ đề nghị áp dụng SSGs, với
lợn, bò, gia cầm, và áp dụng TRQs với 8 sản phẩm khác. Những thành viên không
có yêu cầu thì lại yêu cầu chúng ta phải giảm mức thuế. Ôxtraylia, Niu Dilân và
Hoa Kỳ lại gây sức ép buộc Việt Nam huỷ bỏ toàn bộ trợ cấp xuất khẩu nông
nghiệp. Đòi hỏi Việt Nam loại bỏ trợ cấp ngay lập tức đúng là một trường hợp tiêu

17


chuẩn khép điển hình do các nước đề ra mặc dù trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam
đúng đối tượng và nhằm mục tiêu giúp giảm nghèo, nhất là đối với vùng sâu, vùng
xa. Đối với lĩnh vực công nghiệp, ngoài ngành dệt may mang tính cạnh tranh tương
đối cao có tiềm năng phát triển, còn có những ngành công nghiệp chế tạo kém phát
triển hơn mà tự do hoá khi tham gia WTO có thể đem đến những nguy cơ thực sự

áp lực buộc Việt Nam phải hạ thấp hàng rào thuế quan thấp hơn mức 17% mà
chúng ta đề xuất sẽ đe doạ trực tiếp ngành công nghiệp chế tạo còn rất nhỏ bé và
cắt mất một nguồn việc làm đang gia tăng cho lao động trong nước. Trong thời
điểm hiện nay, nguy cơ lớn nhất là thị trường tự do hoàn toàn. Ngành ôtô xe gắn
máy đặc biệt dễ bị tổn thương trước hàng hoá nhập từ Trung Quốc, Nhật Bản. Tuy
nhiên việc bảo hộ dài hạn hoặc quá mức sẽ không phải là giải pháp hữu hiệu bởi tự
do hoá nhập khẩu sẽ giảm chi phí đầu vào cho các xí nghiệp trong nước và cho
người tiêu dùng. Tuy vậy cần phải tìm ra một sự cân đối để các lĩnh vực chưa
chuẩn bị tốt cho tự do hoá có thể nhận được một mức bảo hộ nhất định và sẽ tuần
tự tự do hoá tương thích với các ưu tiên phát triển.
Đối với đầu tư nước ngoài, nhiều Công ty đa quốc gia sử dụng các nước
đang phát triển đơn giản chỉ là những điểm lắp ráp và phân phối, với thiết bị lạc
hậu và chuyển giao công nghệ hạn chế cho kinh tế địa phương. Báo cáo CPRGS
cho biết, khoa học và công nghệ vẫn chưa phục vụ được như một nền tảng và một
nguồn năng động cho sản xuất và thương mại ở Việt Nam. Trong khu vực công
nghiệp, trình độ công nghệ thấp, máy móc và thiết bị lạc hậu, việc nâng cấp lại
chậm chạp đã làm tăng chi phí sản xuất và hiệu quả lại thấp, dẫn đến khó khăn
trong sản xuất và phân phối sản phẩm. Gắn liền chuyển giao công nghệ với chính
sách đầu tư trong các điều khiển gia nhập sẽ giúp Việt Nam tiến hành được những

18


cải thiện cần thiết trong công nghiệp cũng như ở các lĩnh vực khác vô cùng quan
trọng để cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Đối với thời hạn thực thi các hiệp định, Việt Nam đang yêu cầu thời hạn chót
năm 2008 để tuân thủ các hiệp định Rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT) và
các biện pháp kiểm dịch và vệ sinh động thực vật (SPS); va có thêm 2 năm sau
ngày được kết nạp để tương thích với định giá hải quan. Những yêu cầu này đang
bị nhóm công tác mà chủ yếu là EU, Hoa Kỳ, Canada và Ôxtraylia cản trở.

Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, chi phí thực thi một hiệp định lên tới
khoảng 100 triệu USD. Hơn nữa tương thích với các hiệp định là một tiến trình rất
phức tạp. Hiệp định SPS đòi hỏi phải hài hoà các tiêu chuẩn quốc gia về nông sản
và thuỷ sản, đó là một thách thức lớn cho những người nghèo, những nhà sản xuất
không đủ tiềm lực về vốn, nhất là ở các vùng nông thôn xa xôi cách trở ở Việt
Nam.
Một vấn đề khác gây hạn chế khả năng tiếp cận thị trường của Việt Nam và
đặt ra thách thức lớn cho sự gia nhập của Việt Nam là các nước lớn trong nhóm
Công tác xếp Việt Nam vào nền kinh tế phi thị trường (NME). Khái niệm quy chế
NME trong thương mại quốc tế xuất hiện lần đầu vào những năm 1970 trong các
trường hợp chống phá giá. Theo Mc Carty và Kalapesi, không có một định nghĩa cố
định thế nào là một nền kinh tế phi thị trường, và tiến trình theo đó một quốc gia
được xếp vào NME là mang tính áp đặt. Hoa Kỳ có xu hướng dẫn đầu việc phân
loại đó và các nước khác làm theo. Đối với hành động chống phá giá, Việt Nam
hiện đang là mục tiêu của Hoa Kỳ. Trong một vụ tương tự như vụ tranh chấp về cá
da trơn tháng 12/2003, Liên minh tôm miền Nam Hoa Kỳ (SSA) đã đâm đơn kiện
tôm nhập khẩu của Việt Nam và 5 quốc gia khác. SSA cáo buộc là tôm được bán
“thấp hơn giá phải chăng” “gây tổn hại vật chất hoặc đe doạ gây nên” cho lĩnh vực

19


tôm của Hoa Kỳ. Tháng 7/2004, Chính phủ Hoa Kỳ đưa ra phán quyết sơ bộ Trung
Quốc và Việt Nam đã bán phá giá tôm dưới giá thị trường và đề nghị đánh thuế bù
trừ lên đến 112%. Hai nước được tách riêng để đối xử bởi Hoa Kỳ xếp Trung Quốc
và Việt Nam là các nền kinh tế phi thị trường. Việc áp đặt thuế chống phá giá đe
doạ cuộc sống của hàng triệu nông dân đặc biệt là ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long cũng như của hàng triệu người dân khác trực tiếp hay gián tiếp dựa vào tôm
và các ngành có liên quan.
Trong lĩnh vực dịch vụ, Việt Nam đã đồng ý cho các Công ty quốc tế vào 92

tiểu lĩnh vực, bao gồm tài chính, nghiệp vụ chuyên môn, viễn thông và dịch vụ
pháp lý. EU thúc ép Việt Nam cam kết nhiều hơn nữa cho dù sự nhất trí của chúng
ta đã thể hiện tự do hoá rộng lớn hơn cả nước láng giềng Trung Quốc. Cũng như
các nước khác, Việt Nam cũng có các lĩnh vực nhạy cảm cung cấp những dịch vụ
công ích cơ bản như nước, vệ sinh và điện. Một dịch vụ được tự do hoá hoàn toàn
có thể sẽ không đến được với người nghèo vì họ không phải là một thị trường hứa
hẹn sinh lợi cao.
Cuối cùng là những nguy cơ đặt ra trước chúng ta từ Hiệp định thương mại
song phương với Hoa Kỳ (USBTA), tại đó Việt Nam đã có những nhân nhượng
cao hơn đòi hỏi của WTO đối với một nước thành viên. Điều đó gây nên những ảnh
hưởng xấu trong đàm phán các điều kiện ra nhập WTO do tính chất của nguyên tắc
Tối huệ quốc. Trong số những cam kết được nhất trí trong Hiệp định thương mại
Việt Nam-Hoa Kỳ, những điểm liên quan đến “điều khoản bảo vệ” và sở hữu trí tuệ
là mối quan tâm hàng đầu đối với các nước đang phát triển. Những điều khoản đó
của USBTA cho phép các bên ngăn chặn nhập khẩu của bên này hay bên kia trong
những trường hợp “thị trường bị đảo lộn”. Việc Hoa Kỳ lạm dụng điều khoản bảo

20


vệ an toàn có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành dệt may đang phát triển mạnh
mẽ ở Việt Nam.
Tham gia WTO là việc đã được Việt Nam đặt ra từ 1995 khi WTO chào đời.
Đây là việc dù không muốn cũng vẫn phải làm vì chúng ta cần phát triển mạnh mẽ
quan hệ ngoại thương và kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2004 đã lên
đến trên 50 tỷ USD. Lẽ đương nhiên chúng ta mong muốn có được một tổ chức
thương mại công bằng, không chỉ làm lợi cho các nước giàu như WTO hiện nay.
Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng không thể có ảo tưởng về một WTO thực sự dân
chủ, nước giàu cũng như nước nghèo. Chúng ta đã có nhiều bài học đắt giá về
thương mại không công bằng, cá lớn nuốt cá bé. Đi trên con đường kinh tế thị

trường thì phải biết luật chơi của thị trường mới mong giữ được định hướng xã hội
chủ nghĩa. Chặng đường phía trước còn nhiều gian nan, dù hình thức WTO có thế
nào chăng nữa chúng ta vẫn tin tưởng rằng Đảng, nhà nươc và nhân dân ta sẽ thực
hiện thành công mục tiêu xây dựng, phát triển một nền kinh tế thị trường
III. Một số kiến nghị về chính sách đầu tư trong bối cảnh hội nhập và gia nhập
WTO
Qua phân tích những vấn đề nói trên, có thể dự báo tác động của việc hội
nhập và gia nhập WTO đến phát triển kinh tế Việt Nam thể hiện ở 2 khía cạnh: khó
khăn/thách thức không phải là ít nhưng cơ hội cũng rất nhiều. Vấn đề ở đây là
chúng ta cần phải có những giải pháp thích hợp để giảm thiểu những mặt bất lợi và
khai thác tối đa những cơ hội của nó. Nếu không có giải pháp đúng thì nguy cơ tụt
hậu là rất lớn, chúng ta sẽ bị chính những nước trong khu vực có hoàn cảnh tương
đồng bỏ lại đằng sau trong cuộc chạy đua này. Xem xét nghiêm túc các bước đi, bài
học kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là Trung
Quốc - một nước có nền kinh tế trước đây cũng là nền kinh tế kế hoạch hoá tập

21


trung như Việt Nam, sau khi gia nhập WTO tháng 12/2001, đã vững vàng tiến
mạnh trên con đường hội nhập với những thành tựu không thể phủ nhận về phát
triển kinh tế, tôi đưa ra một số kiến nghị về cải cách chính sách đầu tư gắn với điều
chỉnh cơ cấu kinh tế như sau:
Chính sách đầu tư nên từng bước giảm thiểu việc bảo hộ các ngành thay thế
nhập khẩu mà khuyến khích đầu tư vào các ngành định hướng xuất khẩu. Chính
sách bảo hộ nên được cân nhắc kỹ, tập trung theo một số ngành và chỉ bảo hộ trong
thời gian nhất định. Việc lựa chọn các ngành này phải dựa trên cơ sở phân tích liệu
các ngành này có tiềm năng trở thành ngành có hiệu quả và phát triển những lợi thế
so sánh năng động hay không. Vấn đề quan trọng cần được lưu tâm là phải có các
biện pháp chuyển đổi một cách hiệu quả các nhân tố sản xuất (vốn, lao động, kỹ

năng quản lý) từ các ngành thay thế nhập khẩu sang khu vực xuất khẩu. Để cải
thiện môi trường đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần thực hiện một số biện
pháp sau đây:
- Mở rộng tín dụng đầu tư cho các dự án dân doanh.
- Điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng khắc phục những hạn chế đầu tư vào
những công trình nhiều vốn hơn là cần nhiều lao động, đầu tư vào những
sản phẩm mà cung đã vượt cầu, vào những sản phẩm thay thế hàng nhập
khẩu; xã hội hoá đầu tư thông qua hình thành các dự án đầu tư nhà nước
hoặc tư nhân lớn và kêu gọi cổ phần đầu tư từ tất cả những đối tác có khả
năng và nhu cầu đầu tư. Khuyến khích BOT bằng nguồn vốn trong nước.
Các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư không nên can thiệp
quá sâu vào hoạt động đầu tư cụ thể mà tập trung sức làm tốt việc dự báo,
cung cấp thông tin kinh tế, định hướng đầu tư, kiểm tra công tác quản lý
đầu tư ở cơ sở. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước nên tập trung vào kết cầu

22


hạ tầng sản xuất. Riêng lĩnh vực nông nghiệp, cần đầu tư vào khâu tạo
giống, nhập khẩu giống mới năng suất cao... Đầu tư vào những ngành mà
Trung Quốc và Asean không có ưu thế, ưu thế thấp hoặc giảm dần.
- Cải thiện năng lực, hiệu lực thi hành thể chế đầu tư nước ngoài để môi
trường đầu tư hấp dẫn hơn thay vì tạo ra hệ thống khuyến khích, ưu đãi đầu
tư thông qua mức thuế.
- Đối với khu vực nông nghiệp, cần nhanh chóng áp dụng các tiến bộ sinh
học, hiện đại hoá công nghệ chế biến, nâng cao chất lượng vệ sinh thực
phẩm, đóng gói, bao bì....
- Đối với khu vực công nghiệp, trong bố trí đầu tư, xây dựng phải chọn lựa
thứ tự ưu tiên phù hợp với điều kiện của từng thời kỳ. Điều quyết định là
chọn lựa đúng những công trình có lợi thế so sánh, tiêu thụ được sản phẩm,

thu hồi được vốn, trả được nợ vay.
- Đối với khu vực dịch vụ, nhất là các dịch vụ chuyên môn và trí tuệ. Vừa ra
sức xây dựng bằng thực lực của quốc gia, vừa biết tranh thủ sự hợp tác có
lợi với thế giới bên ngoài; chấp nhận cạnh tranh, kể cả cạnh tranh trong
nước lẫn cạnh tranh quốc tế, coi như một động lực thúc đẩy sự tiến bộ của
các ngành dịch vụ.
Hy vọng rằng với ý chí quyết tâm cao, chúng ta sẽ thu được những thành tựu
to lớn trong cải cách và phát triển kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển thị
trường dịch vụ, đẩy mạnh xuất khẩu... sau khi hội nhập hoàn toàn vào hệ thống
thương mại đa phương với việc gia nhập WTO định hướng xã hội chủ nghĩa, mở
cửa và hội nhập.

23


C. PHẦN KẾT
Tổ chức thưong mại thế giới với tư cách là tổ chức thương mại mang tính
toàn cầu. hoạt động của tổ chức thương mại thế giới nhằm thúc đẩy tiến trình tự do
hoá thương mại hàng hoá và dịch vụ, phát triển bền vững và bảo vệ môi trường
thúc đẩy sự phát triển của các thể chế thị trượng . nhằm giải quyết những bất đồng
và tranh chấp thương mại giữa các quốc gia thành viên trong khuôn khổ của hệ
thống thương mại đa phương phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp
quốc tế và luật của các tổ chức thương mại thế giới, nhằm nâng cao mức sống, tạo
công ăn việc làm cho người dân các quốc gia thành viên, bảo đảm các quyền và
tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng để thực hiện mục tiêu của WTO. Tìm
cách mở cửa thị trường và duy trì cạnh tranh lành mạnh trong thương mại toàn cầu
vì vậy tổ chức này là trung tâm hội nghị của các thương thảo về tiếp cận các thị
trường và đồng thời là một cơ hội đưa ra các luật lệ về hợp đồng kinh doanh để
đảm bảo an toàn và khả năng dự đoán cho người làm ăn và nhà đầu tư. Vì vậy việt
nam cần phải nhanh chóng gia nhập WTO đây là nhiệm vụ quan trọng của chúng ta

trong thời gian này. vì khi vào được WTO, việt nam có những cơ hội như được đối
xử tối huệ quốc vô điều kiện , thuế nhập khẩu vào các nước WTO được hưởng một
cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại khi có tranh chấp với các nước khác
nhưng cũng có những thách thức của việt nam khi gia nhập WTO.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. 29 văn bản pháp lý của WTO
2. Quy chế tối huệ quốc
3. Quy chế đãi ngộ quốc gia
4. Một số văn bản pháp lý có liên quan đến WTO và sự tiến trình gia nhập của Việt
Nam vào WTO

25


×