Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.66 KB, 11 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS
VADS
TA
TAND
VKS

Bộ luật tố tụng dân sự 2004, sửa đổi bổ sung 2011
Vụ án dân sự
Tòa án
Tòa án nhân dân
Viện kiểm sát

LỜI MỞ ĐẦU
Xét xử sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên của quá trình giải quyết một vụ án dân sự và chuẩn bị xét
xử sơ thẩm là một giai đoạn trong xét xử sơ thẩm vụ án dân sự đó. Mặc dù Bộ Luật Tố tụng dân
sự 2004 (sửa đổi, bổ sung 2011) đã có những quy định cụ thể, rõ ràng về vấn đề này, tuy nhiên
trong thực tế xét xử vẫn tồn tại những bất cập, hạn chế; từ đó làm ảnh hưởng đến quá trình xét
xử của cả một vụ án. Trong bài viết này, nhóm chúng em xin được trình bày những quy định của
pháp luật hiện hành về giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, qua đó nêu ra những
điểm bất cập, hạn chế và những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện vấn đề này
NỘI DUNG
I. LÍ LUẬN VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm và đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
- Khái niệm: Bộ luật tố tụng dân sự không hề đưa ra khái niệm sơ thẩm vụ án dân sự, tuy
nhiên từ những quy định của pháp luật và xem xét khái niệm này dưới góc độ là một hoạt động
tố tụng thì có thể đưa ra định nghĩa: “ Sơ thẩm vụ án dân sự là việc tòa án cấp có thẩm quyền gải
quyết lần đầu một vụ án dân sự bao gồm các hoạt động khoi kiện, thụ lí, chuẩn bị xét xử và mở
phiên tòa sơ thẩm dân sự”.


- Đặc điểm: quá trình chuẩn bị xét xử vụ án dân sự có các đặc điểm như sau:
+ Được bắt đầu từ khi tòa án thụ lí vụ án dân sự và kết thúc khi tòa án mở phiên tòa xét xử
sơ thẩm vụ án dân sự


+ Là hoạt động tố tụng bao gồm những công việc cụ thể do tòa án tiến hành nhằm chuẩn bị
những điều kiện cần thiết cho việc xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
+ Hòa giải là hoạt đông tố tụng bắt buộc của tòa án trong giai đoạn này được quy định tại
điều 10 va điều 180 BLTTDS sửa đổi năm 2011.
+ Chuẩn bị xét xử là giai đoạn có mối liên hệ mật thiết với các hoạt động tố tụng khác.
1.2. Cơ sở của việc tiến hành giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Cơ sở của việc tiến hành giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là Tòa án nhận
đơn khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự. Sau khi chủ thể nộp đơn khởi kiện, Tòa án xem xét xem
điều kiện khởi kiện như: chủ thể khởi kiện, vụ án khởi kiện thuộc thẩm quyền của Tòa án, vụ án
chưa được giải quyết bằng một bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định khác của pháp luật, vụ án vẫn
còn thời hiệu khởi kiện. Nếu như điều kiện khởi kiện được đảm bảo thì Tòa án ra quyết định thụ
lý đơn khởi kiện.
Theo diều 179 BLTTDS thì trong khoảng thời gian là 4 tháng với các vụ án quy định tại
Điều 25 và Điều 27; 2 tháng đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31, kể từ ngày thụ
lý vụ án. Trong khoảng thời gian đó thì Tòa án phải tiến hành chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân
sự như: phân công thẩm phán giải quyết vụ án dân sự, yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ, tự
mình tiến hành thu thập chứng cứ…
1.3.Ý nghĩa của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Xét xử sơ thẩm là giai đoạn xem xét vụ án dân sự lần đầu vì vậy công tác chuẩn bị cho
xét xử sơ thẩm có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng đến các quá trình giải quyết vụ án dân sự và
được xem như một giai đoạn trong tố tụng dân sự.
Ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải
tiến hành các hoạt động cần thiết như: nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ, tòa án có thể yêu
cầu đương sự cung cấp thêm các chứng cứ hoặc tứ mình tiến hành thu thập chứng cứ trong

trường hợp cần thiết…Tất các các công việc này của giai đoạn xét xử sơ thẩm giúp cho Tòa án
có đủ các tài liệu chứng cứ, nhận thức đúng đắn về vụ án dân sự để giải quyết vụ án dân sự một
cách chính xác.
Giai đoạn chuẩn bị xét sử sơ thẩm vụ án dân sự giúp cho Tòa án tiến hành các hoạt động
cần thiết như: phân công hội đồng xét xử, triệu tập đương sự, thu thập chứng cứ, nghiên cứu hồ
sơ vụ án, gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đương sự và Viện kiểm sát, chuẩn bị các điều
kiện về âm thanh, hội trường…để phiên tòa xét xử sơ thẩm được diễn ra đúng tiến độ và có chất
lượng.
Mặt khác trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, Tòa án còn tiến hành hoạt động hòa giải, giúp
các đương sự hiểu rõ hơn về quan hệ pháp luật đang tranh chấp, hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa
vụ của mình trong quan hệ đó. Để từ đó các đương sự có thể thỏa thuận với nhau về cách giải
quyết vụ án dân sự, giúp cho các đương sự tiết kiệm được tiền bạc, thời gian đồng thời giúp cho
Tòa án có thể dành thời gian để xét xử các vụ án khác, không phải cùng một lúc giải quyết quá
nhiều vụ án.
II.QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ CHUẨN BỊ XÉT
XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
2.1. Thời hạn chuẩn bị xét xử
2


Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự được tính từ ngày Tòa án vào sổ thụ lý vụ án
đến ngày Tòa án ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, và được quy định rất cụ thể
chi tiết tại điều 179 BLTTDS:
“a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này, thời hạn là bốn
tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31 của Bộ luật này, thời hạn là hai
tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án có
thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng đối với vụ án thuộc
trường hợp quy định tại điểm a và một tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b

khoản 1 Điều này”.
Như vậy Bộ luật tố tụng dân sự quy định khác nhau về thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án dân
sự sơ thẩm trong từng quan hệ cụ thể là rất hợp lý và phù hợp với bản chất từng quan hệ dân sự
cần phải giải quyết.
2.2. Các công việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự của tòa án
2.2.1.Phân công thẩm phán giải quyết vụ án
Theo luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002 quy định Chánh án TAND các cấp có nhiệm vụ
và quyền hạn tổ chức phân công xét xử. Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày làm việc kể từ
ngày thụ lý vụ án, Chánh án Toà án hoặc Phó Chánh án được uỷ nhiệm phải phân công một
Thẩm phán giải quyết vụ án. Thông thường, Thẩm phán được phân công giải quyết đơn sẽ
tiếp tục được phân công giải quyết vụ án. Thẩm phán này có nhiệm vụ thông báo thụ lý vụ
án, yêu cầu đương sự nộp tài liệu, chứng cứ cho Toà án, tiến hành một số biện pháp thu thập
tài liệu theo khoản 2 Điều 85 BLTTDS (Điều 173 BLTTDS).
2.2.2. Thông báo việc thụ lý vụ án.
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có nhiệm vụ thông báo việc thụ lý vụ án.
Việc thông báo phải được thực hiện trong thời hạn 3 ngày, kể từ gnày thụ lý vụ án. Hình
thức thông báo bằng văn bản và bao gồm các nội dung: Tên, địa chỉ của người khởi kiện,
những vấn đề chủ yếu người khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết; danh sách tài liệu, chứng
cứ nguyên đơn nộp kèm theo đơn khởi kiện; thời hạn người nhận được thông báo phải có ý
kiến bằng văn bản nộp cho Toà án đối với yêu cầu khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo
(nếu có) và hậu quả pháp lý của việc người được thông báo không nộp cho Toà án văn bản
về ý kiến của mình đối với yêu cầu (Điều 174 BLTTDS).
Những người được thông báo gồm: bị đơn, cá nhân, tổ chức, cơ quan có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan đến vụ án; Viện kiểm sát cùng cấp. Viện kiểm sát được thông báo để cơ quan
này thực hiện việc kiểm sát đối với hoạt đồng đầu tiên của Toà án trong quá trình tố tụng.
Theo Điều 175 BLTTDS, những người được thông báo có quyền yêu cầu Toà án cho
xem, ghi chép, sao chụp đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo. Đồng thời, họ có
nghĩa vụ nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình với yêu cầu của người khởi kiện và
tài liệu chứng cứ kèm theo (nếu có) trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo.
Họ có quyền thể hiện quan điểm của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện, có thể đồng

ý hoặc không đồng ý với yêu cầu khởi kiện. Trong trường hợp cần gia hạn thì người được
thông báo phải có đơn xin gia hạn gửi Toà án nêu rõ lý do, nếu việc gia hạn là có căn cứ thì
Toà án phải gia hạn nhưng không quá 15 ngày.
3


Bị đơn ngoài quyền thể hiện ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn theo Điều 176 còn
có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Trong trường hợp họ không tham gia
tố tụng với bên nguyên đơn hay bị đơn theo Điều 177, họ có quyền đưa ra yêu cầu độc lập.
Theo Điều 178, thủ tục yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập được thực hiện theo quy
định về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn.
2.2.3. Lập và hoàn thiện hồ sơ vụ án.
Để lập hồ sơ vụ án căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện, Tòa án phải xác
định các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án yêu cầu của các đương sự, cá nhân, cơ quan,
tổ chức khởi kiện cung cấp, và phải đưa chúng vào hồ sơ vụ án. Thủ tục giao nhận chứng cứ
tài liệu phải được thực hiện đúng theo quy định tại Điều 84 BLTTDS. Các tài liệu có trong
hồ sơ vụ án phải được sắp xếp theo thứ tự nhất định để thuận tiện cho việc nghiên cứu, sử
dụng và phải có danh mục ghi nhận lại các tài liệu trong hồ sơ vụ án.
Trong tố tụng dân sự các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh cho yêu
cầu của mình. Tuy vậy trong những trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập chứng
cứ để cung cấp cho Tòa án và có yêu cầu thì Tòa án có thể áp dụng các biện pháp thu thập
chứng cứ do pháp luật quy định để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án dân sự được thực hiện
theo quy định tại các điều từ Điều 85 đến Điều 94 BLTTDS.
Thu thập chứng cứ là việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa vào hồ sơ vụ án dân sự để
nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ án dân sự. Việc thu thập chứng cứ có ý nghĩa
quan trọng đối với cả việc chứng minh của đương sự và việc giải quyết vụ án dân sự của tòa án
bởi đương sự chỉ có thể chứng minh được quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có chứng cứ,
và tòa án chỉ có thể giải quyết đúng được khi có đầy đủ các chứng cứ để làm rõ được các vấn đề
của vụ án dân sự. Điều này được quy định tại Điều 85 BLTTDS.

Từ đó, có thể thấy, các chủ thể chứng minh nói chung đều có quyền, nghĩa vụ thu thập
chứng cứ. Trong TTDS thì đương sự có nghĩa vụ chứng minh chủ yếu nên đương sự, người đại
diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải tiến hành thu thập các chứng cứ
để cung cấp cho tòa án. Khi xét thấy tài liệu, chứng cứ chưa đủ cơ sở để giải quyết vụ án dân sự
thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Chỉ khi đương sự đã áp
dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì
có thể yêu cầu Tòa án thu thập. Để bảo đảm việc giải quyết vụ án dân sự, các biện pháp thu thập
chứng cứ, trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ được pháp luật quy định cụ thể. Trong đó, các biện
pháp mà Thẩm phán có thể tiến hành để thu thập chứng cứ đã được quy định tại các điều, từ
Điều 85 đến Điều 94 BLTTDS. Tùy từng trường hợp cụ thể, thẩm phán có thể áp dụng một hoặc
nhiều biện pháp để thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, đối với các biện pháp mà chủ thể khác như
đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
được áp dụng để thu thập chứng cứ thì pháp luật vẫn chưa quy định cụ thể.
2.2.4. Nghiên cứu hồ sơ vụ án.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự Thẩm phán tiến hành nghiên cứu
hồ sơ vụ án một cách kỹ lưỡng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án từ đó chuẩn bị
những điều kiện cần thiết nhất để giải quyết đúng đắn vụ án. Thẩm pháp phải thực hiện các
hoạt động sau đây:
- Nghiên cứu các vấn đề về thủ tục tố tụng của vụ án dân sự
4


+ Xem xét về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự: Thẩm quyền là nội dung đầu tiên
mà thẩm phán cần làm rõ khi nghiên cứu vụ án. Thẩm phán xem xét vụ án có thuộc thẩm
quyền của mình hay không.
+ Xem xét về thời hiệu khởi kiện: Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án thẩm phán phải xác định
vụ án đó còn thời hiệu khởi kiện hay không. Thời hiệu khởi kiện được quy định tại Điều
159, 160 BLTTDS và hướng dẫn tại mục 2 phần IV Nghị quyết 02/2005.
Tuy nhiên, cần phân biệt như sau:
Nếu tranh chấp phát sinh trước ngày 01/01/2005, thì thời hạn hai năm, kể từ ngày

01/01/2005 ;
Nếu tranh chấp phát sinh từ ngày 01/01/2005, thì thời hạn hai năm, kể từ ngày quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị
xâm phạm;
Nếu quyền yêu cầu phát sinh trước ngày 01/01/2005, thì thời hạn một năm, kể từ ngày
01/ 01/2005;
Nếu quyền yêu cầu phát sinh từ ngày 01/01/2005, thì thời hạn một năm, kể lừ ngày phát
sinh quyền yêu cầu.
+Xác định tư cách người tham gia tố tụng đã đúng và đầy đủ hay chưa. Tuy việc xác
định người tham gia tố tụng và đại diện của họ được thực hiện ngay từ khi thụ lý vụ án
nhưng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự Tòa án phải lưu ý xem xét việc
xác định tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã đúng và đầy
đủ hay chưa. Nếu chưa đúng và đầy đủ thì Tòa án cần triệu tập thêm đương sự và xác định
tư cách đương sự để giúp cho việc giải quyết vụ án được thuận lợi.
+ Xác định vụ án đã được giải quyết bằng một bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật hay chưa. Nếu vụ án chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật thì Tòa án tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án. Nếu vụ án đã được giải quyết bằng
một bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Nghiên cứu các vấn đề về nội dung của vụ án dân sự.
+Xác định quan hệ pháp luật làm phát sinh tranh chấp: Để giải quyết đúng đắn vụ án
Thẩm phán cần phải xác định rõ quan hệ pháp luật làm phát sinh tranh chấp thuộc loại quan
hệ nào. Trong vụ án có một quan hệ hay nhiều quan hệ pháp luật cần giải quyết. Nếu vụ án
có nhiều quan hệ pháp luật cần giải quyết thì TA cần xác định các quan hệ pháp luật này có
liên quan đến nhau hay không. Nếu có liên quan thì giải quyết trong cùng một vụ án, nếu
không có thì tách ra giải quyết bằng vụ án khác. Bên cạnh đó TA cần xác định vụ án có yêu
cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền, nghĩa vụ liên quan hay không.
Nếu có thì Tòa án sẽ áp dụng quy định Điều 176,177 và Điều 178 BLTTDS để giải quyết.
+ Làm rõ những tình tiết liên quan của vụ án: Sau khi xác định rõ quan hệ pháp luật
làm phát sinh tranh chấp TA cần làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án như quyền và nghĩa

vụ của các bên có được pháp luật bảo vệ không, nguyên nhân gây ra tình trạng tranh chấp…
+ Nghiên cứu đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ: Khi nghiên cứu hồ sơ TA cần phải
nghiên cứu đánh giá chứng cứ trên cả ba phương diện: tính hợp pháp, tính khách quan và
tính liên quan. Bên cạnh đó còn phải xác định vai trò của từng chứng cứ và mối liên hệ giữa
các chứng cứ trong việc làm rõ các tình tiết của vụ án.
2.3. Các hoạt động tố tụng trong chuẩn bị xét xử
5


2.3.1.Tiến hành hoà giải và công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
Sau khi thụ lý vụ án, tòa án tiến hành giải thích pháp luật, hướng dẫn các đương sự giải
quyết mâu thuẫn, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết các vấn đề của VADS có tranh chấp.
Hoạt động này của tòa án là hoạt động hòa giải VADS. Hòa giải VADS là hoạt động tố tụng do
TA tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án dân sự.
Khoản 2 Điều 180 BLTTDS quy định việc hoà giải được tiến hành theo các nguyên tắc sau
đây: Một là,“Tôn trọng sự tự nguyện thoả thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực
hoặc đe doạ dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thoả thuận không phù hợp với ý chí của
mình”; Hai là, “Nội dung thoả thuận giữa các đương sự không được trái pháp luật hoặc trái đạo
đức xã hội”.
Việc hòa giải trước khi xét xử sơ thẩm là bắt buộc, trừ những việc không hòa giải được
hoặc pháp luật quy định không được hòa giải được quy định tại các Điều 181 và 182 BLTTDS.
Trình tự hòa giải, thành phần hòa giải được quy định cụ thể tại Điều 185a và 184 BLTTDS. Về
thủ tục tiến hành hòa giải, trước khi tiến hành phiên hoà giải, TA phải thông báo cho các đương
sự, người đại diện hợp pháp của đương sự biết về thời gian, địa điểm tiến hành phiên hoà giải,
nội dung các vấn đề cần hoà giải. Khi có đầy đủ điều kiện để tiến hành hòa giải thì thẩm phán
được phân công giải quyết vụ án có cán bộ thư ký TA giúp việc ghi biên bản sẽ tiến hành phiên
hòa giải. Thẩm phán công bố nội dung vụ án đang tranh chấp, phổ biến cho các đương sự biết
các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án, phân tích hậu quả pháp lý của
việc hoà giải thành để họ tự nguyện thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Sau đó, đến
lượt nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan phát biểu quan điểm của họ

về vấn đề đang tranh chấp và đưa ra định hướng giải quyết. Khi đương sự thỏa thuận được với
nhau về các vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì tòa án lập biên bản hòa giải thành. Biên bản
hòa giải có nội dung theo quy định tại Điều 186 BLTTDS. Biên bản này chưa có giá trị pháp lý,
nó chỉ là tài liệu văn bản xác nhận một sự kiện và nó là cơ sở để tòa án ra quyết định công nhận
sự thỏa thuận của đương sự.
* Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có đương sự nào
thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải hoặc một Thẩm phán
được Chánh án TA phân công ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Trong
thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương
sự, TA phải gửi quyết định đó cho các đương sự và VKS cùng cấp. Tuy nhiên, thẩm phán chỉ ra
quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự nếu các đương sự thoả thuận được với
nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án. Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 184 của Bộ
luật này mà các đương sự có mặt thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thoả
thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận
nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trong trường hợp thoả thuận
của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thoả thuận này chỉ có giá
trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hoà giải
đồng ý bằng văn bản.
Theo Điều 188 BLTTDS thì quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự có
hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm.Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự đã khép lại qua trình tố tụng
đối với việc giải quyết vụ án, tuy nhiên để đề phòng có sai lầm hay vi phạm pháp luật có thể xảy
6


ra trong quá trình tiến hành hòa giải thì khoản 2 Điều 188 quy định: “Quyết định công nhận sự
thoả thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ
cho rằng sự thoả thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe doạ hoặc trái pháp luật, trái đạo đức
xã hội”.

2.3.2.Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trong quá trình giải quyết VADS, trước khi mở phiên tòa TA có thể áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo vệ yêu cầu cấp bách của đương sự hoặc bảo vệ bằng chứng.
Điều 102 BLTTDS quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời sau:
“Giao người chưa thành niên cho cá nhân, cơ quan tổ chức trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục; Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng; Buộc thực hiện trước
một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm; Buộc người sử
dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc
bệnh nghề nghiệp cho người lao động; Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao
động; Kê biên tài sản đang tranh chấp; Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang
tranh chấp; Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; Cho thu hoạch, cho bán hoa màu
hoặc sản phẩm, hang hóa khác; Phong tỏa tài sản tại ngân hang, tổ chức tín dụng khác, kho
bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ; Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ; Cấm
hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định; Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà
pháp luật có quy định”
Người có quyền yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là đương sự hoặc
VKS. TA có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu tự mình xét thấy cần thiết. Quyết
định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực thi ngay, các đương sự có quyền khiếu
nại, VKS có quyền kháng nghị với chánh án TA có thẩm quyền giải quyết vụ án về quyết định
này.Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận đơn khiếu nại, kháng nghị thì Chánh TA phải xem
xét và trả lời.
2.3.3. Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử, nếu có căn cứ do pháp luật quy định để tạm ngừng
việc giải quyết VADS thì TA sẽ quyết định tạm ngừng giải quyết VADS - quyết định tạm đình
chỉ giải quyết VADS. Tạm đình chỉ giải quyết VADS là việc TA quyết tạm ngừng việc giải quyế
VADS khi có những căn cứ do pháp luật quy định.
Theo Điều 189 BLTTDS, các căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết VADS gồm:
“Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã sát nhập, chia, tách, giải thể mà
chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ
chức đó; Một bên đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được

người đại diện theo pháp luật; Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người
thay thế; Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy
định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án. Các trường
hợp khác mà pháp luật có quy định”.
Theo quy định tại Điều 194 BLTDS, khi phát hiện có một trong các căn cứ nêu trên thì
thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự đó. Quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS phải được lập thành văn
bản. Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án không phải là chấm dứt việc giải quyết vụ án và đình
chỉ tố tụng mà bản thân quá trình giải quyết vụ án chỉ tạm thời bị gián đoạn trong một thời gian
nhất định. Tính chất gián đoạn tạm thời này sẽ được khắc phục, mọi hoạt động tố tụng sẽ được
khôi phục khi nguyên nhân của việc tạm đình chỉ không còn nữa.
7


2.3.4. Đình chỉ giải quyết vụ án.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử, nếu có căn cứ do pháp luật quyy định để ngừng việc giải
quyết VADS thì TA sẽ quyết định ngừng việc giải quyết VADS - Quyết định đình chỉ giải quyết
VADS. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc tòa án quyết định ngừng việc giải quyết vụ án
dân sự khi có những căn cứ do pháp luật quy định.
Đặc điểm của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là sau khi có quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự, các hoạt động tố tụng giải quyết vụ án dân sự được ngừng lại.
Theo quy định tại Điều 192 BLTTDS, các căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự gồm
có:
“Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền và nghĩa vụ của họ không được
thừa kế; Cơ quan, tổ chức bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan,
tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; Người khởi kiện rút đơn
khởi kiện và được tòa án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện; Cơ quan,
tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu
không tiếp tục giải quyết vụ án; Các đương sự đã tự thỏa thuận và không yêu cầu tòa án tiếp tục
giải quyết vụ án; Nguyên đơn đã được triệu tập đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; Đã có quyết

định của tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đượng sự trong
vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã
đó; Các trường hợp quy định Điều 168 BLTTDS. Các trường hợp khác mà pháp luật quy định.”
Theo quy định Điều 194 BLTTDS, khi phát hiện có một trong những căn cứ nêu trên thì
thẩm phán được phân công giải quyết VADS có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết
VADS. Quyết định phải được lập thành văn bản. Sau khi có quyết định đình chỉ giải quyết
VADS thì mọi hoạt động tố tụng giải quyết VADS phải được ngừng lại. TA ra quyết định đình
chỉ giải quyết VADS xóa tên VADS trong sổ thụ lý.
2.3.5. Quyết định đưa vụ án ra xét xử
Quyết định đưa vụ án ra xét xử do thẩm phán phụ trách vụ án (người sẽ nắm quyền chủ
tọa phiên tòa) ban hành. Theo qui định tại Bộ luật tố tụng dân sự, trong thời hạn một tháng kể từ
ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do
chính đáng thì thời hạn này là hai tháng.
Luật không qui định rõ Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải tống đạt cho các đương sự
trước bao nhiêu ngày, nhưng thông thường là khoảng 10 – 15 ngày trước khi xét xử các đương
sự sẽ nhận được văn bản này. (Thông thường, đây cũng là thời gian để luật sư, viện kiểm sát –
nghiên cứu hồ sơ vụ án, để tham dự phiên tòa. Vì lúc này hồ sơ vụ án sẽ ở tình trạng tương đối
“đầy đủ”).
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có các nội dung chính sau đây:
“Ngày, tháng, năm ra quyết định; Tên Toà án ra quyết định; Vụ án được đưa ra xét xử;
Tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn hoặc người khác khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ án,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Họ, tên Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án
và họ, tên Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dự khuyết, nếu có; Họ, tên Kiểm sát viên tham gia
phiên toà, nếu có; Ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm mở phiên toà;
h) Xét xử công khai hoặc xét xử kín; Họ, tên những người được triệu tập tham gia phiên toà.”
Chính vì ý nghĩa quan trọng – thể hiện trong các nội dung nói trên, nên nếu vụ án được
đưa ra xét xử mà không/chưa có Quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc có sự mâu thuẫn, sai sót
giữa nội dung trong quyết định với thực tế.
8



III. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC CHUẨN BỊ XÉT XỬ
3.1. Những ưu điểm của pháp luật hiện hành quy định về công tác chuẩn bị xét xử1
Thứ nhất, về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. có thể thấy rằng, quy định về vấn đề này
của pháp luật là khá hợp lý. Pháp luật đã đặt ra quy định này trên cơ sở nội dung yêu cầu của
đương sự là đơn giản hay phức tạp và thời gian trung bình để TA tiến hành các công việc nhằm
đưa vụ án dân sự ra xét xử. Với thời hạn như vậy là cần thiết để nghiên cứu một cách kỹ lưỡng
hồ sơ, yêu cầu của các đương sự, các chứng cứ, tài liệu liên quan, nhưng đồng thời cũng không
quá dài làm vụ án bị trì trệ, những vụ án mang tính chất nhạy cảm như hôn nhân và gia đình có
thể được giải quyết một cách kịp thời, đáp ứng yêu cầu của các đương sự, tránh việc gây ra
những thiệt hại về quyền và lợi ích cho họ do thời hạn chuẩn bị xét xử quá lâu.
Thứ hai, về vấn đề thông báo việc thụ lý VADS quy định tại Điều 174 BLTTDS cho bị
đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và VKS cùng cấp. Việc thông
báo này đã giúp cho các đương sự nắm bắt được quá trình giải quyết vụ án và có các biện pháp
để bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích của mình. VKS là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật,
do đó, nếu được thông báo đầy đủ quá trình giải quyết vụ án dân sự ngay từ giai đoạn đầu tiên
thụ lý vụ án dân sự thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho VKS thực hiện tốt chức năng của mình,
đảm bảo quá trình giải quyết VADS diễn ra theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba, về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn theo quy định tại Khoản 1 điều 176 BLTTDS
2004 khi chưa được sửa đổi bị hạn chế trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo thụ
lý vụ án của TA do phải nộp yêu cầu phản tố cùng lúc với việc nộp văn bản ghi ý kiến đối với
yêu cầu của người khởi kiện2. Việc hạn chế này là chưa hợp lý bởi sự hạn chế này là không phù
hợp với nguyên tắc các đương sự được bình đẳng khi tham gia tố tụng do nguyên đơn được
quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu trong khi bị đơn lại không được quyền đưa ra yêu cầu phản tố
để được TA xem xét trong cùng một vụ án như nguyên đơn. Do vậy, để tránh những vướng mắc
trong quá trình giải quyết vụ án, Điều 176, 177 BLTTDS sửa đổi năm 2011 đã qui định cho phù
hợp như sau: Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước khi TA ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Đây là
một điểm tiến bộ so với BLTTDS năm 2004 nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương

sự, có thể cho phép bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đưa
ra yêu cầu độc lập trong suốt quá trình chuẩn bị sơ thẩm vụ án, trước khi Tòa án ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử.
Thứ tư, về vấn đề hòa giải.Bằng các quy định được đưa ra trong Luật và hướng dẫn thi
hành kỹ lưỡng trong Nghị quyết, pháp luật tố tụng dân sự đã giúp các bên đương sự nhận thức
rõ được tầm quan trọng của hòa giải trong vụ tranh chấp của họ, giúp tiết kiệm thời gian, tiền
của các bên và Nhà nước, giúp đương sự hàn gắn các rạn nứt giữa họ mà không mất đi hòa khí
sau tranh chấp. Điều này cũng tạo thuận lợi cho việc góp phần củng cố khối đoàn kết toàn dân
và tạo thuận lợi cho việc giải quyết VADS.
3.2. Những hạn chế trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Bên cạnh những ưu điểm như đã phân tích ở trên, thì các quy định trong BL TTDS
không thể tránh khỏi việc tạo ra những bất cập, vướng mắc khi đưa vào áp dụng trong thực tế:
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự : Khoá luận tốt nghiệp / Lê Thị Lan; Người hướng dẫn:
ThS. Nguyễn Thị Thu Hà, Đại học Luật Hà Nội, 2011
2
Xem khoản 1 điều 175 BLTTDS 2004
1

9


Thứ nhất, theo quy định tại Điều 171 BLTTDS quy định: “Tòa án thụ lý vụ án khi
người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí”. Tuy nhiên, luật lại chưa quy
định cụ thể về văn bản để xác nhận việc TA sẽ thụ lý vụ án sau khi đương sự nộp biên lai án phí.
Thứ hai, BLTTDS mới chỉ dừng ở quy định chung về việc người được thông báo
không nộp cho TA văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện thì phải
chịu hậu quả pháp lý. Bên cạnh đó, không phải chỉ có bị đơn mà cả cá nhân, tổ chức có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan cũng nằm trong diện những người nhận được thông báo của TA.
Tuy nhiên, hậu quả pháp lý họ phải chịu là gì, bất lợi ra sao thì chưa được quy định rõ
(Điểm g Khoản 2 Điều 174).

Thứ ba, trong quá trình hòa giải, có quy định về trường hợp bị đơn cố tình vắng mặt thì
không tiến hành hòa giải được (Điều 182 BL TTDS). Tuy nhiên, Luật thực định chưa có quy
định cụ thể về “cố tình vắng mặt” là như thế nào. Mặt khác, quy định hiện hành cũng mới chỉ
dừng ở việc quy định về trường hợp đương sự là bị đơn vắng mặt mà chưa có quy định cụ thể về
trường hợp đương sự là nguyên đơn vắng mặt trong buổi hòa giải đến lần thứ hai. Điều này sẽ
gây khó khăn cho TA trong việc quyết định tiến hành bước tiếp theo trong việc giải quyết vụ án
sơ thẩm.
Thứ tư, pháp luật hiện hành chưa có quyết định phân công thẩm phán thụ lý vụ án.
Quyết định này sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho thẩm phán được phân công để giải quyết vụ
việc, đồng thời giúp người thẩm phán có trách nhiệm hơn với công việc của mình. Mặt khác,
quyết định phân công thẩm phán khi được gửi tới cho các đương sự liên quan sẽ giúp họ có thể
sớm đưa ra yêu cầu thay đổi thẩm phán nếu vị thẩm phán được phân công bị rơi vào trường hợp
phải bị thay đổi để đảm bảo sự công bằng cho các đương sự (căn cứ theo Điều 46, 47 BL
TTDS).
3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong thủ tục chuẩn bị xét xử sơ thẩm3
Từ những mặt hạn chế trên nhóm xin nêu một số kiến nghị đề hoàn thiện qui định của
BLTTDS trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm:
Thứ nhất, để bảo vệ quyền tố tụng chính đáng của đương sự và bảo đảm đúng thủ tục
tố tụng. BLTTDS nên quy định bổ sung về hình thức văn bản xác nhận việc Tòa án thụ lý vụ án
chứ không chỉ dừng lại ở việc xem xét biên lai nộp tiền tạm ứng án phí mà đương sự đưa cho
Tòa án như hiện nay.
Thứ hai, đối với trường hợp những đương sự thấy rằng các chứng cứ chứng minh cho
vụ việc được người khởi kiện đưa ra trong đơn là rõ ràng và đầy đủ, họ không có yêu cầu gì
thêm, do đó, thấy không cần thiết phải nộp bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người
khởi kiện. Vậy hậu quả pháp lý họ phải nhận khi đó là gì? Điều này cần được các nhà làm luật
làm rõ tại điểm g khoản 2 điều 174 BLTTDS.
Thứ ba, cần qui định cụ thể thế nào là “cố tình vắng mặt” của bị đơn trong phiên hòa
giải tại khoản 1 điều 182 BLTTDS. Có thể coi “cố tình vắng mặt” khi bị đơn biết rõ nghĩa vụ
phải có mặt của mình nhưng vẫn vắng mặt mà không đưa ra được lí do chính đáng nào.
Thứ tư, đối với trường hợp vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và

nghĩa vụ liên quan trong phiên hòa giải, nhất là với những vụ án có nhiều đương sự, cần được
quy định theo hướng giúp vụ việc có thể nhanh chóng được giải quyết một cách thỏa đáng, phù
hợp với nguyện vọng của các đương sự. Có thể quy định theo các hướng sau:
Hoàn thiện các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự trong Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2004 / Đoàn Đức Lương, Tạp chí tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, số 04/2011
3

10


+ Nếu một trong các nguyên đơn vắng mặt đến lần thứ hai mà không có lý do chính
đáng thì coi như nguyên đơn đó đã từ bỏ yêu cầu và đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của
nguyên đơn vắng mặt. Tòa án sẽ tiến hành hòa giải nếu sự thỏa thuận đó không làm ảnh hưởng
đền quyền lợi của nguyên đơn vắng mặt.
+ Nếu một trong các bị đơn vắng mặt mà các bị đơn khác vẫn muốn tiến hành hòa giải
và việc hòa giải không ảnh hưởng đến bị đơn vắng mặt thì tòa án tiến hành hòa giải giữa các
đương sự có mặt, nếu không thì Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập nếu được Tòa án triệu tập
đến lần thứ hai mà vẫn mặt không có lý do chính đáng thì coi như họ từ bỏ yêu cầu đó và Tòa
án vẫn tiếp tục tiến hành hòa giải giữa các đương sự có mặt.
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không độc lập mà vắn mặt đến lần thứ hai vẫn
không có lý do chính thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử.
KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên đây, có thể thấy giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ là một
giai đoạn cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình xét xử một vụ án dân sự.
Tuy nhiên, pháp luật cần có sự sửa đổi và bổ sung sao cho những quy định về giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự cụ thể, rõ ràng và hợp lý hơn để phù hợp với thực tiễn thi
hành.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB CAND,
Hà Nội, 2010.
2. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự : Khoá luận tốt nghiệp / Lê Thị Lan; Người
hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Thu Hà, Đại học Luật Hà Nội, 2011
3. Hoàn thiện các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự trong Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2004 / Đoàn Đức Lương, Tạp chí tòa án nhân dân, Tòa án
nhân dân tối cao, số 04/2011.
4. Bộ luật tố tụng dân sự 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011
5. Nghị quyết 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 Hướng dẫn thi hành một số
quy định tại chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của BLTTDS.

11



×