Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tiểu luận tình huống lựa chọn phương án giải quyết tranh chấp trong hoạt động góp vốn kinh doanh bằng quyền sử dụng đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.04 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ LÊ HỒNG PHONG
LỚP BỒI DƯỠNG NGẠCH CHUYÊN VIÊN K6A - 2015

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Tên đề tài: Lựa chọn phương án giải quyết tranh chấp trong hoạt động
góp vốn kinh doanh bằng quyền sử dụng đất

Họ và tên học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy.
Đơn vị công tác: Phòng Kinh tế quận Hà Đông.

Hà Nội, tháng 11 năm 2015


MỤC LỤC

Trang
Lời nói đầu………………………………………………………..

2

Phần I. Mô tả tình huống………………………………………...

4

1. Hoàn cảnh ra đời của tình huống:………………………..

4

2. Diễn biến tình huống:…………………………………….


4

Phần II. Phân tích tình huống…………………………………...

7

1. Cơ sở lý luận……………………………………………...

7

2. Xác định mục tiêu của tình huống………………………..

8

3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả……………………….

8

a) Nguyên nhân:………………………………………

8

b) Hậu quả:……………………………………………

12

4. Xây dựng và lựa chọn phương án giải quyết……………..

13


a) Xây dựng phương án giải quyết:…………………...

13

b) Lựa chọn phương án tối ưu:………………………..

16

c) Kế hoạch tổ chức thực hiện:………………………..

17

Phần III. Kết luận và kiến nghị………………………………….

18

Tài liệu tham khảo………………………………………………..

21

1
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy


LỜI NÓI ĐẦU

Sở hữu đất đai theo Hiến pháp năm 1992, là Hiến pháp của thời kỳ đổi
mới, tại Điều 17, khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước quản

lý nhưng thừa nhận quyền sử dụng đất của người sử dụng đất.
Sự phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng Xã hội chủ nghĩa, đất đai
được coi là nguồn lực quan trọng. Để sử dụng hiệu quả nguồn lực này, bên cạnh
việc khẳng định là chủ thể duy nhất đại diện cho sở hữu toàn dân, Nhà nước đã
có những quy định trao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng đất các quyền năng
khác nhau của quyền sử dụng đất như quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thế
chấp, cho thuê, thừa kế, thậm chí cả quyền góp vốn để khai thác những lợi ích từ
đất đai. Trong quá trình khai thác, sử dụng các quyền của quyền sử dụng đất, các
chủ thể có thể nảy sinh tranh chấp về quyền sử dụng đất. Các tranh chấp này
được nhân dân thường gọi đó là tranh đất đai.
Trong quá trình đổi mới đó, việc ghi nhận và tạo điều kiện cho các tổ
chức, cá nhân với vốn, tài sản của mình được tự do gia nhập thị trường là một
trong những thước đo quan trọng thể hiện mức độ dân chủ của xã hội dân sự;
mức độ năng động của nền kinh tế theo hướng thị trường. Việc thừa nhận tổ
chức, cá nhân được dùng quyền sử dụng đất để góp vốn vào doanh nghiệp thể
hiện chính sách đúng đắn của Nhà nước Việt Nam đối với vấn đề đất đai, coi đó
là một trong những nguồn lực quan trọng cần phải khai thác, huy động để phát
triển kinh tế. Mặc dù vậy, đến nay do pháp luật Việt Nam còn có những quy
định chưa đồng bộ, thống nhất trong việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh
chấp khi các bên góp vốn bằng quyền sử dụng đất khiến cho việc huy động
nguồn lực đất đai vào phát triển kinh tế bị giảm đi đáng kể.
Trong quản lý xã hội, nhà nước là tổ chức có vai trò quan trọng. Việc xác
định rõ thẩm quyền, giải quyết kịp thời những tranh chấp về đất đai không
những đảm bảo được lợi ích của nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức, cá
nhân sử dụng đất, mà còn góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự xã hội. Qua
2
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy



đó, góp phần thúc đẩy các quan hệ xã hội phát triển, tạo được niềm tin của nhân
dân đối với bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước. Mặt khác, việc giải quyết các
tranh chấp đất đai nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả sẽ giảm thiểu chi phí xã hội,
chấn chỉnh, uốn nắn những thiếu sót, lệch lạc, yếu kém trong công tác quản lý
nhà nước về đất đai, kiến nghị với cấp có thẩm quyền bổ sung, sửa đổi chế độ
chính sách, pháp luật về đất đai sát, hợp với thực tiễn cuộc sống.
Với những lý do trên, học viên chọn đề tài: Lựa chọn phương án giải
quyết tranh chấp trong hoạt động góp vốn kinh doanh bằng quyền sử dụng
đất làm đề tài cho tiểu luận tốt nghiệp lớp quản lý nhà nước chuyên viên của
mình.
Nội dung tình huống nêu ra hiện nay xuất hiện ngày càng phổ biến, đang
được các cơ quan hành chính và toà án có nhiều quan điểm khác nhau trong việc
xác định thẩm quyền giải quyết.
Mục đích của tiểu luận là nhằm làm sáng tỏ những quy định của pháp luật
về đất đai, về vấn đề kinh tế tài chính trong việc áp dụng chính sách luật và đi
sâu vào tình huống thực tiễn trong xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp về
quyền sử dụng đất khi các tổ chức, cá nhân góp vốn vào doanh nghiệp. Thông
qua đó, học viên đưa ra hướng xử lý phù hợp với pháp luật hiện hành và điều
kiện thể chế. Những yêu cầu trong tình huống quản lý Nhà nước vừa hàm chứa
cơ sở lý luận, vừa chứa đựng các quy định thực định của pháp luật về giải quyết
tranh chấp đất đai và thực tiễn cuộc sống. Mặc dù có nhiều cố gắng, song tiểu
luận không tránh khỏi có những hạn chế, học viên rất mong được sự quan tâm
đóng góp ý kiến của thầy cô Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành phố
Hà Nội để tiểu luận được hoàn chỉnh hơn.

3
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy



Phần I
MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
1. Hoàn cảnh ra đời của tình huống:
Tình huống xảy ra tranh chấp giữa ông Dương Hoàng Nam và Công ty
Cổ phần Dịch vụ và Du lịch Phú An liên quan tới quyền sử dụng đất mang góp
vốn vào doanh nghiệp.
2. Diễn biến tình huống:
Công ty Cổ phần Dịch vụ và Du lịch Phú An (sau đây gọi tắt là Công ty
Phú An) được thành lập vào đầu năm 2007 với ngành nghề kinh doanh các dịch
vụ thương mại, du lịch, ăn uống, giải trí. Trong những năm 2008 đến 2010 do
nhu cầu phát triển kinh doanh, Công ty Phú An đã tìm hiểu thị trường và xác
định sau khi Hà Nội mở rộng sẽ khiến cho khu vực phía Tây phát triển và nhu
cầu về các dịch vụ thương mại, du lịch, giải trí tăng nhanh. Qua môi giới, ông
Lương Ngọc Hà - Giám đốc Công ty Phú An đã làm việc với ông Dương Hoàng
Nam tại phường PL, quận HĐ, thành phố Hà Nội, là người hiện có 5.000 m2 đất
ở (nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) để xây dựng khu
dịch vụ du lịch giải trí. Qua bàn bạc, ông Lương Ngọc Hà và ông Dương Hoàng
Nam đã nhất trí về việc thuê số diện tích đất đó trong thời hạn 10 năm với tổng
giá trị là 1 tỷ đồng. Song, nhằm giảm bớt chi phí đầu tư và vốn vay, ông Hà
cũng gợi ý ông Nam nghiên cứu phương án góp vốn vào Công ty bằng quyền sử
dụng đất theo hướng số tiền thuê đất 10 năm sẽ chuyển thành vốn góp vào Công
ty. Như vậy, ông Nam vẫn có 1 tỷ đồng trong phần vốn góp vào Công ty Phú
An, đồng thời thỏa thuận sẽ được chia lãi khi Công ty làm ăn có hiệu quả trong
phụ lục Hợp đồng với Công ty Phú An. Hơn nữa, thỏa thuận thêm rằng, con trai
ông Nam là anh Dương Hoàng Phúc sẽ được làm Phó Chủ tịch Hội đồng Quản
trị kiêm Phó Giám đốc Công ty Phú An, Phụ trách mảng thị trường và khách
hàng tiềm năng.


4
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy


Sau khi bàn bạc với các thành viên trong gia đình, ông Nam đã quyết định
lựa chọn phương án góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Tại Hợp đồng góp vốn vào Công ty Phú An, có ghi rõ: ông Nam nhất trí
góp vốn bằng quyền sử dụng 5.000m2 đất ở thuộc quyền sử dụng của mình trong
thời hạn 10 năm kể từ ngày 20/07/2008 (hiện ông Nam chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng có nguồn gốc đất sử dụng ổn định từ
trước năm 1945) với trị giá 1 tỷ đồng và được ghi vào vốn điều lệ của Công ty
(chiếm 15%). Vì cho rằng đây là thỏa thuận góp vốn, các bên có toàn quyền thỏa
thuận, nên sau khi ký hợp đồng với ông Nam, Công ty Phú An không làm thủ
tục công chứng, chứng thực và đăng ký quyền sử dụng đất đã nhận góp vốn tại
cơ quan có thẩm quyền.
Nhưng sau 03 năm kinh doanh trên diện tích đất đó không hiệu quả, nên
Công ty Phú An đã quyết định cho Công ty cổ phần Dịch vụ và Thương mại
Thành Phong thuê lại cơ sở vật chất trong thời hạn 7 năm còn lại với giá 1,5 tỷ
đồng. Do chuyển đổi Công ty, hệ thống lãnh đạo không đồng nhất giữa Công ty
cũ và Công ty mới, nên anh Phúc đã không được Công ty CPDV&TM Thành
Phong thuê nữa và anh Phúc đã phải nghỉ việc sau 3 năm làm việc cho Công ty
Phú An.
Sau khi chuyển đổi Công ty, ông Nam đã có được một số chứng từ từ con
trai chứng minh Công ty cũ Phú An đã có số lãi nhất định trong 3 năm hoạt động
kinh doanh, và đã đề xuất lên Ban Giám đốc, song Công ty Phú An giải thích
rằng, Công ty hoạt động không hiệu quả và cũng đã nhiều lần nêu lên trong các
cuộc Họp Đại hội đồng cổ đông về tình hình như vậy của Công ty, đồng thời
cũng nhận được sự ủng hộ của đại bộ phận cổ đông trong đó có ông Nam, ủng

hộ việc tạm thời chưa chia cổ tức vì lý do nêu trên của Công ty. Như vậy, ông
Nam đã không được hưởng lợi nhuận gì trong suốt 3 năm đó. Nhưng theo chứng
từ mà anh Phúc đưa ra, lợi nhuận của Công ty hoạt động trong 3 năm là 1,2 tỉ
đồng, theo thỏa thuận, đương nhiên ông Nam sẽ được hưởng 15% lợi nhuận. Do

5
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy


vậy, ông Nam đã không muốn hợp tác tiếp với Công ty được chuyển đổi sau này
và yêu cầu Công ty Phú An thực hiện đúng cam kết.
Hơn nữa, vì cho rằng Công ty Phú An vi phạm thoả thuận khi góp vốn,
ông Nam đã yêu cầu Công ty Phú An không được cho thuê lại, mà phải trả lại
đất cho gia đình ông. Nhưng ông Hà không đồng ý với yêu cầu của ông Nam và
chỉ dẫn rằng đã có văn bản nêu rõ lý do mảnh đất là phần vốn góp của ông Nam
vào Công ty Phú An trong thời hạn 10 năm, đã thực hiện được 03 năm, nên
quyền sử dụng đất trong thời gian còn lại là 07 năm vẫn thuộc về Công ty Phú
An và Công ty Phú An có quyền sử dụng hoặc cho Công ty CPDV&TM Thành
Phong thuê để sử dụng đúng với mục đích như trước đây hai bên đã thoả thuận
góp vốn.
Ông Nam đã quyết định thuê Công ty tư vấn pháp luật để tư vấn khởi kiện
vụ việc tranh chấp quyền sử dụng đất và liên quan đến việc thanh toán lợi nhuận
(cổ tức) theo như phụ lục Hợp đồng giữa hai bên, theo hướng kiện, đề nghị Chủ
tịch UBND quận HĐ giải quyết, sau đó cùng ngày đưa lên Toàn án nhân dân
quận HĐ khởi kiện về việc thanh toán cổ tức. Hồ sơ của ông Nam đã được thụ
lý giải quyết. Còn Công ty Phú An lại cho rằng đây là việc thỏa thuận góp vốn
có liên quan đến nhà đất, thuộc lĩnh vực dân sự nên đã làm đơn khởi kiện, yêu
cầu Toà án nhân quận HĐ giải quyết về tranh chấp thỏa thuận góp vốn vào Công

ty với ông Nam, cũng được Tòa án quận HĐ thụ lý để giải quyết.
Trong trường hợp nêu trên, việc Chủ tịch UBND quận HĐ tiến hành giải
quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính theo yêu cầu của ông Nam; còn
Tòa án quận HĐ giải quyết về tranh chấp theo thủ tục tố tụng dân sự có liên
quan đến thỏa thuận góp vốn vào công ty theo yêu cầu của Công ty Phú An đều
phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Vậy cần đưa ra các phương án
giải quyết và xác định cơ quan nào là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp này một cách đúng pháp luật, vừa phù hợp với thực tế cuộc sống là mục
đích mà tình huống quản lý nhà nước này đặt ra.

6
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy


Phần II
PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
1. Cơ sở lý luận:
Thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, quyền sử dụng đất cũng được coi là một nguồn lực quan trọng để
phát triển kinh tế. Trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đã ban
hành hàng loạt các quy định để thể chế hoá chủ trương, đường lối này nhằm tạo
điều kiện cho các tổ chức, cá nhân được góp vốn bằng quyền sử dụng đất để gia
nhập thị trường như:
- Bộ luật dân sự 2005;
- Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004;
- Luật tố tụng hành chính 2010;
- Luật doanh nghiệp năm 2005;
- Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ hướng

dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp.
- Luật công chứng năm 2006;
- Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 của Chính phủ Quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Luật công chứng.
- Luật đất đai năm 2003;
- Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn
thi hành Luật đất đai.;
- Luật xây dựng năm 2003;
- Nghị định 180/2007/NĐ-CP ngày 07/12/2007 của Chính phủ Quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xây dựng về xử lý vi phạm
trật tự xây dựng đô thị.
- Nghị định 23/2009/NĐ-CP ngày 27/02/2009 của Chính phủ về xử phạt
vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai

7
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy


thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ
thuật; quản lý phát triển nhà và công sở.
2. Xác định mục tiêu của tình huống
Mục tiêu của việc xử lý tình huống trên đây dưới 2 phương diện, một là
giải quyết tranh chấp giữa ông Nam với Công ty Phú An có liên quan đến đất
đai là tài sản vốn góp một cách khách quan, đúng pháp luật. Hai là, làm rõ việc
thanh toán cổ tức nếu có giữa ông Nam và Công ty Phú An, nhằm:
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Nam trong việc thực hiện
quyền góp vốn đối với đất chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; quyền
và lợi ích hợp pháp của Công ty Phú An trong việc nhận vốn góp; bảo đảm đúng

quy định của Nhà nước về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, hoạt động
góp vốn bằng quyền sử dụng đất được thực hiện trên thực tế.
- Xác định tranh chấp giữa ông Nam với Công ty Phú An về bản chất là
tranh chấp về quyền sử dụng đất hay tranh chấp về việc góp vốn vào doanh
nghiệp, từ đó xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trên, bảo
đảm tính thống nhất và minh bạch của pháp luật trong việc phân định thẩm
quyền giải quyết tranh chấp trên.
- Xác định rõ, minh bạch trong vấn đề kiểm kê tài chính trong vấn đề lợi
tức cổ phần của Công ty với các cổ đông, trong đó có ông Nam. Đảm bảo quyền
lợi của các bên tham gia theo Luật Doanh nghiệp 2005.
3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả
a) Nguyên nhân:
Pháp luật đất đai không có quy định nào về việc không cho phép người sử
dụng đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong
các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm
2003 được góp vốn theo quy định của pháp luật. Do vậy, việc thỏa thuận góp
vốn bằng quyền sử dụng đất giữa ông Nam với Công ty Phú An trong thời hạn
10 năm với giá trị là 1 tỷ đồng được pháp luật Việt Nam bảo hộ và thừa nhận.
Cụ thể, tại khoản 1 Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định: “Tổ chức,
8
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy


cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý
doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này” và khoản 8 Điều 13
Luật Đất đai 2003 cũng quy định: “Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không
phải là đất thuê có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất với tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài để hợp tác sản xuất, kinh

doanh”.
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thuê có quyền góp vốn bằng tài sản
thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê trong thời hạn thuê đất với tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài để hợp tác sản xuất,
kinh doanh”.
Về nguyên tắc, khi quyền sử dụng đất của ông Nam được mang ra góp
vốn trong thời hạn 10 năm, thì trong thời gian đó quyền sử dụng đất thuộc về
Công ty Phú An. Hết thời hạn 10 năm, quyền sử dụng đất sẽ được trả lại cho ông
Nam, còn ông Nam được thừa nhận sở hữu 1 tỷ đồng trong phần vốn góp bằng
việc ghi nhận tại Giấy đăng ký kinh doanh của Công ty Phú An.
Việc thỏa thuận này được thực hiện bằng văn bản là đúng quy định của
pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, văn bản thỏa thuận góp vốn bằng quyền sử dụng
đất nêu trên phải được các bên làm thủ tục công chứng, chứng thực và đăng ký
tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều 131
Luật Đất đai năm 2003: “Hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải có
chứng nhận của công chứng nhà nước; trường hợp hợp đồng góp vốn bằng
quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng
nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn nơi có đất” và Điều 155 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày
29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai năm 2003 quy định về việc
đăng ký góp vốn bằng quyền sử dụng đất. “Trong thời hạn không quá mười
ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, văn phòng đăng ký quyền sử
dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, đối với trường hợp đủ điều kiện góp
vốn thì thực hiện đăng ký góp vốn vào hồ sơ địa chính và giấy chứng nhận
9
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy



quyền sử dụng đất; trường hợp việc góp vốn phát sinh pháp nhân mới thì gửi hồ
sơ đăng ký góp vốn đến cơ quan quản lý đất đai thuộc Uỷ ban nhân dân cấp có
thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho pháp nhân mới đó”.
Trường hợp nêu trên, thỏa thuận góp vốn giữa các bên chưa phát sinh hiệu
lực pháp luật, do chưa làm thủ tục công chứng, chứng thực và đăng ký tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Về phía ông Nam, việc ông cho rằng đây là tranh chấp có liên quan đến
đất đai chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên đề nghị Chủ tịch
UBND quận HĐ giải quyết là đúng. Tuy nhiên, đây mới chỉ là hình thức của
tranh chấp, còn về bản chất đó là tranh chấp về việc góp vốn mà đối tượng là
quyền sử dụng đất chưa được cấp Giấy chứng nhận.
Về phía Công ty Phú An, việc Công ty cho rằng đây là tranh chấp có liên
quan đến góp vốn thành lập doanh nghiệp là đúng về bản chất, nội dung của
quan hệ tranh chấp nên đã yêu cầu Tòa án quận HĐ giải quyết, cũng phù hợp
với quy định về thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự. Tuy nhiên, do đối
tượng góp vốn là quyền sử dụng đất chưa có Giấy chứng nhận, nên việc để thỏa
thuận góp vốn giữa các bên được coi là hợp pháp, cần phải tuân theo quy định
của pháp luật chuyên ngành về hình thức và thủ tục, mà ở đây các bên cần phải
tuân thủ những quy định về công chứng, chứng thực và đăng ký tại cơ quan có
thẩm quyền theo quy định của Luật Đất đai năm 2003.
Thứ hai, hiện nay còn tồn tại những mâu thuẫn, bất cập giữa hệ thống
pháp luật về đất đai và pháp luật dân sự. Việc yêu cầu của ông Nam được xác
định là giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất chưa có Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Do 5.000m2 thuộc quyền sử dụng của ông Nam không có
giấy tờ và chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên theo quy định
tại điểm a khoản 2 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003, thẩm quyền giải quyết
thuộc Chủ tịch UBND cấp huyện nơi có đất tranh chấp “Tranh chấp về quyền sử
dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không
10

Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy


có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật
này được giải quyết như sau: Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết mà một bên hoặc các bên đương sự
không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết hoặc khởi kiện
theo quy định của Luật Tố tụng hành chính”. Trong trường hợp này hành vi của
ông Nam làm đơn đề nghị Chủ tịch UBND quận HĐ - nơi có đất tranh chấp, giải
quyết yêu cầu Công ty Phú An trả lại đất đã góp vốn là đúng quy định về thẩm
quyền giải quyết. Chủ tịch UBND quận HĐ là cơ quan có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất chưa có giấy
chứng nhận hoặc không có giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của
Luật Đất đai năm 2003.
Đối với Công ty Phú An, họ lại lựa chọn làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa
án quận HĐ giải quyết tranh chấp thỏa thuận góp vốn vào doanh nghiệp, theo
quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự. Khi có đơn khởi kiện của
Công ty Phú An, Tòa án quận HĐ căn cứ vào khoản 3 Điều 29 Bộ luật tố tụng
dân sự để thụ lý giải quyết vụ án, đó là “Tranh chấp giữa công ty với các thành
viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc
thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình
thức tổ chức của công ty”. Do vậy, việc Tòa án quận HĐ thụ lý giải quyết tranh
chấp giữa Công ty Phú An và ông Nam cũng có căn cứ.
Quyền góp vốn bằng tài sản là quyền sử dụng đất và cũng là quyền dân sự
đã được quy định tại Luật Đất đai năm 2003. Tuy nhiên quyền này chưa được
quy định cụ thể tại Bộ luật dân sự năm 2005. Điều này dẫn đến việc khi xảy ra
tranh chấp về những vấn đề liên quan, cơ quan giải quyết tranh chấp chỉ có thể

viện dẫn trình tự, thủ tục quy định tại Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi
hành, mà không thể viện dẫn quy định của pháp luật dân sự. Trong khi đó Luật
Đất đai năm 2003 quy định về vấn đề này chủ yếu ở hình thức, không đề cập
đến nội dung.
11
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy


Thứ ba, việc tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân gia nhập thị trường đã
được pháp luật ghi nhận bằng các thủ tục đăng ký kinh doanh, thành lập doanh
nghiệp một cách nhanh chóng, nhưng công tác hậu kiểm trong khâu đăng ký
kinh doanh chưa được cơ quan nhà nước quan tâm, chú trọng. Tình trạng phổ
biến hiện nay khi đăng ký kinh doanh là các bên tham gia góp vốn doanh nghiệp
có văn bản thoả thuận về giá trị vốn góp. Thỏa thuận đó được coi là lĩnh vực dân
sự, nên cơ quan đăng ký kinh doanh thường không tham gia vào việc kiểm tra
tính hợp pháp của nó. Quan niệm như vậy khiến công tác hậu kiểm về việc góp
vốn vào doanh nghiệp bị coi nhẹ, mang tính hình thức. Các bên tham gia góp
vốn và cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ quan tâm đến tính thủ tục, mà thường
không coi trọng việc thực hiện nội dung của thoả thuận đó. Điều này khiến trong
quá trình kinh doanh nếu xảy ra tranh chấp trong việc góp vốn sẽ làm cản trở
hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ tư, về việc thanh toán cổ tức, theo Luật Doanh nghiệp 2005 tại mục
3, điều 93. Trả cổ tức: Hội đồng quản trị phải lập danh sách cổ đông được nhận
cổ tức, xác định mức cổ tức được trả đối với từng cổ phần, thời hạn và hình thức
trả chậm nhất 30 ngày trước mỗi lần trả cổ tức. Thông báo về trả cổ tức được
gửi bằng phương thức bảo đảm đến cổ đông theo địa chỉ đăng ký trong sổ đăng
ký cổ đông chậm nhất 15 ngày trước khi thực hiện trả cổ tức, thì ông Nam đã có
đơn kiện gửi lên Tòa án nhân dân quận HĐ cùng các giấy tờ làm bằng chứng

việc Công ty Phú An làm ăn có lợi nhuận trong 3 năm là đúng theo quy trình và
Tòa án đã thụ lý hồ sơ đồng thời yêu cầu ông Nam chờ giải quyết trong 60 ngày
kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ theo đúng luật tố tụng dân sự.
Thứ năm, sự hiểu biết của cán bộ công chức trong việc giải quyết tranh
chấp có liên quan đến đất đai hiện nay còn nhiều hạn chế, một mặt do nhận thức
chủ quan, nhưng quan trọng hơn là do pháp luật quy định về vấn đề này còn
chồng chéo, lưỡng tính, hiểu thế nào cũng được, áp dụng thế nào cũng được.
b) Hậu quả:

12
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy


Việc pháp luật không quy định nhất quán thẩm quyền giải quyết tranh
chấp góp vốn bằng quyền sử dụng đất có thể gây ra các hậu quả sau:
Thứ nhất, hậu quả của việc tranh chấp quyền sử dụng đất gây thiệt hại về
mặt kinh tế cho những người tham gia góp vốn, cản trở hoạt động bình thường
của doanh nghiệp; việc tranh chấp, khiếu kiện kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến
dư luận xã hội.
Thứ hai, một vụ việc tranh chấp có bản chất là góp vốn vào doanh nghiệp
bằng quyền sử dụng đất nếu do nhiều cơ quan khác nhau đều có thẩm quyền giải
quyết căn cứ vào những văn bản pháp luật khác nhau, mà không cơ quan nào bị
coi là sai thẩm quyền. Sự chồng chéo trong việc phân công, phân cấp giữa các
cơ quan hành chính và tư pháp không hợp lý, làm giảm sút lòng tin của nhân dân
về chính sách của Nhà nước trong việc thừa nhận quyền góp vốn bằng quyền sử
dụng đất của người sử dụng và hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước
về đất đai; đồng thời thể hiện sự rủi ro của bên yêu cầu giải quyết, sự yếu kém
của công tác lập pháp, lập quy của Nhà nước.

4. Xây dựng và lựa chọn phương án giải quyết
a) Xây dựng phương án giải quyết:
Phương án I: Giải quyết tranh chấp theo thủ tục hành chính
Theo phương án này, xác định Chủ tịch UBND quận HĐ là người có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Hoà giải trong việc giải quyết tranh chấp đất
đai nói chung và tranh chấp giữa ông Nam với Công ty Phú An là một thủ tục
có tính bắt buộc. Việc hoà giải được tiến hành ở cấp xã phường theo quy định tại
Điều 135 Luật Đất đai. Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
đơn, UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp có trách nhiệm phối hợp
với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ
chức xã hội khác để hoà giải tranh chấp đất đai.
Kết quả hoà giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản có chữ
ký của các bên tranh chấp và xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn nơi có
đất. Trong trường hợp nêu trên, việc Chủ tịch UBND quận HĐ thụ lý đơn của
13
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy


ông Nam để giải quyết tranh chấp đất dùng để góp vốn vào doanh nghiệp khi
UBND phường PL nơi có đất và nhà chưa tiến hành hoà giải là chưa đúng quy
trình giải quyết tranh chấp đất đai.
Trong trường hợp này Chủ tịch UBND quận HĐ có thể hướng dẫn ông
Nam gửi đơn đến UBND phường PL nơi có đất và nhà để thực hiện việc hoà
giải giữa các bên trước khi gửi đơn đến Chủ tịch UBND quận để giải quyết theo
quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai “Trường hợp kết quả
hoà giải khác với hiện trạng sử dụng đất thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn chuyển kết quả hoà giải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết

theo quy định về quản lý đất đai” chỉ đề cập đến tranh chấp đất đai giữa các bên
về quyền sử dụng đất giáp ranh, mà không đề cập đến tranh chấp quyền sử dụng
đất mang góp vốn vào doanh nghiệp. Do vậy, trong trường hợp nêu trên, Chủ
tịch UBND quận HĐ thụ lý ngay đơn của ông Nam, không qua hoà giải tại cơ
sở, vẫn không bị coi là trái pháp luật.
Chủ tịch UBND quận HĐ sẽ căn cứ vào giá trị pháp lý của văn bản thoả
thuận góp vốn giữa các bên để ra quyết định, rằng quá trình góp vốn vào Công
ty Phú An, ông Nam không công chứng, chứng thực và đăng ký theo đúng quy
định của pháp luật hiện hành nên thoả thuận đó không có giá trị pháp lý. Công ty
Phú An phải hoàn trả cho ông Nam 5.000m2 đất đã nhận góp vốn.
Tuy nhiên việc giải quyết này chỉ thuần túy theo thủ tục hành chính và
mới đạt được về mặt hình thức. Về bản chất, nội dung của thoả thuận giữa các
bên có liên quan đến quyền và nghĩa vụ tài chính khi góp vốn kinh doanh. Do
không có thẩm quyền giải quyết, nên Chủ tịch UBND quận HĐ phải hướng dẫn
các bên gửi đơn đến Tòa án để yêu cầu giải quyết.
Nếu Công ty Phú An không đồng ý với quyết định giải quyết của Chủ tịch
UBND quận HĐ thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định có
thể khiếu nại đến Chủ tịch UBND thành phố; hoặc khởi kiện yêu cầu Tòa án giải
quyết trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày Chủ tịch UBND quận HĐ ra quyết
14
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy


định giải quyết khiếu nại mà không chấp thuận hoặc hết thời hạn trả lời khiếu
nại mà Chủ tịch UBND quận HĐ không có văn bản trả lời. Trường hợp này,
trong thời hạn quy định của pháp luật, Công ty Phú An có quyền lựa chọn hình
thức khiếu nại hay khởi kiện đối với quyết định hành chính giải quyết tranh chấp
giữa mình với ông Nam theo thủ tục tố tụng hành chính.

Phương án II: Giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự
Xác định thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án. Khi có đơn khởi kiện
của Công ty Phú An, Tòa án quận HĐ phải căn cứ vào khoản 3 Điều 29 Bộ luật
tố tụng dân sự để thụ lý giải quyết vụ án. Toà án quận HĐ phải tiến hành hoà
giải giữa các bên tham gia tranh chấp.
Nếu hoà giải thành, Toà án quận HĐ lập biên bản hoà giải thành và sau
thời hạn 15 ngày kể từ ngày hoà giải thành các bên không thay đổi ý kiến thì ra
quyết định công nhận hoà giải thành và ra quyết định đình chỉ vụ án. Trong
trường này, Toà án quận HĐ sẽ phải có trách nhiệm hướng dẫn các bên làm thủ
tục công chứng, chứng thực và đăng ký góp vốn bằng quyền sử dụng đất tại Văn
phòng đăng ký đất, nhà quận HĐ.
Nếu các bên không hoà giải được, Toà án quận HĐ phải đưa vụ án ra xét
xử. Theo đó, Toà án quận HĐ sẽ phải xác định thoả thuận giữa các bên tham gia
là hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Căn cứ vào quy định tại Điều 131 Luật Đất đai năm 2003 và Điều 155
Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật
Đất đai năm 2003, việc thoả thuận góp vốn giữa các bên phải làm thủ tục công
chứng, chứng thực và đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong
trường hợp này, thoả thuận giữa các bên chưa công chứng, chứng thực và làm
thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nên chưa phát sinh hiệu
lực pháp luật.
Nếu trong trường hợp Công ty Phú An yêu cầu công nhận thoả thuận góp
vốn vào doanh nghiệp của ông Nam, Toà án quận HĐ sẽ căn cứ Điều 131 Luật
Đất đai năm 2003 và Điều 155 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004
15
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy



của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003 để ra phán quyết hợp đồng
chưa phát sinh hiệu lực và tuyên bác yêu cầu của Công ty Phú An.
Về yêu cầu giải quyết các tranh chấp quyền và nghĩa vụ tài chính có liên
quan, Toà án quận HĐ sẽ căn cứ vào thực tế Công ty Phú An đã cho ông Nam
hưởng các quyền lợi liên quan khi chấp thuận vốn góp 1 tỷ đồng để tuyên các
bên có trách nhiệm hoàn trả các quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
b) Lựa chọn phương án tối ưu:
Căn cứ vào tính chất và nội dung của tranh chấp giữa Công ty Phú An và
ông Nam, thấy rằng việc giải quyết theo thủ tục hành chính theo quy định của
pháp luật hiện hành bị “miễn cưỡng” và không giải quyết được triệt để nội dung
tranh chấp giữa các bên liên quan. Quyết định buộc Công ty Phú An trả lại đất
cho ông Nam xuất phát từ việc các bên không công chứng, chứng thực và đăng
ký góp vốn bằng quyền sử dụng đất tại cơ quan có thẩm quyền. Hậu quả pháp lý
của việc này là các bên có thể tiếp tục phải khởi kiện ra toà án để yêu cầu giải
quyết hậu quả của việc góp vốn không đúng pháp luật.
Trong trường hợp Toà án quận HĐ xử lý theo thủ tục dân sự, trước hết thể
hiện bản chất của thoả thuận dân sự. Nếu các bên có thiện chí thì tiến hành làm
thủ tục công chứng, chứng thực và đăng ký góp vốn bằng quyền sử dụng đất tại
cơ quan có thẩm quyền để hợp đồng đó có hiệu lực.
Trường hợp các bên không hoà giải được thì phán quyết của Toà án quận
HĐ về các nội dung liên quan sẽ giải quyết được 02 vấn đề:
- Về hình thức, việc tuyên hợp đồng không phát sinh hiệu lực vẫn phù hợp
với quy định tại Điều 131 Luật đất đai năm 2003 và Điều 155 Nghị định
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai năm
2003. Đây không phải là việc lấn quyền của Chủ tịch UBND quận HĐ, mà khi
giải quyết bất kỳ nội dung nào, Toà án phải xem xét về tính hợp pháp về hình
thức thoả thuận đó căn cứ vào pháp luật liên quan;
- Về bản chất, Toà án quận HĐ sẽ căn cứ vào thực tế Công ty Phú An đã
cho ông Nam hưởng các quyền lợi liên quan khi chấp thuận vốn góp 1 tỷ đồng
16

Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy


để tuyên các bên có trách nhiệm hoàn trả các quyền lợi và nghĩa vụ liên quan để
giải quyết triệt để vấn đề, nếu các bên có yêu cầu giải quyết các tranh chấp
quyền và nghĩa vụ tài chính có liên quan.
Nhưng phương án II có nhược điểm là đương sự phải nộp án phí và phải
tiến hành theo các thủ tục theo pháp luật tố tụng quy định và thời gian kéo dài.
Tuy nhiên, từ những phân tích nêu trên, học viên lựa chọn phương án II,
chuyển vụ việc đến Toà án quận HĐ để giải quyết theo quy định của pháp luật
tố tụng dân sự.
c) Kế hoạch tổ chức thực hiện:
Trong trường hợp sử dụng phương án II, cơ quan Tòa án và Chính phủ
cần thống nhất và có văn bản hướng dẫn trường hợp tranh chấp quyền sử dụng
đất mang góp vốn sẽ do Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, sau đó sẽ
tiến hành thực hiện như phương án II đã trình bày ở trên, như vậy mới tránh
được rủi ro trong việc xác định thẩm quyền.

17
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy


Phần III
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Các vấn đề liên quan đến đất đai, trong thời buổi kinh tế thị trường ngày
nay luôn là chủ đề nóng bỏng cần được các cơ quan chức năng quan tâm và giải

quyết. Sự quản lý chưa tốt, thể hiện một mặt là hậu quả buông lỏng quản lý đất
đai của các cơ quan Nhà nước trong thời gian qua, nhưng nó cũng thể hiện việc
thiếu tính khách quan của những quy định pháp luật trong vấn đề này. Để phát
huy các nguồn lực từ đất đai phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, công tác quản lý nhà nước nói chung và quản lý hành chính nói riêng
về đất đai cần được đổi mới, nhất là trong việc giải quyết các tranh chấp về đất
đai, tránh tình trạng “bao biện, vừa đá bóng, vừa thổi còi” của cơ quan hành
chính Nhà nước.
Nghiên cứu, đề ra phương thức giải quyết tranh chấp đất đai có liên quan
đến việc góp vốn vào doanh nghiệp, thiết nghĩ là một trong những điều kiện cần
và đủ để chúng ta khai thác tối đa nguồn lực này. Từ thực tế tình huống tranh
chấp việc góp vốn thành lập doanh nghiệp có liên quan đến đất đai nêu trên, học
viên xin đề xuất một số kiến nghị liên quan sau đây:
Một là, tiến hành sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật về đất
đai, Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật liên quan cho phù hợp. Hiện nay
việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất đã phát sinh phổ biến trong quan hệ kinh
doanh. Trong khi đó Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành
vẫn được coi là Luật mang tính hành chính, nên những nội dung cụ thể thực hiện
quyền góp vốn của người sử dụng đất chưa được rõ ràng, cụ thể. Bộ Luật dân sự
năm 2005 mới chỉ quy định các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế
chấp, thừa kế quyền sử dụng đất. Do vậy, quyền góp vốn bằng quyền sử dụng
đất cần được bổ sung quy định vào Bộ luật dân sự. Việc này một mặt khẳng
định quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất là quyền dân sự của người sử dụng
đất; mặt khác với những quy định về hình thức, nội dung của hợp đồng góp vốn
18
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy



bằng quyền sử dụng đất làm cơ sở cho người sử dụng đất thực hiện quyền của
mình. Cơ quan Toà án trên cơ sở đó cũng có căn cứ để xác định thẩm quyền khi
tham gia giải quyết tranh chấp.
Hai là, xác định rõ thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi góp vốn bằng
quyền sử dụng đất trong tất cả các trường hợp đã có hoặc chưa có Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp sẽ do Tòa án giải quyết. Quy định về
thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất chưa có giấy tờ hợp pháp
khi đem góp vốn hiện nay dẫn đến hoạt động của các cơ quan nhà nước khi giải
quyết tranh chấp và người yêu cầu giải quyết gặp nhiều rủi ro. Quyết định giải
quyết của cơ quan hành chính hay phán quyết của Toà án có thể dễ dàng bị
tuyên là vi phạm pháp luật do trái thẩm quyền, khiến người có yêu cầu phải mất
nhiều thời gian, tốn công sức, tiền của.
Do vậy, đối với những tranh chấp về quyền góp vốn bằng quyền sử dụng
đất, cần nghiên cứu, quy định theo hướng trao quyền giải quyết cho Toà án,
thay vì cơ quan hành chính nhà nước. Theo đó những tranh chấp về góp vốn
bằng quyền sử dụng đất ngay cả đối với trường hợp không có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hoặc một trong các giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5
Điều 50 Luật Đất đai cũng sẽ cho Toà án giải quyết theo thủ tục dân sự. Quy
định như vậy sẽ giải quyết những chống chéo về thẩm quyền giải quyết giữa các
cơ quan hành chính nhà nước và Toà án theo quy định của Luật đất đai và Bộ
luật tố tụng dân sự.
Thứ ba, thực hiện công tác phổ biến, nâng cao nhận thức pháp luật. Quản
lý nhà nước được thực hiện theo pháp luật là cơ sở chủ yếu để điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Muốn tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật, ngăn chặn kịp
thời những hành vi vi phạm, hạn chế sự chồng chéo hoặc đùn đẩy trách nhiệm
giữa các cơ quan có thẩm quyền, cần phải làm tốt công tác phổ biến pháp luật
đến tận cơ sở, thông qua các chương trình giáo dục pháp luật, hỗ trợ pháp lý
doanh nghiệp; làm cho mọi người hiểu và thực hiện đúng pháp luật “Sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Vì vậy, việc nâng cao trình độ của cán
19

Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy


bộ, công chức trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, có năng lực và tận
tụy phục vụ nhân dân là hết sức cần thiết và bức bách hiện nay.

20
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Giáo trình quản lý hành chính nhà nước của Học viện hành quốc gia.
[2]. Bộ luật dân sự 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
[3]. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004;
[4]. Luật đất đai năm 2003;
[5]. Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng
dẫn thi hành Luật đất đai;
[6]. Luật xây dựng năm 2003;
[7]. Nghị định 180/2007/NĐ-CP ngày 07/12/2007 của Chính phủ Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xây dựng về xử lý vi
phạm trật tự xây dựng đô thị.
[8]. Nghị định 23/2009/NĐ-CP ngày 27/02/2009 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản;
khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ
thuật; quản lý phát triển nhà và công sở.
[9]. Luật khiếu nại, tố cáo và các Nghị định hướng dẫn thi hành.

[10]. Luật tố tụng hành chính năm 2010.
[11]. Luật doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
[12]. Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ
hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp.
[13]. Luật công chứng năm 2006;
[14]. Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 của Chính phủ Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Luật công chứng.
[15]. Một số tài liệu liên quan khác.

21
Tiểu luận cuối khóa lớp chuyên viên K6A.2015

Học viên: Nguyễn Thị Phương Thủy



×