Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tiểu luận tình huống ngạch chuyên viên xử lý tình huống khiếu nại liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông nguyễn văn z trú tại xã p, huyện q, tỉnh y

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.87 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
Phần thứ nhất ............................................................................................................. 1
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 2
3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 2
4. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 3
Phần thứ hai................................................................................................................ 4
NỘI DUNG ................................................................................................................. 4
1. Mô tả tình huống ................................................................................................ 4
2. Mục tiêu xử lý tình huống ................................................................................. 9
3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả ................................................................ 10
3.1. Nguyên nhân ............................................................................................... 10
3.2. Hậu quả ....................................................................................................... 11
3.3. Cơ sở pháp lý .............................................................................................. 11
4. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án ................................................ 12
4.1. Phương án thứ 1.......................................................................................... 12
4.2. Phương án thứ 2.......................................................................................... 13
4.3. Phương án thứ 3.......................................................................................... 13
4.4. Lựa chọn phương án ................................................................................... 15
5. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã lựa chọn ............................. 15
Phần thứ ba ............................................................................................................... 17
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................. 17
1. Quán triệt các nguyên tắc giải quyết khiếu nại đất đai ................................ 17
2. Hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại đất đai ............................................. 18
3. Đối với đội ngũ cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại ............................ 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 22


Phần thứ nhất
MỞ ĐẦU



1.Lý do chọn đề tài
Khiếu nại là quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm
1992 và tiếp tục được khẳng định tại Hiến pháp năm 2013 “Mọi người có quyền
khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm
trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân” (Điều 30). Khiếu nại là công cụ pháp
lý để công dân bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi bị xâm phạm, là biểu hiện của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thông qua giải quyết khiếu nại, Đảng và Nhà nước
kiểm tra tính đúng đắn, sự phù hợp của đường lối, chính sách, pháp luật do mình
ban hành, từ đó có cơ sở thực tiễn để hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực,
hiệu quả quản lý Nhà nước. Vì vậy, giải quyết khiếu nại của công dân là một vấn
đề được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm. Để việc khiếu nại và công
tác giải quyết khiếu nại đúng pháp luật, góp phần phát huy dân chủ, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, cơ quan, tổ chức và tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc hơn trong
giải quyết khiếu nại, tố cáo, Nhà nước ta đã ban hành Luật Khiếu nại, tố cáo năm
1998; được sửa đổi, bổ sung vào năm 2004, 2005 và mới đây nhất là Luật Khiếu
nại năm 2011.
Khiếu nại là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã hội; đặc biệt khi nước ta
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước thực hiện cơ chế quản lý mới
bằng việc trả lại đất đai những giá trị vốn có thì tranh chấp đất đai phát sinh có xu
hướng ngày càng tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức tạp về mặt nội dung.
Tính phức tạp của tranh chấp đất đai, khiếu nại kéo dài không chỉ bắt nguồn từ
những xung đột gay gắt về lợi ích kinh tế, từ hệ quả của sự quản lý thiếu hiệu quả
của cơ quan công quyền, sự bất hợp lý và thiếu đồng bộ của hệ thống chính sách,
pháp luật đất đai…mà còn do những nguyên nhân có tính lịch sử trong quản lý và
1


sử dụng đất đai qua các thời kỳ. Việc nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật về giải quyết

khiếu nại đất đai và thực trạng công tác giải quyết khiếu nại đất đai là rất cần thiết
góp phần vào việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đất đai nói
chung và pháp luật về giải quyết khiếu nại đất đai nói riêng trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Từ những lý do trên đây, vận dụng những kiến thức đã tiếp thu được trong quá
trình học tập, nghiên cứu ở Lớp Bồi dưỡng chuyên viên K3A-2015 tại Trường Đào
tạo cán bộ Lê Hồng Phong cùng với những kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình
công tác, tôi đã lựa chọn tiểu luận tình huống với đề tài: “Xử lý tình huống khiếu
nại liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn
Văn Z trú tại xã P, huyện Q, tỉnh Y ” làm tiểu luận cuối khóa.
2.Mục tiêu nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình huống trong quản lý Nhà nước về
đất đai; trên cơ sở nghiên cứu lý luận cơ bản, phân tích thực tiễn tình hình và giải
quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến lĩnh vực đất đai trên địa bàn tỉnh tìm ra
phương án tối ưu để xử lý tình huống. Đồng thời, phát hiện những hạn chế, bất cập
trong các quy định của pháp luật và công tác quản lý Nhà nước về đất đâi; để từ đó
kiến nghị các giải pháp, nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai, đảm bảo ổn định được tình hình trật
tự xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
3.Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng để giải quyết, xử lý tình huống được nêu trong
Tiểu luận bao gồm:
- Phương pháp phân tích, phương pháp bình luận, phương pháp diễn giải.
- Phương pháp so sánh, phương pháp đánh giá.
- Phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp, phương pháp lập luận logic.

2


4.Phạm vi nghiên cứu

Khiếu nại và xử lý khiếu nại trong lĩnh vực đất đai là vấn đề rộng. Tuy nhiên,
trong khuôn khổ của một bản tiểu luận cuối khóa, tác giả giới hạn phạm vi nghiên
cứu vào nội dung xử lý tình huống khiếu nại liên quan đến việc cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của một công dân cụ thể tại xã P, huyện Q, tỉnh Y.
5. Bố cục tiểu luận
Phần thứ nhất: Mở đầu
Phần thứ hai: Nội dung
Phần thứ ba: Kết luận và kiến nghị

3


Phần thứ hai
NỘI DUNG

1.Mô tả tình huống
Năm 1977, Ông Nguyễn Văn Z được UBND xã P cấp diện tích 360m2 đất tại
xã P, huyện Q, tỉnh Y. Ông Nguyễn Văn Z và vợ là bà Nguyễn T. Liên sinh được
03 người con trai; gồm: anh Nguyễn Văn A (con trai trưởng), anh Nguyễn Văn B
và anh Nguyễn Văn C (con trai út). Do đặc điểm xung quanh lô đất được cấp là ao
tự nhiên chưa gia cho hộ nào quản lý cho nên trong quá trình sử dụng đất gia đình
ông Z đã cải tạo lấp ao để mở rộng diện tích vườn trồng rau cho gia đình.
Năm 1992, UBND xã P có chủ trương làm đường liên thôn đi qua khu đất của
gia đình ông Z chia thửa đất trên thành 02 mảnh, một mảnh có nhà ở và một mảnh
đã trồng hoa màu. Năm 1996, anh Nguyễn Văn A xây dựng gia đình và cùng ở
chung với gia đình ông Z. Cùng năm, ông Nguyễn Văn Z đã thuê xe đổ đất và cải
tạo phần đất đang sử dụng canh tác trồng hoa màu thành đất ở. UBND xã P mời
ông Z đến làm việc và yêu cầu xuất trình giấy tờ về quyền sử dụng đất, cán bộ địa
chính xã P cho rằng đất của gia đình ông Z thừa diện tích và đã hướng dẫn ông Z
làm đơn xin giao đất làm nhà cho con trai cả của ông là Nguyễn Văn A. Theo

hướng dẫn của cán bộ địa chính xã, anh Nguyễn Văn A đã làm đơn và được UBND
xã P giao 100m2 trên khu đất mà gia đình ông Z đang trồng hoa màu để làm đất ở;
đồng thời, UBND xã P thu của ông Z 6.000.000 đồng tiền kinh tế đất. UBND xã P
làm mương thoát nước với diện tích 25m2 và đền cho gia đình ông Z 3.000.000
đồng tiền hoa mùa. Diện tích còn lại khoảng 100m2 gia đình ông Z vẫn sử dụng để
trồng rau màu. Tháng 01/2007, UBND xã P đã làm thủ tục giao 100m2 đất còn lại
mà ông Z đang trồng rau màu cho bà Nguyễn Thị T làm nhà ở và thu của bà T
60.000.000 đồng. Khi bà T xây dựng nhà ở, gia đình ông Z phản đối. UBND xã P
mời ông Z lên làm việc và yêu cầu xuất trình giấy tờ về quyền sử dụng đất; Qua

4


xem xét, UBND xã P thông báo diện tích đất còn lại mà ông Z đang sử dụng trồng
rau màu là diện tích thừa, không phải đất sử dụng hợp pháp của gia đình ông,
UBND xã P có quyền giao đất có thu tiền cho người khác sử dụng.
Ngày 09/2/2007, ông Nguyễn Văn Z đã làm đơn khiếu nại gửi UBND xã P,
huyện Q, tỉnh Y với nội dung không nhất trí với cách giải quyết UBND xã P đối
với diện tích đất trồng hoa màu của gia đình ông. Ông Z cho rằng diện tích đất hợp
pháp của gia đình ông là 360m2, nay phải đo đủ cho gia đình số diện tích đó.
Trên cơ sở đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn Z trú tại xã P, huyện Q, tỉnh Y;
UBND xã P đã giao cho cán bộ phụ trách đô thị, địa chính, tư pháp và các thành
viên có liên quan xác minh sự việc. Ngày 25/03/2008, UBND xã P ban hành Thông
báo số 04; với nội dung: “Diện tích đất mà gia đình ông Nguyễn Văn Z trồng rau là
do gia đình tự ý khai phá, nằm ngoài diện tích đất mà UBND xã cấp, hiện đã chấm
dứt quyền sử dụng đất sau khi đã được đền bù hoa lợi, gia đình đã làm đơn nhất trí
nhận 3.000.000đ tại thời điểm năm 1996”. Ông Nguyễn Văn Z không thống nhất và
có đơn khiếu nại đến UBND huyện Q.
Ngày 02/5/2008, UBND huyện Q ban hành Quyết định số 229/QĐ-UB thành
lập Đoàn thanh tra giải quyết đơn khiếu nại ông Nguyễn Văn Z trú tại xã P, huyện

Q, tỉnh Y; gồm các thành viên như sau: đại diện Phòng Tài nguyên và Môi trường,
đại diện Thanh tra huyện, đại diện phòng Quản lý đô thị và Chủ tịch UBND xã P.
Đoàn thanh tra có nhiệm vụ tiến hành xác minh, kiểm tra làm rõ những nội dung
trong đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn Z và kiến nghị, báo cáo Chủ tịch UBND
huyện Q xử lý.
Quá trình xác minh hồ sơ địa chính hiện đang lưu tại UBND xã P cho thấy:
+ Tại Sổ mục kê ruộng đất lập ngày 15/5/1991 và bản đồ địa chính đo đạc lập
năm 1991 (Tờ số 2 trang 50): ông Nguyễn Văn Z đứng tên chủ sử dụng thửa đất có
ký hiệu 200a, diện tích là 360m2. Tại thời điểm này, đường liên thôn chưa được
phản ánh trên bản đồ.

5


Năm 1992, đường liên thôn được nâng cấp và mở rộng, phần diện tích đường
đi qua thửa đất của ông Nguyễn Văn Z là 60m2. Trong bản đồ địa chính phản ánh ở
thời điểm này thì thửa đất 200a được tách thành 02 thửa cụ thể là:
- Thửa 90, tờ bản đồ 12 có diện tích là 105m2 đất do ông Nguyễn Văn X sử
dụng nhưng trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì do ông Nguyễn Văn K
đứng tên sử dụng.
- Thửa 91, tờ bản đồ 12 có diện tích 190m2 đất do ông Nguyễn Văn Z đứng tên
sử dụng.
Do đường liên thôn đã mở rộng và nâng cấp cho nên diện tích hai thửa đất này
tại hai thời điểm năm 1991 và 1992 có sự chênh lệch về diện tích.
Đối chiếu với hồ sơ địa chính được lập năm 2002 thì tại bản đồ chính quy số
20 cho thấy: thửa đất này mang ký hiệu 200a, diện tích 360m 2, đo đạc năm 1991
của gia đình ông Nguyễn Văn Z đã được tách làm 03 thửa:
- Thửa 90, diện tích 96m2 thực tế hiện nay do ông Nguyễn Văn X sử dụng
nhưng trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì do ông Nguyễn Văn Z đứng
tên sử dụng.

- Thửa 80, diện tích 89m2 do ông Nguyễn Văn M sử dụng, do nhận chuyển
nhượng của ông Nguyễn Văn Z.
- Thửa 92, diện tích 112m2 do ông Nguyễn Văn Z và con trai là ông Nguyễn
Văn C sử dụng, hiện nay đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên
ông Nguyễn Văn Z.
Tổng diện tích 3 thửa đất là 297m2.
Đối chiếu với hồ sơ mà ông Nguyễn Văn Z cung cấp gồm có:
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Nguyễn Văn Z với tổng
diện tích 360m2 gồm 130m2 diện tích đất ở và 230m2 diện tích đất giao cho gia đình
sử dụng sản xuất tại tại xã P, huyện Q, tỉnh Y do ông Nguyễn Văn H ký nhưng
không đề thời gian.

6


Như vậy đối chiếu với hồ sơ địa chính hiện đang lưu giữ tại UBND xã P và
các giấy tờ do ông Nguyễn Văn Z cung cấp, thì thửa đất ký hiệu 200a, diện tích
360m2, bản đồ địa chính năm 1991 của gia đình ông Nguyễn Văn Z sử dụng đã có
biến động về diện tích. Nguyên nhân là do đường liên thôn đã được mở rộng và
nâng cấp đã cắt ngang qua một phần diện tích của thửa đất này, đồng thời do có
một phần diện tích đã được chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn M, do đó diện
tích đất của gia đình ông Z còn 205m2 (giảm 115m2).
Theo báo cáo của UBND xã P, việc UBND xã quyết định mở rộng và nâng
cấp con đường liên thôn được thực hiện với chủ trương “Nhà nước và nhân dân
cùng làm” không đền bù việc giải phóng mặt bằng, chỉ thực hiện đền bù hoa màu
(nếu có). Theo hồ sơ làm đường còn lưu lại thì diện tích đất vườn của ông Z được
thu hồi (không đền bù) đề làm đường là 60m2 .Theo biên bản họp tổ dân phố, các
hộ gia đình của ông Z đã ký hợp đồng ký giao đất không phải đền bù. Vậy diện tích
đất ở và đất vườn của gia đình ông A chỉ còn 297m2 là chính xác (kể cả số diện tích
ông Z đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn M).

+ Tại bản đồ địa chính lập năm 1991, phần diện tích mà gia đình ông Nguyễn
Văn Z cải tạo trồng hoa màu được thể hiện là thửa đất không có số thửa (còn để
trống) thuộc quyền quản lý của UBND xã P. Năm 1996, UBND xã P quy hoạch
phần diện tích đất ao này để cấp đất xen canh và xây dựng mương thoát nước đi
qua. Có 03 hộ tự cải tạo phần diện tích đất ao hoang này để trồng rau, được UBND
xã bồi thường hoa màu trên đất. Qua kiểm tra hồ sơ đang lưu giữ tại xã, Đoàn thanh
tra nhận thấy: Ngày 10/6/1996, ông Nguyễn Văn Z làm đơn xin bồi thường hoa
màu và đã được UBND xã xác nhận có khai hoang đất và đã hỗ trợ tiền hoa màu
3.000.000đ, tại phiếu chi số 034 ông Z ký nhận đủ số tiền này. Ông Bùi Đình Hùng
sử dụng diện tích đất ao liền kề để trồng rau cũng được UBND xã đền bù
2.800.000đ, ông Trịnh Văn Tần cũng được đền bù 3.000.000đ. Năm 2007, UBND
huyện Q đã cấp đất giao cho bà Nguyễn Thị T sử dụng. Tại biên bản xác nhận giao
nhà, đất do UBND xã P lập ngày 02/12/2007 đã xác định rõ: Giao cho bà T 100m 2
7


đất ao hồ thị trấn thu hồi của ông Z để sử dụng vào mục đích làm nhà ở và bà T
phải nộp một khoản tiền 60 triệu đồng và UBND xã P đã thu của bà M số tiền 60
triệu đồng tiền thu lệ phí xây dựng phúc lợi hạ tầng và tiền sử dụng đất.
Trên cơ sở kết quả báo cáo xác minh kiểm tra kiến nghị của Đoàn thanh tra Liên
ngành, Ngày 08/6/2008, Chủ tịch UBND huyện Q đã ban hành Quyết định số
1229/QĐ-UB giải quyết đơn khiếu nại ông Nguyễn Văn Z trú tại xã P, huyện Q,
tỉnh Y với nội dung như sau: “Việc ông Nguyễn Văn Z khiếu nại việc UBND xã P
giao đất mà UBND xã quy hoạch cấp xen canh cho Nguyễn Thị T năm 2007
nguyên là đất ao hoang do UBND xã quản lý được thể hiện tại hồ sơ địa chính nêu
trên hiện đang lưu giữ tại xã P, gia đình ông Nguyễn Văn Z chỉ cải tao một phần
diện tích đất để trồng hoa màu và đã được UBND xã P đền bù 3.000.000đ. Gia đình
ông Nguyễn Văn Z không có hồ sơ giấy tờ để chứng minh quyền sử dụng đất đối
với thửa đât đã nêu trên; đồng thời gia đình ông Z cũng không thực hiện nghĩa vụ
Nhà nước đối với phần diện tích đó. Giao cho UBND xã P hướng dẫn các hộ gia

đình có liên quan làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng
quy định của pháp luật và nghiêm túc kiểm điểm các cá nhân liên quan đến việc
bán đất cho hai hộ Nguyễn Văn A và Nguyễn Thị T. Diện tích của hai hộ sẽ được
xử lý theo quy định của Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thửa đất ký hiệu 200a, diện tích là 360m2, bản đồ địa chính năm 1991 có biến
động về diện tích đất, nguyên nhân do đường liên thôn được mở rộng và nâng cấp
đã cắt ngang một phần của thửa đất nào (60m2), đồng thời do có một phần đã được
chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn M. Việc UBND xã P quyết định mở rộng và
nâng cấp con đường liên thôn được thực hiện với chủ trương “Nhà nước và nhân
dân cùng làm” đã được nhân dân trong khối bàn bạc dân chủ, thống nhất mở đường
không nhận tiền đền bù, nếu diện tích làm đường không năm trong khu vực công
trình nhà ở đã xây dựng của dân, chỉ đền bù hoa màu (nếu có); tại thời điểm UBND
xã P chủ trương thi công đường liên thôn, gia đình ông Nguyễn Văn Z đã ký biên

8


bản thống nhất không đền bù, nên trả lời cho gia đình ông Z biết là sự việc đã được
giải quyết xong trong năm 1992 (thời điểm làm đường liên thôn)”.
Sau khi nhận được quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND huyện Q, ông
Nguyễn Văn Z vẫn không nhất trí và tiếp tục có đơn khiếu nại đến Chủ tịch UBND
tỉnh Y.
2. Mục tiêu xử lý tình huống
Vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải sớm giải quyết dứt điểm vụ việc này và làm
bắt cách nào để nâng cao hiệu quả giải quyết, đáp ứng tình hình hiện nay. Xét thấy
đây là một vụ khiếu kiện kéo dài, phức tạp đụng chạm đến vấn đề đất đai là vấn đề
nhạy cảm, bức xúc, cấp bách cần giải quyết ngay với mục tiêu:
- Xử lý dứt điểm vụ khiếu nại kéo dài lên tất cả các cấp, các cơ quan có thẩm
quyền, đúng điểm dừng theo quy định của Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và Luật Đất
đai hiện hành (quyết định giải quyết cuối cùng).

- Việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn Z phải đảm bảo đúng
pháp luật, hợp lý, hợp tình, bảo vệ được quyền lợi và lợi ích hợp pháp của ông
Nguyễn Văn Z là người sử dụng đất đang khiếu nại tiếp.
- Phải khắc phục được tình trạng tranh chấp quyền sử dụng đất trong tình hình
hiện nay, nhằm đảm bảo tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực quản
lý và sử dụng đất đai, bảo vệ uy tín, củng cố lòng tin của công dân đối với chính
quyền địa phương các cấp.
- Xứ lý nghiêm minh đúng pháp luật đối với mọi hành vi vi phạm pháp luật về
đất đai, khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức, chính quyền có liên quan đến vụ
việc khiếu nại kéo dài, phức tạp này.
- Thông qua việc giải quyết thấu tình đạt lý vụ việc khiếu nại của ông Nguyễn
Văn A trú tại xã P, huyện Q, tỉnh Y để góp phần tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý
thức pháp luật về đất đai, khiếu nại, tố cáo đối với cá nhân ông Z, UBND xã P,
UBND huyện Q và các cơ quan tổ chức có liên quan.

9


3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả
3.1. Nguyên nhân
Vụ việc này đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm do một số nguyên
nhân chủ quan và khách quan như sau:
a. Nguyên nhân khách quan:
- Trong một thời gian dài, công tác quản lý đất đai bị buông lỏng, quy trình
quản lý thiếu chặt chẽ, thiếu khoa học. Hồ sơ địa chính, tài liệu lịch sử làm căn cứ
giải quyết không đầy đủ.
- Các chính sách, văn bản pháp luật của Nhà nước về quản lý đất đai có nhiều
thay đổi, có những vấn đề chưa thật cụ thể. Mặt khác, công tác cập nhật văn bản
pháp luật của cán bộ cơ sở còn yếu, vì vậy việc vận dụng, thực thi trên thực tế gặp
rất nhiều khó khăn.

- Giá trị quyền sử dụng đất ngày càng tăng cao; do vậy đã tác động đến việc
khiếu kiện đòi quyền lợi có phần thêm gay gắt.
b. Nguyễn nhân chủ quan:
- Trình độ quản lý hành chính Nhà nước nói chung về đất đai của các cấp, các
ngành từ huyện đến cơ sở còn bất cập.Công tác quản lý đất đai trong một thời gian
dài còn buông lỏng, chưa được chú trọng, hồ sơ địa chính của thửa đất (là căn cứ
quan trọng để giải quyết vụ việc) không đầy đủ, không cập nhật,thiếu chặt chẽ; thủ
tục hành chính không đảm bảo.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên môn về đất đai qua các thời kỳ của
UBND xã P còn non yếu về chuyên môn, kém hiểu biết pháp luật về đất đai, thiếu
tinh thần trách nhiệm, chưa tôn trọng các quy định về pháp luật đất đai, cho nên đã
tham mưu cho UBND xã có hành vi, quyết định hành chính giao đất, thu đất, thu
tiền sử dụng đất trái với quy định của pháp luật về đất đai, về thẩm quyền giao đất,
thu hồi đất, đền bù thiệt hại về đất dẫn đến công dân khiếu nại kéo dài, nhiều cấp,
chậm giải quyết dứt điểm. Mặt khác chưa kịp phát hiện và ngăn chặn những việc
làm sai trái của công dân dẫn đến sự việc phức tạp và có khả năng gây hậu quả
10


không tốt về an ninh, trật tự. Cụ thể: khi ông Z san lấp ao hoang để sản xuất với ý
đồ để chiếm riêng, cán bộ địa chính thị trấn không báo cho ông Z biết đó là việc
làm sai luật và có biện pháp ngăn chặn kịp thời, làm cho ông Z ngộ nhận đó là đất
riêng của mình nên đã khiếu kiện sai và kéo dài.
- Về phía ông Nguyễn Văn Z chưa có ý thức tự giác tìm hiểu để nhận thức
đúng đắn và đầy đủ các quy định của pháp luật đất đi và pháp luật khiếu nại tố cái
dẫn đến những thiếu sót, sai phạm kéo dài ngày càng phức tạp trong việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ sử dụng đất làm cho chính quyền các cấp, các cơ quan có thẩm
quyền phải đổ nhiều công sức thời gian, kinh phí vào việc giải quyết việc khiếu nại
tưởng chừng như rất đơn giản.
3.2. Hậu quả

- Khi tranh chấp đất đai không được giải quyết dứt điểm thì việc khiếu nại sẽ
kéo dài, làm ảnh hưởng đến cuộc sống chung của những người liên quan, của gia
đình cha con ông Z và gây mất ổn định tình hình an ninh - trật tự xã hội trên địa
bàn khu dân cư.
- UBND xã P buông lỏng quản lý quỹ đất thiếu trách nhiệm trong quản lý đất
đai, hồ sơ địa chính chưa được quan tâm đúng mức, chưa đầy đủ, không đủ cơ sở
cho việc quản lý đất đai, việc chỉnh lý biến động đất đai không được theo dõi và có
biểu hiện lợi ích cục bộ của thị trấn cho nên đã có những quyết định về thu hồi,
giao đất và thu tiền sử dụng đất đai trái với quy định của Luậ Đất đai và nguyên
tắc quản lý kinh tế, tài chính của Nhà nước, vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong quản lý đất đai, kinh tế - tài chính, làm ảnh hưởng đến niềm tin của
nhân dân đối với sự quản lý điều hành của Nhà nước nói riêng, chủ trương, chính
sách của Đảng và Pháp luật Nhà nước ta nói chung.
3.3. Cơ sở pháp lý
- Luật Đất đai năm 1993, 2003 và 2013;
- Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998; sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005;
- Luật Khiếu nại năm 2011;
11


- Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều của Luật Khiếu nại.
4. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án
Việc giải quyết khiếu nại đòi hỏi phải được phân loại theo tính chất vụ việc từ
đơn giản đến phức tạp, để kịp thời có biện pháp giải quyết, xử lý phù hợp. Những
vụ việc có tính chất tranh chấp trong nội bộ nhân dân, việc xử lý thuận lợi hơn,
những trường hợp có sự tham gia và chỉ dẫn của một số kẻ lợi dụng dân chủ thì
thường hết sức khó khăn và phức tạp. Do đó, khi giải quyết khiếu kiện, cần có sự
phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng nhằm xác định và hạn chế hoạt động
của các đối tượng lợi dung dân chủ, lợi dụng quyền khiếu nại để kích động, xúi

giục, lôi kéo, tổ chức đông người đi khiếu kiện.
Để vụ việc khiếu nại cụ thể của ông Nguyễn Văn Z được giải quyết dứt điểm
thấu đáo, phù hợp với các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên, tác giả cân nhân nhắc giữa 03 phương án sau:
4. 1. Phương án thứ 1
- UBND xã P giải quyết đền bù cho gia đình ôngA
- UBN tỉnh Y cho phép UBND xã P và UBND huyện Q làm thủ tục hợp thức
hoá, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho các hộ đã được UBND xã P
giao đất và đã thu tiền sử dụng đất.
Phương án này có ưu và nhược điểm sau:
*Ưu điểm:
- Khiếu nại sẽ kết thúc, giải quyết được vấn đề ở khía cạnh “tình”, công dân
(cả ông Z và bà T đều vui vẻ).
- Nhà nước thể hiện sự linh động trong điều hành, quản lý (Do diện tích lô đất
nhỏ, giá đền bù là nông nghiệp không cao).
* Nhược điểm:
- Khía cạnh “lý” không đảm bảo, không tuân thủ nghiêm các quy định của
pháp luật đất đai, ảnh hưởng đến pháp chế XHCN.
12


- Tạo tiền lệ cho những hộ khác cũng trong diện có đất bị thu hồi để làm
đường liên thôn khiếu nại đòi đền bù.
4.2. Phương án thứ 2
Đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh Y căn cứ Luật Khiếu nại năm 2011 quy định
thời hạn khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính để có văn bản bác
đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn Z vì việc thu hồi đất xảy ra năm 1992 đã hết
thời hiệu giải quyết.
Phương án này có ưu và nhược điểm sau:
*Ưu điểm:

Việc khiếu nại buộc phải dừng lại trước những quy định rõ ràng của pháp luật,
bớt đi một “gánh nặng” cho cơ quan có thẩm quyền.
*Nhược điểm:
Nếu giải quyết theo phương án này sẽ quá đơn giản, phiến diện, một chiều
không thuyết phục và bộc lộ sự mâu thuẫn trong việc giải quyết khiếu nại của nhân
dân giữa các cấp chính quyền vì việc khiếu nại đó được UBND xã P thụ lý giải
quyết và UBND huyện Q giải quyết. Nếu UBND tỉnh không thụ lý để giải quyết sẽ
làm mất lòng tin của nhân dân đối với chính quyền và công dân sẽ khiếu nại vượt
cấp làm cho vụ việc càng thêm phức tạp.
4.3. Phương án thứ 3
Việc ông Nguyễn Văn Z khiếu nại UBND xã P thu hồi đất của gia đình ông để
giao cho bà Nguyễn Thị T là không có cơ sở giải quyết bởi vì: Thửa đất mà UBND
xã P quy hoạch giao bà T năm 2007 nguyên là đất ao hoang do UBND xã quản lý,
ông Z chỉ cải tạo một phần diện tích để trồng hoa màu và sau khi thu hồi ông Z đã
thoả thuận, UBND xã P đã đền bù cho gia đình ông 3.000.000đ. Gia đình ông
Nguyễn Văn Z không có hồ sơ giấy từ để chứng minh quyền sử dụng đất đối với
thửa đất đã nêu trên, đồng thời gia đình ông Z cũng không thực hiện nghĩa vụ với
Nhà nước đối với phần diện tích đất đang sử dụng trồng hoa màu.

13


- Việc ông Nguyễn Văn Z khiếu nại UBND xã P cắt vườn của gia đình ông để
làm đường liên thôn mà không được đền bù là không có cơ sở để giải quyết vì: Con
đường liên thôn được UBND xã P chủ trương xây dựng theo phương án “Nhà nước
và nhân dân cùng làm” đã được nhân dân trong thôn (Trong đó có gia đình ông Z)
bàn bạc thống nhất biểu quyết và cùng ký biên bản về việc thu hồi đất vườn để làm
đường liên thôn không đền bù về diện tích thu hồi không gắn với nhà ở hoặc công
trình xây dựng.
- Đề nghị UBND huyện Q và UBND xã P lập lại hồ sơ thủ tục giao đất và cấp

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ Nguyễn Văn D và bà Nguyễn Thị T
theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền đã được quy định trong Luật đất đai hiện
hành. UBND huyện Q chỉ đạo UBND xã P nghiêm túc kiểm điểm trách nhiệm và
có hình thức xử lý đối các cá nhân có liên quan đã có hành vi vi phạm trong việc
giao đất sai thẩm quyền cho hai hộ ông Nguyễn Văn D và bà Nguyễn Thị T đồng
thời rút kinh nghiệm trong việc quản lý đất đai trên địa bàn.
Phương án này có ưu và nhược điểm sau:
*Ưu điểm:
Nếu thực hiện phương án này là phương án tối ưu vừa giải quyết dứt điểm,
đúng pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh trước pháp luật vừa có tình, có lý đảm
bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của cá nhân công dân có liên quan
trong việc khiếu nại đền bù đất, đảm bảo tính toàn diện, kịp thời làm rõ trách nhiệm
các bên trong vụ việc, xây dựng lòng tin của người dân đối với chính quyền.
*Nhược điểm:
Thực hiện phương án này đòi hỏi chính quyền địa phương phải kết hợp nhuần
nhuyễn cả tính pháp lý và cả đạo lý; vừa mang tính mệnh lệnh đơn phương của nhà
nước, đồng thời cũng phải làm tốt công tác tư tưởng để cho các bên đương sự tự
nguyện chấp hành một cách nghiêm túc.

14


4.4. Lựa chọn phương án
Qua phân tích ba phương án, ta thấy phương án thứ ba là phương án có tính
khả thi nhất, có nhiều ưu điểm nhất, giải quyết tốt mục tiếu đã đặt ra, không những
sẽ kết hợp được hài hoà giữa pháp luật và đạo lý, mà còn phù hợp với thực tế cuộc
sống của nhân dân ở địa phương, giữ vững lòng tin của quần chúng nhân dân trong
việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
5. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã lựa chọn
Sau khi đã chọn được phương án giải quyết hợp lý, UBND tỉnh Y cần giao

cho Sở Tài nguyên và Môi trường chậm nhất là sau 06 ngày (kể từ khi chọn
phương án giải quyết) phải tham mưu trình UBND tỉnh ký quyết định thành lập
Đoàn thanh tra liên ngành để giải quyết dứt điểm vụ việc, không để tình trạng khiếu
kiện kéo dài làm mất lòng tin ở quần chúng nhân dân, đảm bảo giữ vững kỷ cường
phép nước. Chậm nhất là 30 ngày phải có báo cáo kết luận thanh tra giải quyết vụ
việc cho Chủ tịch UBND tỉnh.
Đoàn thanh tra Liên ngành nên bao gồm các thành phân như sau: (Thành lập
từ 5 đến 7 người).
Đại diện Lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường làm trưởng đoàn và các
thành viên gồm: 2-3 chuyên viên Sở Tài nguyên & Môi trường, 1-2 chuyên viên
Thanh tra Nhà nước tỉnh Y, đại diện Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Q.
Tổ chức họp đoàn ngay sau khi có quyết định thành lập để thống nhất nội
dung, chương trình làm việc, thời gian tiến hành và nhanh chóng về địa phương để
triển khai thực hiện.
Yêu cầu, ngay sau khi có quyết định đoàn kiểm tra, xác minh, giải quyết khiếu
nại của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; Đoàn kiểm tra, chính quyền địa phương,
và các cơ quan hữu quan phải khẩn trương tổ chức triển khai thực hiện đúng và kịp
thời các nội dung sau đây:

15


1. Công bố Quyết định thành lập Đoàn kiểm tra, xác minh, giải quyết khiếu
nại của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đến tận các cán bộ, nhân dân ở địa
phương và các cá nhân có liên quan.
2. Đoàn thanh tra tiến hành mời các thành phần liên quan để xác minh từng
nội dung sự việc cụ thể để hoàn tất các hồ sơ, biên bản làm việc và giải quyết cụ thể
cho các bên liên quan rõ hướng giải quyết của đoàn nhằm mục đích để cho các bên
nắm bắt quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc giải quyết vụ
việc trước khi đoàn công bố kết luận thanh tra giải quyết vụ việc.

3. Tổ chức họp công bố dự thảo kết luận thanh tra sau khi đã làm việc cụ thể
với các cá nhân liên quan và chính quyền địa phương để thống nhất trước khi ký
kết luận chính thức.
4. Đoàn thanh tra hoàn tất kết luận thanh tra ngay sau khi họp thống nhất dự
thảo để ký công bố chính thức.
5. Giao cho chính quyền và các Ban, Ngành đoàn thể ở địa phương giải thích
cho cán bộ và nhân dân địa phương thông hiểu các nội dung giải quyết của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền. Làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ và nhân dân, các
cá nhân có liên quan trong việc nghiêm chỉnh chấp hành quyết định giải quyết của
nhà nước theo đúng pháp luật.
6. Giao cho các cá nhân liên quan, chính quyền thị trấn B và huyện C hoàn tất
các thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cá nhân có liên quan
theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.

16


Phần thứ ba
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Từ vụ việc khiếu nại đền bù về đất đai của ông Nguyễn Văn Z và trên cơ sở
nghiên cứu lý luận cơ bản, phân tích thực tiễn tình hình và giải quyết khiếu nại, tố
cáo liên quan đến lĩnh vực đất đai trên địa bàn tỉnh. Để góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, đặc biệt là các khiếu nại, tố
cáo trong lĩnh vực đất đai, đảm bảo ổn định được tình hình trật tự xã hội, góp phần
thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, tôi xin đưa ra một số kiến
nghị như sau:
1. Quán triệt các nguyên tắc giải quyết khiếu nại đất đai
Khi giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai phải đảm bảo các
nguyên tắc sau:
- Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý; Nhà nước

chỉ giao quyền sử dụng cho công dân; Nhà nước có quyền thu hồi đất và người sử
dụng đất được đền bù theo quy định của pháp luật.
- Trong quá trình cách mạng theo tình hình cụ thể mà Đảng và Nhà nước có
các chủ trương, chính sách đất đai phù hợp.Vì vậy, giải quyết tranh chấp, khiếu nại,
tố cáo phải căn cứ vào thời điểm phát sinh của vụ việc và chính sách tương ứng của
thời kỳ đó.
- Giải quyết các khiếu nại, tranh chấp đất đai trên cơ sở tôn trọng quá trình sử
dụng ổn định của các chủ sử dụng đất, kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng và
lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, đồng thời phải tôn trọng quy hoạch sử
dụng đất của chính quyền địa phương.
- Khi giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai phát sinh những vấn đề
về kinh tế, lợi ích vật chất... cần phản đảm bảo lợi ích Nhà nước và quan tâm thích
đáng lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.

17


2. Hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại đất đai
Thực tế cho thấy, việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai hiệu quả nhất
là hoà giải, không chỉ chú trọng hoà giải khi phát sinh tranh chấp, mà khi giải quyết
khiếu nại tiếp tục hoà giải cũng đạt nhiều kết quả, và cả trong trường hợp Toà án
xét xử có nơi hoà giải thành cũng đạt tỷ lệ cao; hoà giải thành càng nhiều càng tốt
vì giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai ngoài việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, đảm bảo sự ổn định, còn phải tăng cường sự đoàn kết giữa Nhà
nước với dân, trong nội bộ nhân dân, giữ vững “tình làng nghĩa xóm”.
Khi phát sinh khiếu nại quyết định hành chính của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh,
cần có bước hoà giải tiếp theo, nhưng ở một trình độ tổ chức cao hơn. Hiện nay,
trước mắt có thể dựa vào tổ chức ở địa phương đang có chức năng, nhiệm vụ phù
hợp với việc hoà giải giữa người khiếu nại và người ban hành quyết định là Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện là cơ quan

quyền lực nhà nước ở địa phương, thực hiện chức năng giám sát việc giải quyết
tranh chấp, khiếu nại của Uỷ ban nhân dân, nếu Thường trực Hội đồng nhân dân
chủ trì, có sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể, ban ngành hữu quan thì
hiệu quả hoà giải sẽ được nâng cao.
Do đó, phải thể chế hoá đúng đường lối giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố
cáo có liên quan đến đất đai mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khoá IX
đã nêu: "Việc giải quyết tranh chấp, trước hết cần tiến hành hoà giải, nếu hoà giải
không thành thì đưa ra Toà án giải quyết. Nhà nước quy định thời hiệu và thời hạn
giải quyết các khiếu nại không để kéo dài, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương là cấp giải quyết cuối cùng các khiếu nại về đất đai trong phạm
vi thẩm quyền của các cấp ở địa phương; trường hợp các đương sự không nhất trí
với quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì đưa
ra Toà án giải quyết. Giải quyết tố cáo về đất đai thì theo pháp luật tố cáo". Cơ chế
trên đảm bảo được tính khách quan, người giải quyết độc lập với người ra quyết
định hành chính, tránh được tình trạng "vừa đá bóng vừa thổi còi", mở rộng tính
18


dân chủ trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trước pháp luật.
Người khiếu nại chịu trách nhiệm trước pháp luật khi thực hiện quyền khiếu nại;
đồng thời, buộc cơ quan hành chính và cá nhân có thẩm quyền phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về quyết định của chính mình, nâng cao chất lượng quyết
định hành chính được ban hành.
- Đổi mới cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính trong lĩnh vực đất đai là phù
hợp với xu hướng cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong tiến trình hội nhập
của nước ta hiện nay; góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại hành chính.
- Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đất đai đầy đủ, kịp thời và đồng
bộ; Rà soát những quy định chưa phù hợp hoặc những vấn đề mới phát sinh, để kịp
thời sửa đổi, bổ sung, tháo gỡ các vướng mắc, chú ý các quy định và ngôn ngữ của
luật, văn bản dưới luật phải được thể hiện hoặc giải thích đầy đủ, rõ ràng, minh

bạch, nhất là đối với các vấn đề có liên quan đến tranh chấp, khiếu nại; có tư vấn về
pháp luật nhằm tạo cơ hội để mọi người tiếp cận với pháp luật đất đai, đồng thuận
giữa người ra quyết định, người khiếu nại và người giải quyết khiếu nại.
- Cần có hướng dẫn cụ thể, chi tiết và thống nhất về áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, về đất đai nhằm hạn chế tới mức thấp nhất các
kẽ hở, mâu thuẫn, xung đột, thiếu đồng bộ trong hệ thống pháp luật hiện hành về
đất đai nói chung và pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại đất đai nói riêng.
- Kiện toàn hơn nữa bộ máy hành chính ở cấp huyện và cấp xã đảm bảo bộ
máy hành chính ở địa phương phải hiểu rõ pháp luật về đất đai của từng thời kỳ, áp
dụng đúng pháp luật hiện hành. Cơ quan hành chính cấp trên thực hiện tốt việc
kiểm tra, thanh tra về đất đai để xử lý triệt để những trường hợp gây tham nhũng,
lãng phí trong quản lý.
- Áp dụng nghiêm pháp luật về đất đai, đặc biệt là các quy định về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư nhằm ngăn chặn những phát sinh mới về tranh chấp, khiếu nại, tố
cáo về đất đai theo hướng giảm đầu vào và kiên quyết giải quyết hết các trường hợp
tồn đọng.
19


- Cần thiết phải thành lập hệ thống cơ quan tài phán hành chính về đất đai, cơ
quan tài phán ở Trung ương trực thuộc Chính phủ, bộ máy tổ chức theo ngành dọc,
lực lượng cán bộ có tài và có tâm. Cơ quan tài phán hành chính có trách nhiệm đưa
ra quyết định cuối cùng sau khi các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương đã ban
hành quyết định giải quyết lần đầu nhưng người có đơn không đồng ý với quyết
định đó.
3. Đối với đội ngũ cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại
- Đối với UBND cấp tỉnh:
+ Có biện pháp quy hoạch đào tạo cán bộ thanh tra đáp ứng yêu cầu đổi mới,
để tạo ra một đội ngũ cán bộ thanh tra có trình độ chuyên môn, đảm bảo năng lực
hoàn thành chức trích được giao.

+ Cần có chính sách tài chính phù hợp với hoạt động đặc thù của ngành thanh
tra để họ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
- Đối với UBND cấp huyện: Phải quan tâm hơn nữa đến tổ chức thanh tra về
nhiệm vụ, biên chế, kinh phí hoạt động, nhất là trong việc tuyển dụng cán bộ có
đầy đủ kiến thức, năng lực, phẩm chất để tạo nguồn kế cận cho cán bộ chủ chốt sau
này.
- Đối với UBND cấp xã: Cần bố trí cán bộ chuyên trách có phẩm chất, trình độ
và năng lực làm tham mưu cho lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền cấp xã trong công tác
tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân. Trường hợp cần thiết có thể
trưng dụng cán bộ hưu trí, có kiến thức pháp lý, có kinh nghiệm để làm việc này.
Khiếu nại là một kênh thông tin khách quan phản ánh việc thực thi quyền lực
của bộ máy nhà nước, phản ánh tình hình thực hiện công vụ của cán bộ, công chức;
đồng thời là cơ sở pháp lý cần thiết để công dân thực hiện tốt quyền làm chủ và
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà
nước đồng thời cũng qua đó phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Do đó, công tác giải quyết khiếu nại không những có vai trò quan trọng

20


trong quản lý nhà nước, mà còn thể hiện mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân.
Khiếu nại đất đai đang là một thách thức đối với các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Việc giải quyết dứt điểm, có hiệu quả vấn đề này có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc duy trì sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong cả nước và
ở từng địa phương.
Trong khuôn khổ tiểu luận này, thông qua việc phân tích, đánh giá thực trạng
pháp luật cũng như thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại đất đai, tác giả đề xuất
những kiến nghị, giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về giải quyết khiếu nại
đất đai; đóng góp một phần trong nỗ lực tìm kiếm, xác lập cơ chế thích hợp hướng

đến giải quyết dứt điểm, triệt để các khiếu nại đất đai.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật Đất đai năm 1993, 2003 và 2013.
2. Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998; sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005.
3. Luật Khiếu nại năm 2011.
4. Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều của Luật Khiếu nại.
5. Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ
quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính.
6. Trường Cán bộ thanh tra - Thanh tra Chính phủ, Tài liệu đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ thanh tra viên P1, P2, P3, NXB. Hồng Đức.
7. Báo cáo số 2102/BC-STNMT-TTr ngày 04/11/2014 về kết quả công tác
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp năm 2014 và phương hướng
nhiệm vụ năm 2015 của Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.

22



×