Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tiểu luận tình huống xử lý tình huống xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động vận chuyển hàng hóa nhập lậu và kinh doanh hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ, không có hóa đơn chứng từ đối với ông lê thành trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.19 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ LÊ HỒNG PHONG TP HÀ NỘI
LỚP BỒI DƯỠNG NGẠCH CHUYÊN VIÊN K4A-2015

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP
Tên đề tài: Xử lý tình huống xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động vận
chuyển hàng hóa nhập lậu và kinh doanh hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ,
không có hóa đơn chứng từ đối với ông Lê Thành Trung – Địa chỉ: xã Tân Lập,
huyện Đan Phượng, TP. Hà Nội.

Họ tên học viên: Phạm Mai Trang
Chức danh: Công chức
Đơn vị công tác: Đội Quản lý thị trường số 23 – Chi cục QLTT Hà Nội – Sở Công Thương

Năm 2015


Phần I. LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nước ta là một nước đang phát triển với rất nhiều tiềm năng và triển
vọng.Với một nền kinh tế năng động bao gồm nhiều thành phần, cơ hội phát
triển cao đã giúp nền kinh tế nước ta nhanh chóng đi lên. Bên cạnh đó việc
chúng ta trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO là động
lực, là đòn bẩy cho nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển hơn nữa. Chính
xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế mà nhiều vấn đề xã hội mới phát sinh và
ngày càng đa dạng, phức tạp. Một trong những vấn đề đó chính là việc kinh
doanh hàng hóa nhập lậu, hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ, không có hóa
đơn chứng từ đang diễn ra ngày càng có chiều hướng gia tăng trong những năm
gần đây, về hình thức thì ngày càng tinh vi hơn, bọn buôn lậu đã lợi dụng những
kẽ hở của pháp luật và những chính sách của nhà nước để thu lợi bất chính.
Hàng năm nhà nước đã phải chịu thất thu hàng tỷ đồng vì vấn đề này. Tuy nhiên
người chịu thiệt vẫn là người dân. Hàng lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng


đang tràn lan khắp nơi trên thì trường và cuối cùng hậu quả thì người dân tự
gánh chịu do mua nhầm hàng kém chất lượng với giá cao. Tuy vấn đề này đã
được nhà nước ta chú ý và quan tâm nhưng chưa đủ sức làm giảm cũng như hạn
chế được tình trạng buôn lậu xảy ra trên thực tế. Vì vậy mà các Bộ, ngành có
liên quan nên rà soát lại những văn bản luật có liên quan đến việc kinh doanh
hàng hóa nhập lậu, hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ, không có hóa đơn
chứng từ để tìm ra điểm hạn chế và ban hành những văn bản điều chỉnh kịp thời
những vấn đề mới phát sinh hiện nay. Phải có sự chung tay của cả cộng đồng
chống buôn lậu thì mới có thế mới đạt được hiệu quả cao.
Từ sự nhận thức trên, với một ít kinh nghiệm thực tiễn làm công tác quản
lý thị trường trên địa bàn huyện Đan Phượng và những kiến thức đã tiếp thu
được trong quá trình học tập, nghiên cứu ở lớp bồi dưỡng ngạch chuyên viên tại
Trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong – TP. Hà Nội, tôi lựa chọn đề tài: “Xử lý
tình huống xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động vận chuyển hàng hóa
1


nhập lậu và kinh doanh hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ, không có hóa
đơn chứng từ đối với ông Lê Thành Trung – Địa chỉ: xã Tân Lập, huyện Đan
Phượng, TP. Hà Nội” với mong muốn góp phần nghiên cứu, vận dụng để xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật về việc kinh doanh hàng hóa nhập lậu, hàng hóa
không rõ nguồn gốc xuất xứ trên địa bàn có hiệu quả, kịp thời, phù hợp với các
quy định của pháp luật hiện hành.
2. Mục tiêu chọn đề tài
Như phần trên đã nói, tình hình vận chuyển, kinh doanh hàng hóa nhập
lậu, hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của
các doanh nghiệp chân chính muốn phát triển bằng con đường lành mạnh, làm
giảm uy tín của hàng hóa chính hiệu dẫn đến làm giảm sức tiêu thụ hàng hóa đó
trên thị trường. Đồng thời hàng lậu cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến quyền
lợi của người tiêu dùng do phải trả nhiều tiền để mua phải sản phẩm với chức

năng sử dụng kém, thậm chí không có giá trị sử dụng. Do vậy việc phát hiện, xử
lý các hành vi vi phạm về kinh doanh hàng hóa nhập lậu là nhiệm vụ hàng đầu
của lực lượng quản lý thị trường, giúp ổn định thị trường, bảo vệ quyền lợi của
các tổ chức, cá nhân và người tiêu dùng. Việc lựa chọn đề tài tiểu luận này sẽ
giúp tôi hiểu hơn về các quy phạm pháp luật có liên quan và thực tế xử phạt vi
phạm hành chính thuộc thẩm quyền của quản lý thị trường đối với hành vi vận
chuyển, kinh doanh hàng hóa nhập lậu, hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ.
Đây là một vấn đề mang tính thực tiễn, với phạm vi rộng, do thời gian có
hạn và bản thân là một công chức mới nên vẫn còn nhiều điều cần phải học hỏi,
bài viết sẽ còn nhiều thiếu sót cần bổ sung, tôi mạnh dạn dẫn ra đây để mong
được trao đổi cùng các bạn đồng học và mong được sự góp ý, chỉnh lý của thầy
cô giáo để đề tài hoàn thiện hơn, giúp bản thân có thêm kiến thức, kinh nghiệm
trong hoạt động thực tiễn và trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin: lý thuyết (các văn bản quy phạm pháp
luật) và thực tế (các hồ sơ vụ việc có liên quan đến vấn đề nghiên cứu).
2


Phương pháp phân tích.
Phương pháp so sánh, đối chiếu.
Phương pháp tổng hợp, liên kết vấn đề.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận chỉ tập trung vào việc xử lý tình huống
đặt ra là xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vận chuyển hàng hoá nhập lậu
và kinh doanh hàng hoá không rõ nguồn gốc xuất xứ, không hoá đơn chứng từ
của ông Lê Thành Trung, địa chỉ: xã Tân Lập, huyện Đan Phượng, TP. Hà Nội.
Thẩm quyền xử lý vụ việc thuộc Đội quản lý thị trường số 23 – Chi cục
Quản lý thị trường Hà Nội.
5. Bố cục của tiểu luận

Bố cục tiểu luận gồm 3 phần:
Phần I. Lời nói đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục tiêu chọn đề tài
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Bố cục
Phần II. Nội dung tiểu luận
1. Mô tả tình huống
2. Xác định mục tiêu xử lý tình huống
3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả
4. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình huống
5. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã lựa chọn
Phần III. Kết luận và kiến nghị
3


Phần II. NỘI DUNG
1. Mô tả tình huống
Ngày 24/7/2015, theo trinh sát của Trung úy Nguyễn Văn Sơn – Đội 2,
phòng 4, C49 - Cục Cảnh sát môi trường báo rằng xe ô tô mang biển kiểm soát
30B-00396 do lái xe Lê Thành Trung, địa chỉ: xã Tân Lập, huyện Đan Phượng,
TP. Hà Nội điều khiển đang vận chuyển hàng hoá là thuỷ sản, động vật không rõ
nguồn gốc, không có hoá đơn chứng từ, chưa qua kiểm dịch từ Móng Cái,
Quảng Ninh về huyện Đan Phượng, TP. Hà Nội để tiêu thụ có dấu hiệu vi phạm
pháp luật về vận chuyển, kinh doanh hàng hoá nhập lậu. Khi xe ô tô trên về tới
địa bàn huyện Đan Phượng, các đồng chí thuộc Đội 2, phòng 4, C49 - Cục Cảnh
sát môi trường và Đội quản lý thị trường số 23 đã phối hợp và ra Quyết định
khám phương tiện vận tải, đồ vật theo thủ tục hành chính số 0021784/QĐKPTĐV ngày 24/7/2015 của Đội quản lý thị trường số 23.
Qua kiểm tra khám xét và đối chiếu toàn bộ hàng hoá trên thùng, sàn xe

và giấy tờ do ông Lê Thành Trung xuất trình, Tổ kiểm tra phát hiện trên xe có
vận chuyển 10 máy mặt nạ làm đẹp, 05 máy massage toàn thân là hàng hoá có
nhãn bằng tiếng nước ngoài không có hoá đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc
xuất xứ; và 100 kg cá chình, 250kg cá quả, 550kg ếch, 220 kg mực tươi đông
lạnh là hàng hoá không rõ nguồn gốc xuất xứ, không có hoá đơn chứng từ. Ngay
sau khi thống kê chi tiết số lượng hàng hoá vi phạm như trên, Đội Quản lý thị
trường số 23 đã phối hợp cùng phòng Tài chính - Kế hoạch của huyện Đan
Phượng để xác định giá thị trường của số hàng hoá trên nhằm xác định khung
hình phạt đối với việc vận chuyển, kinh doanh hàng hoá nhập lậu, hàng không rõ
nguồn gốc xuất xứ đối với ông Lê Thành Trung. Theo Biên bản xác định giá thị
trường tại ngày 24/7/2015 thì tổng giá trị của 10 máy mặt nạ làm đẹp, 05 máy
massage toàn thân là 19.150.000 đồng (Mười chín triệu một trăm năm mươi
nghìn đồng) và tổng giá trị của 100 kg cá chình, 250kg cá quả, 550kg ếch, 220
kg mực tươi đông lạnh là 38.820.000 đồng (Ba mươi tám triệu tám trăm hai
mươi nghìn đồng).
4


Qua xem xét hồ sơ vụ việc, đồng thời lấy ý kiến thống nhất của các
Ngành, Đội quản lý thị trường số 23 ra quyết định xử lý vi phạm hành chính đối
với ông Lê Thành Trung, địa chỉ: xã Tân Hội, huyện Đan Phượng, TP. Hà Nội,
là lái xe - chủ hàng của số hàng hoá vi phạm trên về các hành vi như sau:
- Vận chuyển hàng hoá nhập lậu có nhãn bằng tiếng nước ngoài không có
hoá đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ vi phạm Điểm đ, Khoản 1 và
Điểm a, Khoản 4, Điều 17 Nghị định 185/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất,
buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Kinh doanh hàng hoá không rõ nguồn gốc xuất xứ, không có hoá đơn
chứng từ vi phạm Khoản 8 và Điểm a, Khoản 13, Điều 21 Nghị định 185/NĐCP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền

lợi người tiêu dùng.
2. Xác định mục tiêu xử lý tình huống
Việc xử lý tình huống trên yêu cầu Đội quản lý thị trường số 23 phải giải
quyết 2 vấn đề là: số tiền xử phạt hành chính là bao nhiêu và xử lý số hàng lậu
không có hoá đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ đang tạm giữ như
thế nào để phù hợp với quy định của pháp luật và đảm bảo việc thu xử phạt được
thuận lợi, tránh gây mất thời gian, cũng như khó khăn cho cả Đội và cá nhân bị
kiểm tra trong quá trình thi hành quyết định xử phạt. Vì vậy cần đưa ra một
phương án xử lý tình huống tối ưu nhất, hiệu quả nhất nhằm nâng cao sự hiểu
biết của người dân về việc tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh các quy định
của pháp luật; đồng thời ngăn chặn hành vi vận chuyển, kinh doanh hàng nhập
lậu, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ.
Việc xử lý tình huống cũng nhằm mục tiêu tăng cường pháp chế Xã hội
chủ nghĩa (XHCN). Pháp chế XHCN là chế độ của đời sống chính trị - xã hội
trong đó nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; các cơ quan nhà nước, đơn vị
lực lượng vũ trang nhân dân, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các
5


tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế và công dân
đều phải tôn trọng và thực hiện hiến pháp, pháp luật một cách nghiêm minh, triệt
để và chính xác. Mọi vi phạm pháp luật đều bị xử lý theo pháp luật. Pháp luật
chỉ có thể phát huy hiệu lực của mình, điều chỉnh một cách có hiệu lực các quan
hệ xã hội khi dựa trên cơ sở vững chắc của nền pháp chế. Tăng cường pháp chế
XHCN ở nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay là một trong những quan
điểm cơ bản có tính nguyên tắc chỉ đạo thủ tục cải cách bộ máy nhà nước, xây
dựng và hoàn thiện nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam nhằm bảo đảm thắng
lợi quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Để tăng cường pháp chế, nâng cao
hiệu lực quản lý nhà nước, không chỉ xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật, mà quan trọng hơn là tổ chức thực hiện pháp luật, bảo đảm cho pháp luật

được chấp hành thường xuyên và nghiêm chỉnh, đấu tranh kiên quyết với những
hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. Pháp chế XHCN được xây dựng, củng
cố và tăng cường sẽ là cơ sở của trật tự của pháp luật.
3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả
Một số nguyên nhân dẫn đến xảy ra vụ việc như sau:
Thứ nhất, do sự thiếu sót trong tổ chức và hoạt động quản lý Nhà nước ở
các cấp. Chính sự phối hợp kém chặt chẽ và hiệu quả trong công tác chống buôn
lậu của các lực lượng có liên quan dẫn đến việc khó điều tra nắm bắt tình hình
một cách chắc chắn để có biện pháp đánh trúng những tụ điểm buôn lậu.
Thứ hai, do sự bất cập trong hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến
buôn lậu. Hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công tác chống
buôn lậu vẫn còn chồng chéo, nhiều văn bản “trói buộc nhau” dẫn đến ngay cả
lực lượng chống buôn lậu còn chưa “thông” hết thì làm sao vận dụng để “trị”
gian thương. Đối với việc xử phạt hành chính, pháp lệnh và nghị định chỉ dừng
lại ở việc xác định các nhóm hành vi nên rất khó khi áp dụng hoặc tạo sơ hở,
tiêu cực trong vận dụng để thực hiện. Các khung xử phạt quá rộng, khó định
lượng, nhiều quy định về mức xử phạt không tương xứng với tính chất hành vi
vi phạm.
6


Thứ ba, do sự thiếu trách nhiệm, sa sút về phẩm chất đạo đức của một bộ
phận cán bộ, công chức liên quan đến vụ việc. Nhiều trường hợp vì lợi nhuận
cục bộ, mà một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức đã làm ngơ, thậm chí còn
tiếp tay cho buôn lậu. Các lực lượng làm nhiệm vụ chống buôn lậu còn yếu kém,
thiếu phương tiện, hoạt động tản mạn, chưa có sự phối hợp với nhau.
Thứ tư, sự kém hiểu biết pháp luật của một bộ phận người dân. Hiện nay,
để phân biệt các sản phẩm là hàng lậu, hàng giả với hàng thật thì chỉ có ngành
chức năng mới có thể làm được, còn đa phần người dân chỉ mua hàng theo cảm
tính nên nhiều khi đã sử dụng hàng lậu, hàng giả mà không biết. Và cách lựa

chọn tốt nhất của một bộ phận người tiêu dùng là tìm đến các cửa hàng lớn, đã
có thương hiệu. Một trong những nguyên nhân chủ yếu để các loại hàng giả,
hàng lậu, hàng kém chất lượng có đất sống là do người tiêu dùng ham mua các
mặt hàng giá rẻ. Người buôn bán thì chỉ quan tâm đến lợi nhuận và không hề
chú ý đến uy tín kinh doanh hay chất lượng sản phẩm.
Thứ năm, chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm trong việc kinh doanh
hàng hóa nhập lậu còn nhẹ, cụ thế số tiền phạt vi phạm hành chính được quy
định tại Khoản 1, Điều 17 Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của
Chính phủ tối đa là 50.000.000 đồng trong trường hợp hàng hóa nhập lậu tương
đương với hàng thật có giá trị từ 100.000.000 đồng trở lên mà không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự. Thêm vào đó là việc bắt và xử lý hàng hóa nhập lậu rất khó
khăn do các đối tượng luôn cố tìm mọi cách để che dấu các cơ quan chức năng,
sẵn sàng tẩu tán hàng hóa khi bị phát hiện.
Hậu quả:
Thứ nhất, buôn lậu được coi là một trong những nguyên nhân chính gây
hại nghiêm trọng đến nền kinh tế của một quốc gia.
Buôn lậu làm suy yếu các ngành công nghiệp, nền sản xuất địa phương,
không khuyến khích hàng hóa nhập khẩu hợp pháp và giảm nguồn thu ngân sách
nhà nước. Tuy nhiên, một thực tế đang xảy ra ở phần lớn các nước đang phát
triển là tồn tại một nền kinh tế ngầm song hành với các hoạt động kinh tế chính
7


thức. Và thực sự điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến sự quản lý vĩ mô của Nhà
nước, gây cản trở và làm lệch hướng đối với chiến lược phát triển các ngành sản
xuất trong nước.
Thông thường những hàng hóa nhập lậu, trốn thuế thường là những hàng
hóa có lợi thế cạnh tranh, đặc biệt là lợi thế về giá thấp hơn đối với hàng hóa sản
xuất trong nước hoặc hàng nhập khẩu chính ngạch. Khi xuất hiện những hàng
hóa nhập lậu với một lượng đủ lớn tại một thị trường, sự bình ổn giá cả của thị

trường sẽ bị phá vỡ. Nguyên nhân tình trạng này là do dung lượng thị trường của
Việt Nam ngày càng phát triển, tốc độ phát triển ngày càng cao, độ mở của nền
kinh tế lớn nên giao thương hàng hóa ngày càng tăng, đi liền với đó là xuất hiện
nhiều tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân làm ăn không đúng đắn, lợi dụng sự sơ hở
của pháp luật và các cơ quan quản lý nhà nước đưa hàng hóa nhập lậu vào tiêu
thụ tại thị trường nội địa.
Đó là xét về việc nhập lậu các mặt hàng có chất lượng, có năng lực cạnh
tranh hơn hàng sản xuất trong nước.Còn với việc nhập lậu những mặt hàng chất
lượng kém thì nó sẽ tác động khôn lường đến nền sản xuất trong nước. Khi
những mặt hàng kém chất lượng bị nhập lậu, thị trường Việt Nam trở thành một
thị trường tiêu thụ hàng hóa đặc biệt là những hàng hóa dư thừa, ế ẩm của nước
ngoài.Không chỉ có thế, khi số lượng hàng hóa bị trà trộn, thì chất lượng hàng
hóa bị đánh đồng. Đó sẽ là một khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp trong
nước, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho những kẻ
buôn lậu, làm ảnh hưởng tới các doanh nghiệp làm ăn chân chính.
Thứ hai, việc vận chuyển, kinh doanh hàng lậu gây ảnh hưởng không tốt
tới an ninh – chính trị.
Vì mục đích lợi nhuận, đối tượng tham gia buôn lậu không từ bất cứ một
mặt hàngnào kể cả những mặt hàng mà nhà nước cấm kinh doanh, buôn bán
như: ma túy, vũ khí, đạn dược, vậtl iệu nổ, quân trang quân dụng,…
Buôn lậu ảnh hưởng đối với nền kinh tế, tất yếu sẽ làm cho an ninh chính trị của
đất nước càng khó khăn hơn. Hàng hóa nhập lậu làm cho thị trường hỗn loạn,
8


Nhà nước không kiểm soát được tình hình hoạt động xuất nhập khẩu và các
chính sách đầu tư đối với nước ngoài; ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách, làm
giảm các khoản chi cho các quỹ phúc lợi xã hội, làm cho tệ nạn xã hội phát
triển. Những khoản thu nhập có từ buôn lậu làm cho một bộ phận làm ăn bất
chính giàu lên, sống sa đọa, coi thường kỷ cương phép nước, làm cho Nhà nước

không điều hành được công việc của mình tất yếu Nhà nước sẽ suy yếu, ảnh
hưởng đến chủ quyền và an ninh quốc gia. Ngày nay với xu thế toàn cầu hóa,
kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ; việc không thắng nổi về mặt quân sự thì
việc dùng kinh tế để xâm lược đang được các thế lực thù địch sử dụng một cách
triệt để, vừa tinh vi, vừa thủ đoạn. Với ưu thế về kinh tế, khoa học kỹ thuật, một
số thế lực thù địch đang lợi dụng chính sách hội nhập để thực hiện "diễn biến
hòa bình", "chiến tranh biên giới mềm", chính sách dùng hàng hóa, viện trợ giúp
đỡ có điều kiện tạo thói quen lệ thuộc kinh tế, dẫn đến lệ thuộc về chính trị.
Thứ ba, việc buôn lậu còn gây ảnh hưởng xấu về mặt xã hội.
Lợi nhuận của buôn lậu làm gia tăng chênh lệch giàu và nghèo, làm cho
một số nhà sản xuất đi lạc hướng, số người không có việc làm ngày một tăng.
Buôn lậu lôi kéo một lực lượng lớn lao động tham gia, bỏ sản xuất, trẻ em đến
tuổi đến trường phải bỏ học, người dân bỏ sản xuất đi làm thuê, trật tự an toàn
xã hội biến động. Buôn lậu là một trong những nguyên nhân làm suy thoái đạo
đức xã hội, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục. Vì hám lợi họ phản lại giá
trị đạo đức truyền thống để chạy theo đồng tiền, và chính đồng tiền có được từ
buôn lậu một cách dễ dàng dễ đưa họ tới những tệ nạn như cờ bạc, ma túy, mại
dâm. Có thể nói, buôn lậu đã xâm hại nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, nền
kinh tế quốc dân, phá vỡ kỷ cương xã hội, gây cản trở đến việc hoạch định và tổ
chức thực hiện chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của Đảng và Nhà
nước. Tâm lý làm giàu bất chính đã lũng đoạn, chi phối, thúc đẩy người dânchạy
theo đồng tiền, bất chấp mọi kỷ cương, phép nước và các chuẩn mực đạo đức.
Nguy hại hơn buôn lậu còn là "người bạn đồng hành" với tham nhũng, làm suy
thoái đạo đức, nhân cách của hàng ngàn cán bộ, đảng viên có chức, có quyền
trong tổ chức Đảng và bộ máy nhà nước và ở các cấp.
9


Thứ tư, kinh doanh hàng hóa nhập lậu gây mất uy tín của cơ quan nhà
nước, của cán bộ công chức và giảm sút lòng tin của nhân dân gây bất bình

trong xã hội, trong nhân dân.
Việc kinh doanh hàng lậu gây ra sự hoang mang, nghi ngờ của người dân
đối với các cơ quan chức năng của địa phương trong việc kiểm tra, kiểm soát
các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn, nhiều người dân cho rằng có sự
bao che, tiếp tay của các cơ quan chức năng đối với hoạt động này gây ảnh
hưởng tới uy tín của các cơ quan quản lý nhà nước trong dân.
4. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tối ưu
Qua phân tích tình huống có thể đưa ra các phương án xử lý như sau:
Phương án 1:
Ông Lê Thành Trung tự nguyện khai báo, tích cực hợp tác với Đội quản
lý thị trường số 23 trong việc xử lý vụ việc trên, Đội trưởng Đội quản lý thị
trường số 23 sẽ đưa ra quyết định như sau:
* Đối với hành vi vận chuyển hàng hoá nhập lậu có nhãn bằng tiếng nước
ngoài không có hoá đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ.
- Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) đối
với hành vi vận chuyển hàng hoá nhập lậu có nhãn bằng tiếng nước ngoài không
có hoá đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ, áp dụng Điểm đ, Khoản 1,
Điều 17 Nghị định 185/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng
giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Tịch thu tang vật là số hàng hoá
vi phạm gồm: 10 máy mặt nạ làm đẹp, 05 máy massage toàn thân bán đấu giá để
xung công quỹ, áp dụng Điểm a, Khoản 4, Điều 17 Nghị định 185/NĐ-CP ngày
15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
10


* Đối với hành vi kinh doanh hàng hoá không rõ nguồn gốc xuất xứ,

không có hoá đơn chứng từ.
- Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền 14.000.000 đồng (Mười bốn triệu
đồng) đối với hành vi kinh doanh hàng hoá không rõ nguồn gốc xuất xứ, không
có hoá đơn chứng từ áp dụng Khoản 8 và Điểm a, Khoản 13, Điều 21 Nghị định
185/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc tiêu huỷ số hàng hoá vi
phạm gồm: 100 kg cá chình, 250kg cá quả, 550kg ếch, 220kg mực tươi đông
lạnh áp dụng Điểm a, Khoản 15, Điều 21 Nghị định 185/NĐ-CP ngày
15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
Mặt tích cực của phương án là số tiền phạt ở mức thấp nhất trong khung
xử phạt nên đối tượng bị kiểm tra thường dễ chấp hành quyết định xử phạt.
Hàng hóa tịch thu gồm: 10 máy mặt nạ làm đẹp, 05 máy massage toàn thân sẽ
được bán đấu giá một cách công khai để xung công quỹ; Số hàng hóa là thực
phẩm tạm giữ gồm: 100 kg cá chình, 250 kg cá quả, 550 kg ếch, 220 kg mực
tươi đông lạnh sẽ được Đội quản lý thị trường số 23 buộc cá nhân vi phạm tự
tiến hành tiêu hủy theo quy định, Đội chỉ đứng ra giám sát quá trình tiêu hủy mà
không phải lập hồ sơ tiêu hủy hàng hóa.
Mặt hạn chế của phương án là hàng hóa vi phạm dễ bị doanh nghiệp tẩu
tán, hoặc gian dối trong quá trình tiến hành tiêu hủy.
Phương án 2:
Ông Lê Thành Trung chỉ cung cấp thông tin về số lượng hàng hóa vi
phạm với Đội quản lý thị trường số 23 trong việc xử lý vụ việc trên, không có
thái độ tích cực trong việc khai báo, Đội trưởng Đội quản lý thị trường số 23 sẽ
đưa ra quyết định như sau:
11



* Đối với hành vi vận chuyển hàng hoá nhập lậu có nhãn bằng tiếng nước
ngoài không có hoá đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ.
- Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) đối
với hành vi vận chuyển hàng hoá nhập lậu có nhãn bằng tiếng nước ngoài không
có hoá đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ, áp dụng Điểm đ, Khoản 1,
Điều 17 Nghị định 185/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng
giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Tịch thu tang vật là số hàng hoá
vi phạm gồm: 10 máy mặt nạ làm đẹp, 05 máy massage toàn thân bán đấu giá để
xung công quỹ áp dụng Điểm a, Khoản 4, Điều 17 Nghị định 185/NĐ-CP ngày
15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
* Đối với hành vi kinh doanh hàng hoá không rõ nguồn gốc xuất xứ,
không có hoá đơn chứng từ.
- Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền 17.000.000 đồng (Mười bảy triệu
đồng) đối với hành vi kinh doanh hàng hoá không rõ nguồn gốc xuất xứ, không
có hoá đơn chứng từ áp dụng Khoản 8 và Điểm a, Khoản 13, Điều 21 Nghị định
185/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Tịch thu toàn bộ số hàng hoá vi
phạm gồm: 100 kg cá chình, 250 kg cá quả, 550 kg ếch, 220 kg mực tươi đông
lạnh áp dụng Điểm a, Khoản 15, Điều 21 Nghị định 185/NĐ-CP ngày
15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng để thuê Công ty chuyên xử lý rác thải tiêu hủy.


12


Mặt tích cực của phương án là đảm bảo số lượng hàng hóa bị tịch thu tiêu
hủy đúng số lượng, chủng loại đã tạm giữ, tránh bị tẩu tán, gian lận.
Mặt hạn chế của phương án là số tiền phạt ở mức trung bình trong khung
xử phạt, tương đối cao đối với cá nhân. Đội quản lý thị trường phải lập hồ sơ
tiêu hủy hàng hóa tịch thu theo quy định, do đó rất mất thời gian.
Phương án 3:
Ông Lê Thành Trung không hợp tác với Đội quản lý thị trường số 23
trong việc xử lý vụ việc trên, có hành vi chống đối, trốn tránh trách nhiệm, Đội
trưởng Đội quản lý thị trường số 23 sẽ đưa ra quyết định như sau:
* Đối với hành vi vận chuyển hàng hoá nhập lậu có nhãn bằng tiếng nước
ngoài không có hoá đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ.
- Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) đối
với hành vi vận chuyển hàng hoá nhập lậu có nhãn bằng tiếng nước ngoài không
có hoá đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ, áp dụng Điểm đ, Khoản 1,
Điều 17 Nghị định 185/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng
giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Tịch thu tang vật là số hàng hoá
vi phạm gồm: 10 máy mặt nạ làm đẹp, 05 máy massage toàn thân bán đấu giá để
xung công quỹ áp dụng Điểm a, Khoản 4, Điều 17 Nghị định 185/NĐ-CP ngày
15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
* Đối với hành vi kinh doanh hàng hoá không rõ nguồn gốc xuất xứ,
không có hoá đơn chứng từ.
- Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu
đồng) đối với hành vi kinh doanh hàng hoá không rõ nguồn gốc xuất xứ, không

có hoá đơn chứng từ áp dụng khoản 8 và Điểm a, Khoản 13, Điều 21 Nghị định
13


185/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Tịch thu toàn bộ số hàng hoá vi
phạm gồm: 100 kg cá chình, 250 kg cá quả, 550 kg ếch, 220 kg mực tươi đông
lạnh áp dụng Điểm a, Khoản 15, Điều 21 Nghị định 185/NĐ-CP ngày
15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng để thuê Công ty chuyên xử lý rác thải tiêu hủy.
Mặt tích cực của phương án này là có tính răn đe cao đối với đối tượng bị
kiểm tra.
Mặt hạn chế của phương án là số tiền phạt ở mức cao nhất của khung hình
phạt có thể dẫn đến việc đối tượng có hành vi chống đối, chốn tránh trách
nhiệm.
Qua 3 phương án xử lý tình huống trên theo tôi phương án 1 là hợp lý và
tối ưu nhất, giải quyết hợp tình hợp lý, đảm bảo trách nhiệm và nghĩa vụ của các
bên. Vì vậy tôi chọn phương án số 1 để giải quyết tình huống trên.

14


5. Kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã lựa chọn
Nội dung công việc

TT


Xác định giá trị tang vật vi phạm
1

hành chính để làm căn cứ xác định
khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt.

Chủ thể thực

Thời gian

hiện

thực hiện

Kiểm soát viên
thị trường

24/7/2015

Lập hồ sơ vụ việc bao gồm:
- Quyết định khám phương tiện vận
tải, đồ vật theo thủ tục hành chính
2

- Biên bản vi phạm hành chính

Kiểm soát viên
thị trường

24/7/2015


- Biên bản tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính
- Biên bản vi phạm hành chính
3

Ra quyết định xử phạt vi phạm hành

Đội trưởng Đội

chính

QLTT số 23

15

25/7/2015

Điều kiện cần thiết để thực hiện

Phối hợp cùng phòng Tài Chính - Kế hoạch
của huyện Đan Phượng


Nội dung công việc

TT

4


4.1

Chủ thể thực

Thời gian

hiện

thực hiện

Chấp hành quyết định xử phạt vi

Ông Lê Thành

phạm hành chính

Trung

Thu tiền phạt vi phạm hành chính

Ông Lê Thành

17.000.000
đồng nộp ngân sách nhà
4

Trung

Điều kiện cần thiết để thực hiện


27/7/2015
27/7/2015 Đồng chí Tổ trưởng tổ kiểm tra - Phó đội
trưởng Nguyễn Cao Hiến có trách nhiệm

nước

đôn đốc và theo dõi việc nộp phạt của
đương sự.

Buộc tiêu hủy đối với 100 kg cá

Ông Lê Thành

chình, 250 kg cá quả, 550 kg ếch,

Trung

27/7/2015 Đội QLTT số 23 thành lập Hội đồng giám
sát tiêu hủy để giám sát quá trình tiêu hủy

4

220 kg mực tươi đông lạnh

hàng hóa trên.

4.2

Kinh phí tiêu hủy với cơ sở đủ điều kiện tiêu
hủy do ông Lê Thành Trung trả.


4.3

Tịch thu số hàng hoá gồm10 máy

Kiểm soát viên

mặt
4 nạ làm đẹp, 05 máy massage

thị trường

24/7/2015 Đội QLTT số 23 sẽ chuyển giao số hàng hoá
này cho Chi cục QLTT Hà Nội, sau đó thuê

toàn than bán đấu giá để xung công

Công ty có chức năng bán đấu giá để xung

quỹ

công quỹ

16


Phần III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Đối với chúng ta trong điều kiện hiện nay đang tập trung thực hiện thắng
lợi công cuộc đổi mới đất nước, từng bước đưa đất nước vào thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thì công cuộc đấu tranh chống buôn lậu càng quan

trọng và có ý nghĩa thiết thực.
Trong những năm vừa qua, công tác chống buôn lậu của nước ta đã đạt
được những thành quả nhất định, đã kiểm tra, phát hiện và xử lý nhiều vụ vi
phạm về vận chuyển, buôn bán hàng lậu góp phần tăng thu cho ngân sách nhà
nước. Tuy nhiên trên thực tế hoạt động buôn lậu vẫn chưa giảm và hành vi, thủ
đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Để lý giải cho vấn đề này có rất nhiều
nguyên nhân song nguyên nhân chủ yếu là do luật pháp của chúng ta chưa
nghiêm, còn thiếu, chưa đồng bộ. Ngoài ra còn rất nhiều nguyên nhân khác như:
công tác giáo dục, tuyên truyền về chống buôn lậu vẫn chưa được coi trọng nên
trình độ nhận thức của các tầng lớp nhân dân về tác hại của việc buôn lậu vẫn
chưa đầy đủ; trang thiết bị phục vụ cho công tác đấu tranh, phòng chống buôn
lậu còn thiếu thốn, thô sơ; … Để công tác đấu tranh chống buôn lậu có hiệu quả
không những cần có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước mà cần có sự phối hợp
của các ngành, các cấp và của toàn xã hội. Qua việc nghiên cứu về công tác
chống buôn lậu tôi nhận thấy việc đấu tranh chống buôn lậu có hiệu quả sẽ góp
phần tích cực vào việc ổn định và phát triển kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho
sản xuất trong nước, … ngoài ra còn góp phần chống trốn thuế đảm bảo nguồn
thu cho Ngân sách nhà nước.
Vụ việc trên đã được giải quyết một cách thỏa đáng, đảm bảo lợi ích của
người dân, người tiêu dùng. Nâng cao lòng tin của người dân đối với các cơ
quan chức năng của nhà nước ở địa phương, quy trách nhiệm của đối tượng vi
phạm đối với xã hội, cộng đồng, có tính răn đe đối với các đối tượng có ý định
manh nha trong việc kinh doanh hàng hóa nhập lậu trên địa bàn.

17


Qua vụ việc trên tôi cũng mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị như sau:
Đối với các ngành, các cấp
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao giác ngộ của cán bộ và người

dân về công tác chống buôn lậu. Nhà nước cần phải tuyên truyền, giáo dục cho
nhân dân thấy được tác hại to lớn của việc buôn lậu đối với kinh tế - xã hội.
Tuyên truyền, giáo dục thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo
chí, phát thanh, truyền hình. Đây là một biện pháp góp phần mang lại hiệu quả
trong công tác chống buôn lậu. Nâng cao giác ngộ và đấu tranh chống lại buôn
lậu cho cán bộ và người dân là việc làm cần thiết và cấp bách vì nó có vai trò
trực tiếp trong việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong quản lý nhà nước về
hoạt động chống buôn lậu. Để trang bị tri thức pháp luật nâng cao giác ngộ cho
cán bộ và nhân dân cần sử dụng tổng hợp nhiều hình thức và phương pháp khác
nhau nhằm lôi cuốn nhân dân tham gia tích cực vào xây dựng, bảo vệ và áp
dụng luật pháp. Thông qua việc tham gia tích cực, trực tiếp của cán bộ và nhân
dân như thảo luận, góp ý của quần chúng nhân dân sẽ giúp nâng cao tính tích
cực trong công việc Nhà nước mà cụ thể ở đây là việc đấu tranh chống buôn lậu.
Đối với các cơ quan Nhà nước, nâng cao giác ngộ pháp luật cho cán bộ là
một nhu cầu cấp bách vì trong giải quyết các vụ việc cụ thể thì phần lớn phụ
thuộc vào nhận thức chủ quan của người được giao quyền thay mặt cơ quan
quản lý giải quyết. Hơn nữa phải giác ngộ lòng tin pháp luật cho cán bộ trong
quá trình áp dụng pháp luật, đó là tính công bằng, trách nhiệm, tính pháp chế,
không khoan nhượng với những vi phạm pháp luật và tội phạm, hình thành thói
quen xử sự tích cực theo các quy định của pháp luật, không bị ngoại cảnh chi
phối. Ngoài ra giáo dục cho cán bộ của cơ quan quản lý tìm ra nguyên nhân và
điều kiện dẫn đến vi phạm pháp luật của các cá nhân, tổ chức với từng trường
hợp cụ thể nhằm hạn chế các kẽ hở pháp luật. Trong quá trình ấy phải làm cho
mọi người thấy được hậu quả nghiêm trọng việc việc buôn lậu đối với kinh tế,
xã hội và đạo đức, văn hoá, đối với đất nước cũng như quyền lợi chính đáng của
mọi người dân.
18


Phải xử lý nhanh, nghiêm minh, thích đáng những kẻ buôn lậu và những

người có dính dáng đến việc buôn lậu. Trong thời gian qua, chúng ta chưa quan
tâm đúng mức đến việc đấu tranh kiên quyết và kịp thời đối với các hành vi
buôn lậu. Một số cá nhân, tổ chức có hành vi buôn lậu được phát hiện nhưng
không được xử lý kịp thời hoặc thậm chí có xử lý nhưng chỉ qua loa, không
đúng mức. Người trực tiếp vi phạm pháp luật đã là nguy hiểm nhưng người gián
tiếp tiếp tay cho việc vi phạm pháp luật đó thì còn nguy hiểm hơn. Xử lý thích
đáng những kẻ buôn lậu, đồng thời xử lý nghiêm minh đối với những kẻ tiếp tay
cho buôn lậu làm tăng lòng tin của người dân vào vào hệ thống pháp luật.
Các ngành, các cấp cũng phải thường xuyên kiểm tra, nắm bắt tình hình
thị trường thì mới phát hiện và ngăn chặn kịp thời hành vi buôn lậu. Hàng lậu
trên thị trường Việt Nam hiện nay từ nhiều nguồn khác nhau tuồn vào với đủ
chủng loại, mẫu mã. Mỗi loại hàng hoá có đến hàng trăm kiểu dáng, mẫu mã.
Thực tế một số mặt hàng dán tem nhập khẩu, tem chống hàng giả nhưng chúng
ta khó có thể dán tem ở hàng trăm các mặt hàng khác được. Hàng lậu tràn lan
dẫn đến cung vượt quá cầu, gây sự mất ổn định của thị trường. Để khắc phục
điều này thì các ngành chức năng cần kiểm tra kiểm soát thị trường một cách
thường xuyên thì mới góp phần vào công tác chống buôn lậu.
Đối với doanh nghiệp
Hiện nay ngoài việc đổ lỗi cho hàng lậu thì các nhà sản xuất trong nước
hầu như chưa chịu nhìn thẳng vào thực tế vì sao hàng của họ không cạnh tranh
nổi với hàng lậu. Thực tế là cùng một loại mặt hàng, chất lượng tương đương
nhau, nhưng giá hàng lậu lại rẻ hơn, mẫu mã đẹp hơn. Vì vậy muốn trụ được
trên thị trường thì phải tăng tính cạnh tranh về chất lượng, đồng thời cũng phải
tìm cách hạ giá thành sản phẩm.
Để nâng cao tính cạnh tranh doanh nghiệp cần tích cực đầu tư nâng cao
trình độ kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ lao động
để tăng năng suất lao động, hạ giá thành và nâng cao chất lượng hàng hoá.

19



Các doanh nghiệp cũng cần tham gia góp phần hoàn thiện môi trường
kinh doanh. Một doanh nghiệp không thể đứng vững lâu dài trong một môi
trường kinh doanh không ổn định, không thuận lợi, hơn nữa hoạt động của
doanh nghiệp ngày nay đã được xem xét, đánh giá dưới nhãn quan quần chúng
và có ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không nên vì lợi
ích của bản thân doanh nghiệp mà có những việc làm tiếp tay cho buôn lậu, gian
dối trong kinh doanh. Doanh nghiệp cần góp phần tích cực vào việc xây dựng
môi trường kinh doanh thuận lợi mà trong đó có việc tích cực tham gia chống
buôn lậu.
Đối với người tiêu dùng
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Không có sự tham gia
tích cực của quần chúng thì nhất định không thể có những chuyển biến cách
mạng trong lịch sử. Do vậy để công tác chống buôn lậu có hiệu quả thì cần có sự
tham gia của quần chúng nhân dân. Nhân dân cần thấy hết được nghĩa vụ, quyền
lợi, về tác hại nhiều mặt của buôn lậu đối với lợi ích riêng của bản thân cũng
như lợi ích chung của xã hội. Nhân dân cần thấy được quyền lợi của mình trong
công tác chống buôn lậu qua đó nâng cao ý thức làm chủ và năng lực làm chủ.
Đồng thời, người dân cũng cần phải hiểu rõ các quan điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, nắm vững mục tiêu nhiệm vụ, các biện pháp chống
buôn lậu, có trách nhiệm trong công việc chung của đất nước; không tiếp tay cho
buôn lậu như: vận chuyển, mua hàng lậu, biết nhưng không báo cho cơ quan
chức năng.
Có thể nói đấu tranh chống buôn lậu không phải là việc riêng của mỗi cá
nhân, tổ chức mà là công việc chung của toàn xã hội mà trước hết là cần hoàn
thiện các quy định của pháp luật, cần sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan thực
thi pháp luật, nâng cao ý thức của tổ chức và cá nhân. Có làm tốt được những
việc trên thì mới có thể đẩy lùi được việc vận chuyển, kinh doanh hàng lậu.

20



Tài liệu tham khảo:
Luật xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 ban hành ngày
20/6/2012.
Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ Quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính Phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng
giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

21



×