Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

xử lý tình huống tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong công tác đăng ký và quản lý hộ tịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.35 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ LÊ HỒNG PHONG
LỚP BỒI DƯỠNG NGẠCH CHUYÊN VIÊN K6A - 2015

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI: TĂNG CƯỜNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG CÔNG TÁC ĐĂNG KÝ VÀ QUẢN LÝ HỘ TỊCH

Học viên : Dương Thanh Huyền
Lớp

: Chuyên viên - K6A

Hà Nội, 2015


MỤC LỤC CỦA TIỂU LUẬN
NỘI DUNG

STT

I

LỜI NÓI ĐẦU

II

NỘI DUNG

1

TÌNH HUỐNG



1.1

Tìm hiểu khái niệm pháp chế XHCN, mối liên

TRANG SỐ

1-2

3-4

hệ và sự khác biệt giữa pháp chế và pháp luật
1.2

Tình huống

2

XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG

10-11

3

NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ

12-15

4


PHƢƠNG ÁN GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG

15-18

5

LẬP KẾ HOẠCH THỰC HIỆN PHƢƠNG ÁN ĐÃ

4-9

18

LỰA CHỌN
III

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

19 -21


Học viên: Dương Thanh Huyền
Lớp: K6A - chuyên viên
Trường Đào tạo Cán bộ Lê Hồng Phong

LỜI NÓI ĐẦU
Ơ

Trong xã hội ngày nay, các mối quan hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh
vực: hành chính - tƣ pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự… luôn diễn
ra đa dạng, phức tạp, với những biểu hiện khác nhau. Việc Nhà nƣớc không

ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật để điều
chỉnh kịp thời các mối quan hệ xã hội đó là hết sức quan trọng và cần thiết.
Cũng nhƣ nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội, lĩnh vực đăng ký và
quản lý hộ tịch luôn tiềm ẩn và phát sinh những tình huống rất phức tạp. Việc
công dân vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hộ tịch có nhiều nguyên nhân khác
nhau, trong đó có một số lý do chủ yếu nhƣ: sự thiếu hiểu biết pháp luật của một
bộ phận nhân dân, ngƣời dân còn chƣa nhận thức hết hậu quả pháp lý có thể phát
sinh nếu sự kiện hộ tịch đƣợc đăng ký không đúng quy định của pháp luật, thiếu
tôn trọng pháp luật…
Xuất phát từ vấn đề thực tiễn nêu trên, em chọn đề tài “Tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa trong công tác đăng ký và quản lý hộ tịch” làm tiểu luận
tốt nghiệp Lớp Bồi dƣỡng Chuyên viên Quản lý nhà nƣớc. Tình huống đƣợc em
lựa chọn làm đối tƣợng nghiên cứu trong tiểu luận là tình huống có thật trên thực
tế. Trong khuôn khổ của tiểu luận, một số tình tiết trong vụ việc, tên cơ quan
quản lý nhà nƣớc, tên của các đƣơng sự đã đƣợc thay đổi.
Em lựa chọn đề tài này nhằm nâng cao nhận thức pháp luật trong nhân
dân, tạo ra thói quen đối với mỗi ngƣời dân là “Sống và làm việc theo pháp luật”.
Đề tài này cũng đặt ra yêu cầu đối với những cán bộ, công chức cần không
ngừng học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề, đạo đức
công vụ nhằm thực thi công vụ một cách hiệu quả, đúng quy định của pháp luật,
có tình, có lý. Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nƣớc từ trung ƣơng đến địa phƣơng
1


cũng cần tập trung, chú trọng nhiều hơn đến công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật để pháp luật đi vào cuộc sống, không ngừng nâng cao trình độ hiểu
biết pháp luật trong nhân dân.
Em lựa chọn phƣơng pháp nghiên cứu, tiếp cận vấn đề từ vấn đề chung
đến vấn đề cụ thể, từ vấn đề riêng đến vấn đề tổng quát, từ lý luận đến thực tiễn,
từ thực tiễn lại đúc rút thành lý luận.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là thực tiễn áp dụng các quy định của pháp
luật về hộ tịch, những vấn đề phát sinh và giải pháp thực hiện.
Kết cấu của tiểu luận gồm 3 phần:
Phần thứ nhất: Lời nói đầu
Phần thứ hai: Nội dung gồm:
1. Khái niệm pháp chế, mối liên hệ và sự khác biệt giữa pháp chế và pháp luật.
2. Mô tả tình huống
3. Mục tiêu xử lý tình huống
4. Nguyên nhân và giải quyết hậu quả
5. Phƣơng án giải quyết tình huống
6. Lập kế hoạch thực hiện phƣơng án đã lựa chọn.
Phần thứ ba: Kết luận và kiến nghị
Em xin trân trọng cảm ơn!

2


NỘI DUNG
I.TÌNH HUỐNG:
1. Trước khi nghiên cứu tình huống cụ thể, chúng ta cần hiểu
khái niệm pháp chế XHCN là gì? Mối liên hệ và sự khác biệt giữa pháp
chế và pháp luật.
Xét về mặt bản chất và ý nghĩa xã hội: Pháp chế XHCN là yêu cầu về
sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan
hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật; là sự
tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của nhà
nƣớc, của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và đối với công dân.
Xét về mặt hình thức: Pháp chế XHCN là một chế độ đặc biệt của đời
sống chính trị - xã hội. Trong đó, tất cả các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, cán bộ, công chức nhà nƣớc, nhân viên các tổ chức xã

hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách
nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.
Pháp chế và pháp luật là hai khái niệm có quan hệ chặt chẽ với nhau,
là những khái niệm gần gũi nhƣng không đồng nhất.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do
nhà nƣớc ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện , thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát triển phù hợp với
lợi ích của giai cấp mình.
Pháp chế là phạm trù thể hiện những yêu cầu, đòi hỏi với các chủ thể
tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật.
Nhƣ vậy, pháp luật là tiền đề của pháp chế, nhƣng có pháp luật chƣa
hẳn đã có pháp chế. Pháp luật ban hành ra mà không đƣợc tuân thủ, thi
hành hoặc dù nó đƣợc thi hành nhƣng pháp luật ấy có nhiều thiếu sót, mâu
thuẫn thì xã hội không thể phát triển bình thƣờng đƣợc, các quyền và lợi
ích của công dân không đƣợc tôn trọng và bảo đảm.

3


Pháp luật chỉ có hiệu lực thực sự khi nó dựa trên cơ sở vững chắc của
một nền pháp chế và ngƣợc lại, pháp chế chỉ có thể đƣợc củng cố và tăng
cƣờng khi xã hội có đƣợc hệ thống pháp luật tƣơng đối hoàn chỉnh, đồng
bộ, phù hợp và kịp thời.
2. Tình huống:
Ngày 02 tháng 11 năm 2015, bà Phạm Thị Hà, sinh năm 1985, có hộ
khẩu thƣờng trú tại phƣờng A và anh Nguyễn Văn Hải, sinh năm 1984, có hộ
khẩu thƣờng trú tại xã B đến tại UBND phƣờng A – nơi bà Hà có hộ khẩu
thƣờng trú- để làm thủ tục đăng ký kết hôn. Theo quy trình tiếp nhận và giải
quyết hồ sơ hành chính trong lĩnh vực hộ tịch theo cơ chế “Một cửa” thì cán
bộ tiếp nhận hồ sơ kiểm tra hồ sơ của ông Hải, bà Hà nộp và xuất trình.

Hồ sơ do ông Hải và bà Hà nộp và xuất trình gồm:
- 01 Tờ khai đăng ký kết hôn (Theo mẫu)
- 01 sổ hộ khẩu gia đình của bà Hà (Bản chính)
- 02 CMND của ông Hải, bà Hà (Bản chính)
- 01 Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của ông Hải (Bản chính)
- 01 Bản cam đoan về tình trạng hôn nhân do bà Hà lập (do bà Hà
qua nhiều nơi cƣ trú khác nhau và đăng ký thƣờng trú tại phƣờng A vào
năm 2012)
Khi tiếp nhận hồ sơ, cán bộ tiếp nhận hồ sơ nhận thấy CMND của anh
Hải đƣợc cấp từ năm 2002, qua quá trình sử dụng đã đƣợc 13 năm nên ảnh
trên CMND đã bị mờ. Cán bộ tiếp nhận đã cố gắng xem xét các dấu hiệu
nhận dạng trên CMND để nhận dạng xem ngƣời đi nộp hồ sơ tự nhận là Hải
có đúng là ông Hải trong CMND hay không. Trong lúc cán bộ tiếp nhận hồ
sơ còn đang ngờ ngợ vì CMND đã dùng lâu năm, ảnh đã mờ, hơn n ữa sau
13 năm thì ngoại hình thay đổi. Lúc đó, mẹ ruột của bà Hà có đi cùng bà Hà
ra UBND phƣờng đã trình bày rằng bà có ngƣời quen là một cán bộ tên là
Nguyễn Thị Hoa hiện đang công tác tại UBND phƣờng A là ngƣời đã trực
tiếp đến dự tiệc cƣới ông Hải và bà Hà nên mẹ bà Hà đã nhờ bà Hoa nhận
diện giúp ngƣời nộp hồ sơ đúng là ông Hải trong CMND. Bà Hoa khẳng định
ảnh ngƣời trong CMND và ngƣời đến đăng ký kết hôn chính là ông Hải. Cán
4


bộ tiếp nhận hồ sơ trên cơ sở sự tin tƣởng ngƣời đồng nghiệp của mình và
mong muốn giải quyết thủ tục hành chính đƣợc linh hoạt, thông thoáng nên
đã tiếp nhận hồ sơ đề nghị đăng ký kết hôn của ông Hải và bà Hà.
Ngay sau khi tiếp nhận hồ sơ, cán bộ tiếp nhận hồ sơ lập phiếu giao
– nhận hồ sơ đến bộ phận tƣ pháp đồng thời lập giấy tiếp nhận hồ sơ và hẹn
ngày trả kết quả cho bà Hà (Thời hạn trả kết quả là 05 ngày làm việc kể từ
ngày tiếp nhận hồ sơ theo quy định của pháp luật)

Khi nộp hồ sơ, bà Hà có trình bày về hoàn cảnh bà đã có thai đến
tháng thứ 8 và ông Hải sắp phải đi công tác dài ngày nên bà đề nghị UBND
phƣờng tạo điều kiện giúp đỡ cho bà và ông Hải đƣợc đăng ký kết hôn
trƣớc ngày trả kết quả theo giấy hẹn để ông Hải kịp thời gian đi công tác.
Sau khi tiếp nhận hồ sơ từ bộ phận “Một cửa”, cán bộ tƣ pháp đã xem
xét tính hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ của ông Hải, bà Hà. Để tạo điều kiện
thuận lợi cho bà Hà và ông Hải đƣợc đăng ký kết hôn cho kịp thời gian ông
Hải đi công tác, cán bộ tƣ pháp hộ tịch đã tiến hành cho ông Hải và bà Hà
ký Giấy chứng nhận kết hôn và sổ đăng ký kết hôn vào ngày 04.11.2015.
Tuy nhiên, vì lý do cán bộ văn phòng quản lý và đóng dấu của UBND
phƣờng bận việc đi họp nên chƣa đóng đƣợc dấu vào giấy chứng nhận kết
hôn nên cán bộ tiếp nhận hồ sơ đã hẹn bà Hà và ông Hải đến nhận Giấy
chứng nhận kết hôn vào ngày 05.11.2015
Ngay chiều ngày 04.11.2015, bà Hà ra UBND phƣờng và có đơn đề
nghị xin rút hồ sơ không đăng ký kết hôn với ông Hải nữa.
UBND phƣờng A nhận thấy có dấu hiệu bất thƣờng vì vừa sáng hôm
đó bà Hà và ông Hải còn nhờ UBND phƣờng giúp đỡ để đƣợc đăng ký kết
hôn sớm hơn thời hạn đã ghi trên giấy hẹn. Tại sao lý do gì mà chị Hà lại
xin rút hồ sơ gấp đến vậy? Nhiều câu hỏi và vấn đề đặt ra cho cán bộ Tƣ
pháp - Hộ tịch phƣờng. Tuy nhiên, vì hồ sơ đã đƣợc vào sổ kết hôn và bà
Hà, ông Hải đã ký vào giấy chứng nhận kết hôn nên việc rút hồ sơ cần phải
theo quy định về văn thƣ, lƣu trữ và cần có văn bản hƣớng dẫn của cơ quan
có thẩm quyền cấp trên trực tiếp để UBND phƣờng có hƣớng giải quyết yêu
cầu của công dân sao cho có lý, có tình.
5


Ngày 06/11/2015, bà Hà tiếp tục ra UBND phƣờng đề nghị UBND
phƣờng xem xét cho bà Hà, ông Hải rút hồ sơ đăng ký kết hôn. Tuy nhiên,
việc ông Hải, bà Hà đề nghị rút hồ sơ đăng ký kết hôn vào thời điểm ông

Hải, bà Hà đã ký vào bản chính giấy chứng nhận kết hôn, đã ký vào sổ đăng
ký kết hôn nhƣng UBND phƣờng A chƣa đóng dấu vào Giấy chứng nhận
kết hôn, chƣa cấp cho công dân có coi là bản chính hay không?
Để giải quyết đề nghị rút hồ sơ của ông Hải, bà Hà đƣợc chính xác,
đúng quy định của pháp luật, Cán bộ Tƣ pháp đã gửi công văn xin ý kiến
hƣớng dẫn về nghiệp vụ của Phòng Tƣ pháp quận.
Cán bộ Tƣ pháp - Hộ tịch đã trao đổi, chia sẻ với bà Hà để nắm bắt
lý do vì sao ông Hải, bà Hà lại đề nghị rút hồ sơ nhƣng bà Hà chỉ nêu ra lý
do là không hợp nhau nên không muốn kết hôn nữa.
Ngày 09 tháng 11 năm 2015, bà Hà có thuê luật sƣ Cƣờng đến làm
việc tại UBND phƣờng. Qua trao đổi, làm việc, luật sƣ Cƣờng cho biết do
ông Hải hiện tại đang lao động tại nƣớc Đài Loan chƣa về nƣớc mà bà Hà
sắp đến ngày sinh con mà chƣa đăng ký kết hôn. Bà Hà mong muốn khai
sinh của con bà phải có đủ cả tên cha và mẹ trẻ em cho đỡ tội nghiệp cho
con bà. Bà không muốn đăng ký khai sinh cho con bà là con ngoài giá thú.
Thay vì việc bà Hà sử dụng các dịch vụ tƣ vấn pháp luật hoặc liên hệ với
UBND phƣờng để đƣợc tƣ vấn pháp luật và hƣớng dẫn bà thủ tục đăng ký
khai sinh theo đúng quy định của pháp luật thì bà Hà lại bàn bạc với gia
đình bà Hà, gia đình ông Hải về việc nhờ ông Nguyễn Văn Kiên là em họ
con chú con bác ruột của ông Hải có ngoại hình giống ông Hải mạo danh
ông Hải tới UBND phƣờng A ký giấy chứng nhận kết hôn, sổ đăng ký kết
hôn. Luật sƣ Cƣờng đề nghị UBND phƣờng tạo điều kiện thuận lợi cho bà
Hà đƣợc rút hồ sơ đăng ký kết hôn.
Nhƣ vậy, vụ việc là bà Phạm Thị Hà đã nhờ em họ tên Nguyễn Văn
Kiên là em của ông Nguyễn Văn Hải mạo danh ông Hải, sử dụng giấy tờ
của ông Hải đến UBND phƣờng A làm thủ tục đăng ký kết hôn.
6


Trƣớc tình tiết mới phát sinh do luật sƣ Cƣờng cung cấp, UBND

phƣờng đã tiến hành xác minh các tình tiết liên quan. UBND phƣờng đã
mời ông Nguyễn Văn Hải, ông Nguyễn Văn Kiên đến trụ sở UBND phƣờng
để làm rõ vụ việc. Tuy nhiên, ông Hải và anh Kiên không hợp tác và không
đến làm việc tại trụ sở UBND phƣờng.
Trƣớc tình hình đó, UBND phƣờng đã gửi công văn đến Cục quản lý
xuất nhập cảnh đề nghị phối hợp cung cấp thông tin về việc xuất nhập cảnh
của ông Nguyễn Văn Hải nhƣng Cục đã gửi UBND phƣờng công văn phúc
đáp từ chối cung cấp thông tin với lý do Cục chỉ cung cấp thông tin theo
yêu cầu của cơ quan cảnh sát điều tra hoặc cơ quan an ninh .
Ngày 10/11/2015, UBND phƣờng tiếp tục nhận đƣợc đề nghị rút hồ
sơ của ông Nguyễn Văn Kiên. Ông Kiên trình bày do sự thiếu hiểu biết về
pháp luật nên khi bà Hà nhờ ông Kiên có ngoại hình giống ông Hải để làm
thủ tục kết hôn, vì nể nang, vì tình nghĩa anh em con chú con bác và ngại
từ chối nên đã đồng ý mạo danh sử dụng CMND của ông Hải đến UBND
phƣờng A để làm thủ tục đăng ký kết hôn. Ông Kiên cam đoan toàn bộ chữ
ký trong tờ khai đăng ký kết hôn, giấy chứng nhận kết hôn, sổ đăng ký kết
hôn là chữ ký của ông Kiên. Sau khi nghe Cán bộ Tƣ pháp – Hộ tịch tuyên
truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về hộ tịch, về hôn nhân gia
đình, về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình,
hậu quả pháp lý phát sinh từ việc mạo danh để làm thủ tục đăng ký kết hôn
của ông Kiên, ông Kiên đã biết ăn năn, hối cải, thành thật nhận lỗi, nhận
thức đƣợc hành vi của mình là sai lầm và vi phạm pháp luật. Ông Kiên cam
đoan sẽ không tái phạm lần nào nữa và xin chịu mọi trách nhiệm trƣớc pháp
luật về hành vi vi phạm pháp luật của mình. Ông Kiên đề nghị UBND
phƣờng tạo điều kiện để cho bà Hà rút hồ sơ.
Cùng ngày, UBND phƣờng tiếp tục nhận đƣợc đơn trình bày và cam
đoan của ông Nguyễn Văn Mài - bố đẻ của ông Nguyễn Văn Hải - về việc
ông Hải đang sinh sống ở nƣớc ngoài từ năm 2009 đến nay chƣa về nƣớc.
7



Trong thời gian này, ông Hải chỉ về nhà một lần duy nhất vào năm 2011 và
chỉ ở lại Việt Nam khoảng 30 ngày rồi ông Hải lại sang Đài Loan lao động
kể từ đó đến nay chƣa về Việt Nam lần nào nữa. Ông Hải và bà Hà đã
chung sống với nhau nhƣ vợ chồng ở nƣớc ngoài và đƣợc hai bên đồng ý tổ
chức báo hỷ ở nƣớc ngoài. Sau đó, bà Hà về nƣớc, còn ông Hải vẫn ở Đài
Loan. Khi bà Hà về nƣớc, bố mẹ bà Hà và ông Hải có tổ chức đám cƣới
theo phong tục truyền thống trƣớc sự chứng kiến của họ hàng hai bên
nhƣng chỉ có mặt bà Hà, còn ông Hải không có mặt vì ông Hải đang ở Đài
Loan. Bà Nguyễn Thị Hoa – Cán bộ đang công tác tại UBND phƣờng A có
đến dự tiệc cƣới của ông Hải, bà Hà nhƣng cũng không gặp ông Hải. Vì tin
tƣởng mẹ bà Hà là hàng xóm, láng giềng nên bà Hoa chủ quan, không nghĩ
là có sự mạo danh ông Hải để làm thủ tục kết hôn tại UBND phƣờng A nên
bà Hoa đã cung cấp thông tin cho cán bộ tiếp nhận hồ sơ là ngƣời nộp hồ sơ
chính là ông Hải. Ông Mài cũng cung cấp thông tin về việc do thiếu hiểu
biết pháp luật nên bà Hà đã bàn bạc với gia đình nhờ cháu ruột của ông là
ông Nguyễn Văn Kiên có ngoại hình giống con ông là Nguyễn Văn Hải
mạo danh ông Hải, sử dụng CMND của ông Hải để đến làm thủ tục đăng ký
kết hôn tại UBND phƣờng A, Ông Mài cam đoan và xác nhận toàn bộ vụ
việc trên là thực và xin nhận lỗi về sự thiếu hiểu biết về pháp luật của mình.
Đề nghị UBND phƣờng Lĩnh Nam xem xét cho bà Hà rút hồ sơ.
Trƣớc sự đề nghị của gia đình bà Hà, để đảm bảo tính chính xác,
khách quan trong giải quyết hồ sơ, UBND phƣờng tiếp tục gửi công văn
đến UBND xã B và Công an xã B về việc xác minh thời điểm cƣ trú tại Việt
Nam của ông Nguyễn Văn Hải nhƣng không nhận đƣợc công văn phúc đáp
của UBND xã B và Công an xã B.
Công việc xác minh đối với thời điểm cƣ trú tại Việt Nam của ông
Hải là rất khó khăn. Để giải quyết đề nghị của bà Hà, Cán bộ Tƣ pháp - Hộ
tịch phƣờng phải thực hiện việc xác minh tình trạng cƣ trú của ông Hải vào
thời điểm đăng ký kết hôn, những tình tiết liên quan đến vụ việc có đúng sự

8


thật khách quan hay không. Tuy nhiên, UBND phƣờng gặp không ít khó
khăn khi không nhận đƣợc sự phối hợp của các tổ chức liên quan. UBND
phƣờng đã gửi công văn và giấy mời đến UBND xã B mời các thành phần
có liên quan dự họp để xác minh thời điểm cƣ trú của ông Hải ở Việt Nam.
Cán bộ Tƣ pháp – Hộ tịch UBND phƣờng A đã đến và làm việc với
UBND xã B, Công an xã B và xác minh với một số ngƣời dân là hàng xóm,
láng giềng của gia đình ông Hải. Theo thông tin do Cán bộ Tƣ pháp xã B ngƣời đã trực tiếp tham mƣu cho lãnh đạo UBND xã ký giấy xác nhận tình
trạng hôn nhân cho ông Hải - cho biết: tại thời điểm cấp giấy xác nhận tình
trạng hôn nhân cho ông Hải, do không nắm đƣợc thông tin ông Hải đi nƣớc
ngoài hay không nên khi bố ông Hải xuất trình CMND, hộ khẩu gia đình
của ông Hải và đề nghị cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho ông Hải
thì Cán bộ Tƣ pháp – Hộ tịch cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho
ông Hải theo pháp luật về hộ tịch. Đồng chí Trƣởng Công an xã cung cấp
thông tin: theo hồ sơ quản lý nhân, hộ khẩu hiện đang lƣu trữ tại xã B thì
không thể hiện nội dung ông Hiệp đi nƣớc ngoài vì lý do công dân khi làm
thủ tục cấp hộ chiếu thì chỉ mang CMND, hộ khẩu lên Tỉnh làm và theo quy
định thì không phải khai báo cho chính quyền địa phƣơng hay Công an xã.
Do đó, chính quyền địa phƣơng và Công an xã không nắm bắt đƣợc thông
tin về việc công dân có đi nƣớc ngoài hay không và ông còn cho biết thêm
là ông Hải hiện không cƣ trú tại địa phƣơng.
Cán bộ Tƣ pháp – Hộ tịch UBND phƣờng A đã tiến hành xác minh
với ông Trần Minh Trụ, sinh năm 1981, là hàng xóm của ông Hải. Ông Trụ
cung cấp thông tin: vào năm 2012, ông Trụ có gặp ông Hải ở Đài Bắc, Đài
Loan. Sau đó ông Trụ trở về nƣớc từ đầu năm 2015 đến nay. Trong thời
gian ở Đài Loan, ông Trụ chỉ gặp ông Hải một lần vào năm 2012. Hiện tại,
ông Trụ không biết ông Hải đang ở đâu, làm gì, đã về nƣớc chƣa. Cán bộ
Tƣ pháp – Hộ tịch cũng ghi nhận đƣợc ý kiến của bà Nguyễn Minh Thu –

Hàng xóm của gia đình ông Hải – về việc ông Hải hiện không cƣ trú tại địa
phƣơng. Bà Thu cho biết bà có nghe bà con nói rằng ông Hải hiện đang đi
9


xuất khẩu lao động ở nƣớc ngoài, còn việc ông Hải đã về nƣớc hay chƣa thì
bà Thu không biết.
II. Xác định mục tiêu xử lý tình huống:
Xử lý tình huống tuân theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm
pháp luật đƣợc thực thi một cách triệt để đồng thời đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của công dân.
Nhà nƣớc đã xây dựng một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống xã hội để
đảm bảo pháp luật phải đƣợc thực hiện nghiêm minh, đúng theo quy định
và để xử lý các trƣờng hợp cố tình vi phạm pháp luật, thiếu tôn trọng pháp
luật. Đây là tình huống rất hiếm khi gặp trong lĩnh vực đăng ký và quản lý
hộ tịch ( cụ thể là đăng ký kết hôn), việc xử lý vi phạm hành chính đối với
cá nhân có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hành chính – tƣ pháp
là rất cần thiết để đảm bảo pháp chế XHCN.
Ngoài ra, trong khi thực thi công vụ, Cán bộ Tƣ pháp – Hộ tịch cần
nâng cao tinh thần trách nhiệm, chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật cho công dân lồng ghép trong quá trình thực hiện công
tác chuyên môn.
Các văn bản quy phạm pháp luật đƣợc áp dụng trong quá trình xử lý
tình huống trong vụ việc này:
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ( hiệu lực từ ngày 01/01/2015)
Luật Lƣu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2011;
Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 20 tháng 6 năm 2012
Nghị định 158/2005/NĐ – CP, ngày 27/12/2005 của Chính Phủ về
đăng ký và quản lý hộ tịch;

Thông tƣ 08a/2010/TT – BTP, ngày 25/3/2010 của Bộ Tƣ pháp về việc
ban hành và hƣớng dẫn việc ghi chép; lƣu trữ, sử dụng sổ, biểu mẫu hộ tịch
Nghị định 110/ 2013/NĐ – CP, ngày 24/9/2013 của Chính phủ về xử
lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tƣ pháp, hành chính - tƣ pháp;
hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08.4.2004 của Chính phủ về
công tác văn thƣ.
10


Nghị định số 09/2010/NĐ-CP ngày 08.02.2010 của Chính phủ sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08.4.2004 của
Chính phủ về công tác văn thƣ
Áp dụng khoản 2, điều 28, Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày
24.9.2013 của Chính phủ quy định mức phạt tiền từ 1.000.000- 3.000.000đ
đối với các hành vi “ cho ngƣời khác mƣợn giấy tờ làm thủ tục đăng ký kết
hôn, sử dụng giấy tờ của ngƣời khác để làm thủ tục đăng ký kết hôn”.
UBND phƣờng ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối
với ông Kiên đã có hành vi sử dụng giấy tờ của ngƣời khác để làm thủ tục
đăng ký kết hôn. UBND phƣờng sẽ tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ
tịch, về hôn nhân và gia đình cho ông Kiên hiểu nhằm nâng cao nhận thức
pháp luật để ông Kiên không tái phạm nữa.
UBND phƣờng chấp nhận đề nghị rút hồ sơ đăng ký kết hôn của bà
Hà vì những lý do sau:
Theo quy định tại khoản 1, điều 1, Nghị định số 09/2010/NĐ-CP
ngày 08.02.2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 110/2004/NĐ-CP ngày 08.4.2004 của Chính phủ về công tác văn thƣ
(sau đây gọi là Nghị định số 09) thì: “Bản chính văn bản là bản hoàn chỉnh
về nội dung, thể thức văn bản và đƣợc cơ quan, tổ chức ban hành” . Nhƣ
vậy, giấy chứng nhận kết hôn do bà Hà và ông Hải đã ký tại UBND phƣờng

chƣa đảm bảo đầy đủ yếu tố cấu thành một bản chính theo quy định của
Nghị định số 09. Mặc dù hai bên nam, nữ đã ký vào biểu mẫu giấy chứng
nhận kết hôn và sổ đăng ký kết hôn nhƣng chƣa đƣợc UBND phƣờng A
đóng dấu, chƣa cấp cho hai bên nam, nữ thì chƣa phải là bản chính.
Mặt khác, qua xác minh thực tế và thu thập các chứng cứ liên quan
thì UBND phƣờng cũng đã tìm mọi phƣơng án tối ƣu nhất để xác định tình
tiết ông Kiên mạo danh ông Hải đến UBND phƣờng A làm thủ tục đăng ký
kết hôn là đúng thực tế khách quan. Việc mạo danh ngƣời khác trong khi
làm thủ tục đăng ký kết hôn là hành vi bất hợp pháp và không đƣợc pháp
luật thừa nhận.
11


III. Nguyên nhân và giải quyết hậu quả.
* Nguyên nhân:
Đi vào phân tích nguyên nhân của vụ việc này cho thấy có một số
thiếu sót từ khâu tiếp nhận, thụ lý hồ sơ và áp dụng văn bản quy phạm pháp
luật chƣa đƣợc đồng đều trong đội ngũ cán bộ, công chức, trình độ hiểu biết
pháp luật trong một bộ phận nhân dân còn hạn chế, cụ thể:
Ông Nguyễn Văn Mài, bố của ông Hải, xin cấp xác nhận tình trạng
hôn nhân cho ông Hải tại UBND xã B để đi đăng ký kết hôn tại UBND
phƣờng A trong khi ông Mài biết rõ con ông đang ở Đài Loan không thể có
mặt tại UBND phƣờng A để đăng ký kết hôn đƣợc; bàn bạc thống nhất với
con dâu để nhờ ông Kiên là cháu họ mạo danh ông Hải, sử dụng giấy tờ của
ông Hải để làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND phƣờng A.
Cán bộ Tƣ pháp - Hộ tịch UBND xã B đã tham mƣu cho UBND xã
cấp giấy xác nhận tình trạng hôn cho ông Hải phải thực hiện đối với trƣờng
hợp xác nhận tình trạng hôn nhân trong thời gian cƣ trú tại Việt Nam trƣớc
khi xuất cảnh cho công dân Việt Nam đang cƣ trú ở nƣớc ngoài để đăng ký
kết hôn tại cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự của Việt Nam tại nƣớc

ngoài (Đại sứ quán Việt Nam tại Đài Loan) hoặc Sở Tƣ pháp Thành phố
(theo quy định tại điểm b, mục 1, Điều 10 Thông tƣ 08a/2010/TT-BTP,
ngày 25/3/2010 của Bộ Tƣ pháp về việc ban hành và hƣớng dẫn việc ghi
chép; lƣu trữ, sử dụng sổ, biểu mẫu hộ tịch). Tuy nhiên, trong giấy xác
nhận tình trạng hôn nhân do UBND xã B cấp cho ông Hải vào ngày 18.8.
2015 thể hiện:
“ Nơi thƣờng trú hiện nay: Xã B, huyện X, tỉnh Y
Trong thời gian cƣ trú tại: xã B
Từ ngày : 1984 đến ngày 18.8.2015
Tình trạng hôn nhân hiện tại: Từ khi đủ tuổi đăng ký kết hôn đến nay
chƣa đăng ký kết hôn với ai”.
Trong khi ông Hải đi lao động ở nƣớc ngoài từ năm 2009 đến ngày
18/8/2015 ông Hải vẫn là công dân Việt Nam đang trong thời gian lao động
tại nƣớc ngoài nên mục nơi thƣờng trú/tạm trú của ông Hải phải ghi địa chỉ
tạm trú tại nƣớc ngoài. Mục “Trong thời gian cƣ trú tại: xã B, từ
ngày…tháng…năm…” chỉ ghi khoảng thời gian ông Hải cƣ trú ở trong
12


nƣớc, còn tình trạng hôn nhân hiện tại của ông Hải do Đại sứ quán Việt
Nam tại nƣớc ngoài xác nhận. Vì vậy, Cán bộ Tƣ pháp – Hộ tịch UBND xã
B đã chƣa xác minh kỹ về tình trạng cƣ trú của ông Hải, xác nhận chƣa
đúng pháp luật về tình trạng hôn nhân của ông Hải là ngƣời Việt Nam đang
trong thời gian lao động tại nƣớc ngoài.
Cán bộ tiếp nhận hồ sơ tại Bộ phận “Một cửa” UBND phƣờng A
ngay từ khi nhận hồ sơ đã không phát hiện ra việc ông Kiên mạo danh
ông Hải đến làm thủ tục kết hôn tại UBND phƣờng và vẫn tiếp nhận hồ
sơ theo quy trình.
Cán bộ Tƣ pháp – Hộ tịch phƣờng A không thể biết đƣợc việc ông
Hải đang trong thời gian công tác tại nƣớc ngoài (vì ông Hải không phải là

ngƣời sinh sống tại phƣờng A) và cũng không phát hiện ra sự việc ông Kiên
mạo danh ông Hải do ông Kiên có ngoại hình giống với ông Hải.
Ngoài ra, khi tiếp nhận hồ sơ còn một số khó khăn do yếu tố khách
quan mang lại nhƣ trong việc nhận diện về ngƣời yêu cầu giải quyết thủ tục
vì có một số đặc điểm nhận dạng ghi tại CMND thì công dân đã phẫu thuật
thẩm mỹ, tẩy nốt ruồi…. làm làm mất dấu hiệu nhận dạng hoặc thay đổi nét
mặt; có trƣờng hợp CMND của công dân đã sử dụng đƣợc khoảng 13, 14
năm, ngoại hình đã thay đổi rất nhiều gây khó khăn cho cán bộ trong quá
trình tiếp nhận và giải quyết hồ sơ nhận diện công dân.
Công tác phối hợp giữa các cơ quan khi cần tiến hành xác minh về
tình trạng thông tin xuất nhập cảnh còn gặp nhiều khó khăn, khi UBND
phƣờng gửi công văn về việc cung cấp thông tin xuất nhập cảnh đến Cục
quản lý xuất nhập cảnh thì Cục quản lý xuất nhập cảnh đã từ chối cung cấp
thông tin hay việc gửi công văn xác minh thời điểm cƣ trú tại Việt Nam của
ông Hải gửi UBND xã B và Công an xã B đều không nhận đƣợc phản hồi
cho đến khi UBND phƣờng A phải cử cán bộ xuống tận xã B để tiến hành
xác minh gây tốn kém thời gian, tiền bạc cho ngân sách địa phƣơng.
Việc cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nƣớc có liên quan về
thời điểm cƣ trú tại Việt Nam của ông Hải thì còn dè dặt, không đúng theo
quy định của pháp luật. Cán bộ Tƣ pháp – Hộ tịch xã B cho rằng UBND xã
chỉ có trách nhiệm xác nhận tình trạng hôn nhân cho ông Hải trong thời
gian cƣ trú tại xã B, còn việc ông Hải có cƣ trú ở nƣớc ngoài hay không,
Cán bộ Tƣ pháp – Hộ tịch không biết, ông Hải và gia đình ông Hải không
13


cung cấp thông tin cho UBND xã. Công an xã B thì cho rằng ở xã B có rất
nhiều trƣờng hợp đi lao động ở nƣớc ngoài, công dân tự làm việc với Sở Tƣ
pháp và Cục đăng ký quản lý xuất nhập cảnh mà không cần thông báo hoặc
xác nhận của Công an xã nên Công an xã không biết thông tin về việc ông

Hải có đi nƣớc ngoài hay không.
Trong vụ việc này, hành vi của bà Hà, ông Mài là có yếu tố gian dối
do sự kém hiểu biết về pháp luật. Tuy nhiên, hành vi của bà Hà, ông Mài
không phải là hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật hiện
hành nên không thể tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với bà Hà và
ông Mài đƣợc. Tuy nhiên, xét về phƣơng diện tình cảm thì cũng có thể chia
sẻ với bà Hà đang trong hoàn cảnh mang thai hơn 8 tháng, chồng lại đi làm
ăn ở nƣớc ngoài, hiểu biết pháp luật hạn chế, tâm lý cũng bất ổn, đã lo sợ
con sinh ra không đƣợc đảm bảo quyền lợi nên đã dẫn đến việc làm sai trái
nhƣ vậy.
Hành vi bồng bột nhất thời, nhận thức pháp luật còn hạn chế của ông
Nguyễn Văn Kiên đã dẫn đến việc mạo danh, sử dụng giấy tờ của ngƣời khác
để làm thủ tục đăng ký kết hôn cũng là nguyên nhân dẫn đến sự phức tạp của
vụ việc. Qua đây có thể thấy sự thiếu hiểu biết pháp luật và không có kinh
nghiệm sống của một bộ phận thanh niên ngày nay rất đáng báo động.
Trình độ và năng lực chuyên môn của một số cán bộ còn hạn chế dẫn
đến việc quản lý địa bàn còn thiếu chặt chẽ, tinh thần trách nhiệm trong khi
thực thi công vụ chƣa cao nên còn tình trạng cấp giấy tờ hộ tịch mà chƣa
xác minh làm rõ các tình tiết liên quan tạo thành lỗ hổng để công dân lợi
dụng vi phạm phạm luật.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật tại một số xã,
phƣờng, thị trấn còn hạn chế, thiếu tính đồng bộ nên chƣa nâng cao đƣợc ý
thức pháp luật của một bộ phận nhân dân.
Nghị định 110/2013/NĐ – CP, ngày 24/9/2013 của Chính phủ góp
phần vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển và hoàn thiện hệ thống
pháp luật nƣớc ta, là công cụ hữu hiệu trong công tác quản lý nhà nƣớc
trong lĩnh vực bổ trợ tƣ pháp, hành chính - tƣ pháp; hôn nhân và gia đình,
thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã . Tuy nhiên, trong quá
trình áp dụng còn bất cập nhất định, một số hành vi vi phạm chƣa thuộc đối
tƣợng điều chỉnh của Nghị định dẫn đến việc ngƣời có hành vi vi phạm

14


nhƣng chƣa bị xử lý do chƣa có chế tài, thiếu quy định của pháp luật. Hơn
nữa, mức xử phạt vi phạm hành chính trong Nghị định còn nhẹ, chƣa đủ sức
tạo ra sức răn đe lan tỏa đối với những đối tƣợng vi phạm pháp luật, dẫn
đến tâm lý không sợ bị xử phạt vi phạm hành chính trong một bộ phận nhân
dân, thiếu tôn trọng pháp luật. Trong tình huống này hành vi của bà Hà, ông
Mài - những ngƣời đã bàn bạc, thống nhất với những ngƣời liên quan trong
việc thực hiện hành vi gian dối trong khi làm thủ tục đăng ký kết hôn - bản
thân bà Hà, ông Mài cũng là ngƣời cũng thực hiện hành vi gian dối nhƣng
chƣa có quy định pháp luật nào để xử lý hành vi trên nên dẫn đến việc
không thể xử lý đối với hành vi vi phạm của bà Hà, ông Mài.
* Giải quyết hậu quả:
Việc thiếu chế tài xử lý đối với cá nhân vi phạm pháp luật của Nhà
nƣớc trong lĩnh vực hộ tịch, hôn nhân và gia đình hoặc chế tài chƣa đủ
mạnh trong các văn bản quy phạm pháp luật sẽ dẫn đến việc một bộ phận
nhân dân coi thƣờng pháp luật.
Việc thiếu tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ, công chức đã
tham mƣu cho lãnh đạo UBND phƣờng ban hành những giấy tờ hộ tịch
chƣa đúng quy định của pháp luật, công tác phối hợp giữa các cơ quan nhà
nƣớc còn chƣa tốt, né tránh trách nhiệm đã ảnh hƣởng đến quyền lợi của
công dân. Chính vì vậy mà cơ quan nhà nƣớc khi nhận đƣợc yêu cầu chính
đáng, hợp pháp của công dân cần nâng cao tinh thần trách nhiệm trong quá
trình thực thi công vụ, nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan, tham mƣu cho lãnh đạo UBND phƣờng phƣơng án giải quyết tối ƣu
vừa đảm bảo pháp chế XHCN vừa đảm bảo giải quyết nhanh chóng, kịp
thời quyền lợi của công dân.
Tăng cƣờng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên
các hệ thống thông tin, truyền thông, truyền hình…. đổi mới, đa dạng hóa

nhiều hình thức tuyên truyền khác nhau để pháp luật đi vào đời sống nhân
dân một cách hiệu quả nhất.
IV.Phương án giải quyết tình huống
- Phương án 1: UBND phƣờng A chấp nhận đề nghị của bà Hà về
việc rút hồ sơ đăng ký kết hôn và không xử phạt vi phạm hành chính đối
15


với ông Kiên và những ngƣời có liên quan vì không hiểu biết pháp luật nên
đã có hành vi vi phạm. Sau đó tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
cho những ngƣời có liên quan để nâng cao nhận thức pháp luật và trách
nhiệm đối với nhà nƣớc và xã hội.
* Mặt mạnh và lợi thế của phương án:
Phƣơng án này sẽ tạo điều kiện thuận lợi và tiết kiệm chi phí cho
công dân, công dân không phải nộp tiền vào ngân sách nhà nƣớc do bị xử
phạt vi phạm hành chính.
* Sự bất lợi và điểm yếu của phương án:
Nếu chỉ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thì tính pháp chế
không cao, dẫn đến công dân coi thƣờng pháp luật.
- Phương án 2: Vì ông Kiên đã thành khẩn nhận lỗi, ăn năn, hối cải,
nhận thức rõ về hành vi vi phạm pháp luật của mình là sai trái và hứa sẽ
không tái phạm nữa là tình tiết giảm nhẹ nên UBND phƣờng A ban hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Kiên về hành vi sử
dụng giấy tờ của ngƣời khác để thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn với mức
phạt là 1.000.000đ ( Một triệu đồng).
UBND phƣờng A chấp nhận đề nghị của bà Hà về việc rút hồ sơ đăng
ký kết hôn giữa bà Hà và ông Hải vì theo quy định tại Nghị định 09 thì :
“Bản chính văn bản là bản hoàn chỉnh về nội dung, thể thức văn bản và
đƣợc cơ quan, tổ chức ban hành”. Giấy chứng nhận kết hôn do ông Kiên ký
mạo danh ông Hải và bà Hà ký tuy đã có nội dung đầy đủ nhƣng chƣa đƣợc

UBND phƣờng A cấp cho hai bên nam nữ nên giấy chứng nhận kết hôn đó
chƣa đƣợc ban hành. Hơn nữa, chữ ký trong hồ sơ đăng ký kết hôn là do
ông Kiên mạo danh ông Hải ký là vi phạm pháp luật.
* Mặt mạnh và lợi thế của phương án:
Không ngừng tăng cƣờng pháp chế XHCN trong công tác đăng ký và
quản lý hộ tịch, áp dụng pháp luật một cách chuẩn xác đảm bảo quyền lợi
hợp pháp của công dân.
* Sự bất lợi và điểm yếu của phương án:
Mức xử phạt còn nhẹ, tính răn đe chƣa cao có thể dẫn đến việc công
dân coi thƣờng pháp luật và tái phạm.
16


- Phương án 3:
UBND phƣờng A tiến hành xác minh, làm việc với UBND xã B về
tình trạng cƣ trú thực tế của ông Hải. Từ đó xác thực đƣợc nội dung đơn
trình bày của ông Mài và giá trị pháp lý của Giấy xác nhận tình trạng hôn
nhân đã cấp cho ông Hải.
Xác minh những thông tin trong đơn trình bày của ông Mài là đúng sự
thật. UBND xã B cần cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho ông Hải
trong khoảng thời gian ông Hải cƣ trú ở trong nƣớc trƣớc khi xuất cảnh ra
nƣớc ngoài để đăng ký kết hôn tại đại sứ quán Việt Nam tại nƣớc ngoài hoặc
tại Sở Tƣ pháp vì ông Hải là công dân Việt Nam đang cƣ trú ở nƣớc ngoài (
theo quy định tại điểm b. Mục 1, điều 10 Thông tƣ 08a/2010/TT – BTP, ngày
25/3/2010 của Bộ Tƣ pháp về việc ban hành và hƣớng dẫn việc ghi chép; lƣu
trữ, sử dụng sổ, biểu mẫu hộ tịch). Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã cấp
cho ông Hải của UBND xã B là sai nội dung nên không có giá trị pháp lý.
Nhƣ vậy, thủ tục đăng ký kết hôn của ông Hải cũng là không đúng.
UBND phƣờng làm việc với bà Hà để làm rõ về đơn trình bày và yêu
cầu bà Hà cam đoan về thời gian sinh sống ở nƣớc ngoài cũng nhƣ thời gian

về nƣớc.
UBND phƣờng gửi công văn xin hƣớng dẫn nghiệp vụ đến Phòng Tƣ
pháp cấp quận xin ý kiến chỉ đạo và hƣớng dẫn nghiệp vụ để giải quyết đề
nghị rút hồ sơ đăng ký kết hôn của bà Hà.
UBND phƣờng A chấp nhận đề nghị của bà Hà về việc rút hồ sơ đăng
ký kết hôn. Cán bộ Tƣ pháp - Hộ tịch đã tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật, tƣ vấn pháp lý cho bà Hà là sẽ thực hiện các thủ tục đảm bảo đầy
đủ quyền trẻ em. Sau khi hoàn tất thủ tục rút hồ sơ đăng ký kết hôn, bà Hà
đề nghị UBND phƣờng A đăng ký khai sinh cho con bà là con ngoài giá thú
trƣớc và chờ ông Hải hết thời hạn lao động ở nƣớc ngoài sẽ về Việt Nam, ra
UBND phƣờng, xã làm thủ tục đăng ký kết hôn và làm văn bản thừa nhận
con. Trên cơ sở văn bản thừa nhận con, ông Hải, bà Hà đề nghị UBND
phƣờng A cải chính họ của ngƣời con từ họ của mẹ sang họ của cha và bổ
sung thông tin về ngƣời cha vào giấy khai sinh của cháu bé.
* Mặt mạnh và lợi thế của phương án:
17


Phƣơng án này đảm bảo tính pháp chế XHCN, đảm bảo việc thiết lập
hồ sơ đầy đủ, chặt chẽ, đúng quy định của pháp luật và tôn trọng thực tế
khách quan.
Phƣơng án này đảm bảo quyền lợi hợp pháp, đáp ứng nguyện vọng
chính đáng của công dân.
* Sự bất lợi và điểm yếu của phương án:
Bà Hà phải chờ đợi ông Hải trong một khoảng thời gian nhất định
mới tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn, làm văn bản thừa nhận con, đề nghị
cải chính, bổ sung hộ tịch đƣợc.
- Lựa chọn phương án tối ưu:
Dƣới góc độ chuyên môn khi giải quyết tình huống trê n, tôi sẽ lựa
chọn phƣơng án 3 vì phƣơng án này đảm bảo tính pháp chế XHCN, đảm

bảo việc thiết lập hồ sơ đầy đủ, chặt chẽ, đúng quy định của pháp luật và
tôn trọng thực tế khách quan; đảm bảo quyền lợi hợp pháp, đáp ứng nguyện
vọng chính đáng của công dân. Điểm yếu, hạn chế của phƣơng án là không
đáng kể, là yếu tố khách quan mang lại.
V. Lập kế hoạch thực hiện phương án đã lựa chọn:
Chủ thể
Ghi
STT
Nội dung công việc
Thời gian
thực hiện chú
1
Xác minh tình trạng cƣ trú thực tế
Ngày
Cán bộ
của ông Hải tại xã B.
12/11/2015
Tƣ pháp
2
Xác minh thông tin trong đơn trình
Ngày
Cán bộ
bày của ông Mài xem có đúng sự 12/11/2015
Tƣ pháp
thật hay không, xác minh những cá
nhân, tổ chức có liên quan.
3
Làm việc với bà Hà nhằm làm rõ
Ngày
Cán bộ

tình tiết phát sinh
13/11/2015 Tƣ pháp
4
Gửi công văn xin ý kiến của Phòng Từ ngày 14
UBND
Tƣ pháp quận Hoàng Mai và chờ ý
đến ngày
phƣờng A
kiến trả lời.
17/11/2015
01 ngày sau
khi nhận
Nghiên cứu hồ sơ, chấp nhận đề
đƣợc ý kiến
UBND
5
nghị rút hồ sơ của bà Hà theo quy
chỉ đạo của
phƣờng A
định của pháp luật
Phòng Tƣ
pháp
18


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kiến nghị
* Đối với Trung ương:
Việc xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nhà nƣớc
còn chƣa đồng bộ, chƣa thống nhất, chƣa quy định cụ thể, rõ ràng và còn

thiếu chặt chẽ nên dẫn đến việc một số cán bộ hiểu nhầm, hiểu sai, áp dụng
văn bản quy phạm pháp luật còn khác nhau. Một số hành vi vi phạm chƣa
đƣợc pháp luật điều chỉnh dẫn đến cá nhân lợi dụng lách luật. Vì vậy, nhà
nƣớc cần xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ, thống
nhất, rõ ràng, cụ thể, chi tiết, dễ hiểu, dễ áp dụng.
Nhà nƣớc cần xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong
đó có quy định rõ ràng, cụ thể về cơ chế phối hợp chặt chẽ từ Trung ƣơng
đến địa phƣơng, giữa các ban, ngành, bộ phận, giữa các địa phƣơng với
nhau để khi thực hiện xác minh đƣợc nhanh chóng, thuận lợi, tránh gây
lãng phí về thời gian, tốn kém về chi phí đi lại cho ngân sách nhà nƣớc.
Mặc dù nhà nƣớc đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật về xử lý
vi phạm hành chính về lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, mức phạt
nên quy định cho phù hợp với điều kiện phát triển, đặc thù riêng của từng
vùng, miền, khu vực thành thị, nông thôn…. Mức xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hành chính – tƣ pháp hiện vẫn còn nhẹ nên chƣa có
tính răn đe cao. Nhà nƣớc cần sửa đổi, bổ sung và ban hành văn bản quy
phạm pháp luật trong đó cần nâng cao mức xử phạt hơn nữa nhằm tăng
cƣờng pháp chế XHCN.
Đối với cơ quan cấp trên trực tiếp cần thƣờng xuyên kiểm tra nghiệp
vụ đối với cơ quan cấp dƣới, tổ chức các buổi tập huấn nghiệp vụ để cán bộ
thực thi công vụ có điều kiện tiếp cận, nêu những khó khăn, vƣớng mắc
trong quá trình giải quyết công việc và đề ra những giải pháp tháo gỡ những
khó khăn, vƣớng mắc đó.
* Đối với địa phương:
Đảng ủy cần thƣờng xuyên chỉ đạo, giám sát hoạt động của UBND
xã, phƣờng, thị trấn thông qua những nghị quyết hàng năm, nghị quyết
chuyên đề, nâng cao vai trò, trách nhiệm cá nhân của ngƣời đứng đầu cơ
quan, đơn vị cũng nhƣ của cán bộ, công chức UBND.
19



Lãnh đạo UBND xã, phƣờng, thị trấn cần thƣờng xuyên sát sao với
công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, chỉ đạo kịp thời trong công tác đăng ký
và quản lý hộ tịch tại địa phƣơng, không ngừng nâng cao vai trò, trách
nhiệm của ngƣời đứng đầu cơ quan
HĐND xã, phƣờng, thị trấn hàng năm xây dựng kế hoạch kiểm tra,
giám sát chặt chẽ các hoạt động của UBND, có thể giám sát theo chuyên đề
từng bộ phận hay lĩnh vực nhƣ: Tƣ pháp - hộ tịch, quản lý đất đai, cải cách
thủ tục hành chính…
MTTQ ở xã, phƣờng, thị trấn có vị trí quan trọng: Thực hiện chức
năng phản biện xã hội, giám sát hoạt động của chính quyền địa phƣơng và
là khối đại đoàn kết toàn dân, gần dân nắm bắt tâm tƣ nguyện vọng của dân
để phản ánh kịp thời những sai phạm của cán bộ trong xử lý công vụ .
Lãnh đạo chính quyền địa phƣơng thƣờng xuyên thực hiện sự chỉ đạo
của Đảng, giám sát của HĐND, MTTQ. Lãnh đạo địa phƣơng phải đi sâu,
đi sát từng cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, phân công rõ ràng, cụ thể từng
công việc. Hàng tháng, năm có đánh giá kiểm tra việc thực hiện công việc
đƣợc giao. Nếu nhƣ có sai phạm thì nhắc nhở và nếu còn tái phạm sẽ xử lý
theo quy định của pháp luật về kỷ luật cán bộ. Kịp thời khen thƣởng, động
viên, khích lệ tinh thần những cán bộ thực hiện tốt nhiệm vụ đƣợc giao, tạo
động lực để cán bộ, công chức tiếp tục phấn đấu và phát huy năng lực, sự
cống hiến bản thân trong công việc.
UBND xã, phƣờng, thị trấn cần tăng cƣờng công tác tuyên truyền với
nhiều hình thức tuyên truyền đa dạng về các chế độ, chính sách pháp luật
mới đƣợc ban hành để pháp luật dễ dàng đi vào cuộc sống của nhân dân;
nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật ngày càng đƣợc cải thiện và có
những bƣớc tiến vững chắc hơn, hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng vi
phạm pháp luật, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự xã hội ở địa phƣơng. Các
hình thức tuyên truyền có thể thông qua phƣơng tiện thông tin đại chúng,
lồng ghép hội nghị, mở các lớp tập huấn hoặc học tập chuyên đề, phát tờ

rơi, tờ gấp, xây dựng tủ sách pháp luật tại khu dân cƣ, hội thi tìm hiểu pháp
luật…..
20


Đối với cán bộ, công chức thực thi công vụ cần nâng đạo đức công
vụ, nâng cao tinh thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đáp
ứng tốt với yêu cầu công vụ đƣợc giao, thƣờng xuyên trao đổi nghiệp vụ
với cơ quan nhà nƣớc cấp trên nếu có khó khăn vƣớng mắc thì báo cáo kịp
thời để đƣợc hƣớng dẫn giải quyết.
2. Kết luận:
Việc tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong công tác đăng ký và
quản lý hộ tịch là rất cần thiết, đảm bảo các quy định của Pháp luật về Hộ
tịch đƣợc thực thi một cách nghiêm minh. Từ việc nghiên cứu tình huống
này mà có thể rút đƣợc ra những bài học sâu sắc trong việc giải quyết các
vấn đề về hộ tịch, việc giải quyết hài hòa giữa quyền và lợi ích của ngƣời
dân đồng thời đảm bảo pháp chế của Nhà nƣớc đƣợc thực thi có hiệu quả.
Qua đây cũng chỉ rõ đƣợc thực trạng, sự phối hợp giữa các ngành có liên
quan chƣa thật đồng bộ....để làm tốt hơn trong công tác này thì các cơ quan
có liên quan cần nâng cao chất lƣợng, hiệu quả quản lý nhà nƣớc trong công
tác đăng ký và quản lý hộ tịch, cần có sự chủ động phối hợp giữa các cơ
quan liên quan nhằm xác minh làm rõ vấn đề cần giải quyết, tháo gỡ các
vƣớng mắc về công tác hộ tịch đảm bảo đúng pháp luật, tạo điều kiện giải
quyết nhanh chóng, thuận lợi các công việc, yêu cầu của công dân.

21




×