Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

skkn một số phương pháp dạy học sinh vẽ theo mẫu bậc tiểu học có hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.13 KB, 18 trang )

Đề Tài:

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP HIỆU QUẢ KHI DẠY – HỌC
PHÂN MÔN VẼ THEO MẪU BẬC TIỂU HỌC

I. PHẦN MỞ ĐẦU:
I.1. Lý do chọn đề tài.
Hòa trong xu thế phát triển của toàn thế giới Việt Nam đang tiến nhanh trên con đường
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện thành công công cụộc đó, phát triển giáo
dục là một chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt, bởi nó tác động rất lớn đến các lĩnh vực khác.
Đúng vậy! Để có được một nền giáo dục phát triển toàn diện thì việc giáo dục thẩm mĩ
cho học sinh, tạo điều kiện cho các em tiếp xúc, làm quen và thưởng thức vẻ đẹp của thiên
nhiên, của các tác phẩm mĩ thuật, biết cảm nhận cái đẹp của đường nét, mảng hình, đậm nhạt,
màu sắc, bố cục…đồng thời phát triển khả năng quan sát, nhận xét, tư duy sáng tạo, hình thành
các kỹ năng sống cho học sinh, góp phần phát hiện những học sinh có năng khiếu mĩ thuật, tạo
điều kiện cho các em phát triển tài năng của mình. Thông qua việc vẽ tranh, xem tranh để tìm
hiểu cái đẹp, cảm nhận cái đẹp mà hình thành cho học sinh thái độ, hành vi thân thiện với môi
trường, bảo vệ môi trường. Các em có thể tham gia các hoạt động bên ngoài nhà trường để thể
hiện hiểu biết, tình cảm của mình về bộ môn cũng như tìm hiểu về môi trường và Biến đổi khí
hậu thông qua các hoạt động vẽ tranh, các hoạt động xã hội khác.
Vẽ theo mẫu là một phân môn đòi hỏi học sinh tập trung nghiên quan sát mẫu là chính mà
giáo viên không chuẩn bị được mẫu thực, và không hướng dẫn kĩ ( kể cả lúc học sinh thực hành)
cho nên khi học sinh thường vẽ mẫu trong sách hoặc vẽ theo trí tưởng tượng về một vật mẫu
nào đó. Do đó để dạy tốt phân môn vẽ theo mẫu ở tiểu học, giáo viên cần hướng dẫn học sinh
theo định hướng tích cực, truyền tải cho học sinh những khái niệm mĩ thuật hết sức cụ thể, đơn
giản và dễ hiểu. Kết hợp lời giảng với ví dụ, chứng minh thực tế để học sinh thấy ngay và nhận
biết rõ ràng về đường nét, hình khối, mảng chiếu, màu sắc đơn giản từ đó mô phỏng được gần
giống với mẫu thực và có ý thức bước đầu về đậm nhạt.
Bộ môn mĩ thuật nhìn chung học sinh đều có ý thức tích cực học tập, yêu thích bộ môn,
nhưng xét về chuyên môn thì những ý thức ấy, sở thích ấy cũng chỉ dừng ở trào lưu đơn thuần
do học môn này học sinh tự do sáng tạo, không khí học tập thoải mái không gò ép nên mỗi khi


đến tiết mĩ thuật là các em rất hào hứng nhưng khi học thực hành thì các em lại không tuân thủ
làm theo các bước cơ bản đã được giáo viên hướng dẫn. Tôi nhận thấy một số tiết học vẽ theo
mẫu (có mẫu) nhưng học sinh lại vẽ hình mà giáo viên minh họa trên bảng chứ không vẽ theo
những gì nhìn thấy. Do ý thức vẽ như vậy nên kết quả bài vẽ thường không vẽ theo hướng tại vị
trí mình ngồi ( bên phải, bên trái và ở giữa…) Điều này cho ta thấy học sinh không hề chú ý tới
hình dáng của mẫu một chút nào.
Một số học sinh chưa thực sự quan tâm đến môn học cũng như bài vẽ, các em vẫn còn tư
tưởng xem nhẹ môn mĩ thuật, coi đây là môn học phụ. Bên cạnh thái độ phân biệt vị trí môn học
là khả năng tư duy của học sinh còn yếu.
Nhiều học sinh còn vẽ bài qua loa cho có bài chưa thực sự đầu tư vào bài vẽ, một số học
sinh còn vẽ bài chưa học trước ở nhà.
Trong tiết học còn nói chuyện nhiều hay qua lại mượn đồ dùng của nhau làm ảnh hưởng
đến sự suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo của các bạn khi vẽ bài.
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy điểm yếu này của học sinh chiếm tỷ lệ tương đối lớn
( khoảng 20% đến 30%).


Xuất phát từ những lý do trên và một số vấn đề thực tế còn hạn chế, vướng mắc đối với
cả giáo viên và học sinh, đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả dạy học phân môn vẽ theo mẫu
của bộ môn mĩ thuật. Vì vậy tôi mạnh dạn đưa ra biện pháp nhằm khắc phục để nâng cao chất
lượng cho phân môn vẽ theo mẫu bằng đề tài kinh nghiệm: Một số Phương pháp hiệu quả khi
Dạy – Học phân môn vẽ theo mẫu ở tiểu học.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Nghiên cứu đề tài giúp tôi tự học, tự rèn luyện để nâng cao tay nghề của mình, đồng thời
tôi cũng muốn chuyển tải một số kinh nghiệm tích lũy được qua quá trình công tác của mình
đến đồng nghiệp để cùng chung tay góp sức nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn vẽ theo
mẫu và tìm hiểu ưu điểm các phương pháp dạy học để vận dụng vào việc thiết kế bài dạy cho
các phân môn khác trong môn mĩ thuật ở trường tiểu học.
I.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu : Một số phương pháp hiệu quả khi dạy phân môn vẽ theo

mẫu bậc tiểu học.
Đối tượng học sinh trường tiểu học Ngô Quyền.
I.4. Giới hạn nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu việc dạy và học phân môn vẽ theo mẫu trong phạm vi trường tiểu học
Ngô Quyền.
I.5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp điều tra thực trạng của trường
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp so sánh kết quả thực nghiệm với trước kia
II. PHẦN NỘI DUNG:
II.1. Cơ sở lý luận.
Môn mĩ thuật ở tiểu học chúng ta đang hướng dẫn học sinh cảm thụ mĩ thuật ở mức cảm
tính thì phân môn vẽ theo mẫu lại đóng vai trò quan trọng hơn cả. Khi học sinh nắm vững kiến
thức cơ bản ban đầu của phân môn vẽ theo mẫu một cách vững vàng sẽ là điều kiện và khả năng
để phát huy các phân môn khác. Khi nói tới bộ môn mĩ thuật chúng ta hiểu rằng nó được bắt đầu
từ “cảm” sau “cảm” mới là “lý” hay nói cách khác nó bắt nguồn từ “cảm tính” dần chuyển thành
“lý tính”. Chính vì vậy, ở tiểu học mới chỉ dừng ở mức “cảm tính” mà thôi. Chúng ta dạy học
sinh nhằm đạt được mục tiêu là học sinh có kiến thức ban đầu về mĩ thuật. Để bắt đầu cảm nhận
mĩ thuật các em sẽ hình thành khái niệm mĩ thuật qua cách quan sát, nhận xét sự vật hiện tượng
trong cuộc sống, và những sự vật hiện tượng ấy được sắp xếp, tổ chức trong 45 tiết (bài) vẽ theo
mẫu ở tiểu học. Trong những bài này là những mẫu vẽ đã được chủ động nghiên cứu để nó trở
thành những mẫu đại diện điển hình cho mọi sự vật hiện tượng.
Vẽ theo mẫu ở tiểu học là phân môn tạo nên ý thức quan sát để cảm nhận cái đẹp của sự
vật hiện tượng. Đó sẽ là một trong những kiến thức ban đầu quan trọng của chương trình mĩ
thuật tiểu học và từ đây sẽ dần hình thành các kĩ năng cần thiết để giúp học sinh hoàn thành các
bài tập theo chương trình và vận dụng những kiến thức ấy vào học tập, sinh hoạt hằng ngày.
Kiến thức vẽ theo mẫu ở tiểu học cũng như các phân môn khác của bộ môn mĩ thuật được thiết
kế theo chương trình đồng tâm từ dễ đến khó như vẽ nét thẳng, nét cong ( đối với lớp 1,2) vẽ
những đồ vật thông dụng như cái xô, cái phích, cái bát, cái chén, lọ hoa… (đối với lớp 4, 5).



Vẽ theo mẫu là một phân môn mà học sinh được quan sát từ mẫu thực và nhận xét mẫu
để rồi mô phỏng lại mẫu một cách giống thực. Tức là học sinh sẽ hình thành được kiến thức cơ
bản của môn mĩ thuật qua phân môn vẽ theo mẫu. Học sinh sẽ vẽ theo một phương pháp cụ thể,
đơn giản. Đó là vẽ hình chung trước( tổng thể mẫu) sau đó mới vẽ chi tiết( các bộ phận nhỏ) và
chu trình được vận dụng trong tất cả các phân môn của môn mĩ thuật. Và đây là những kiến
thức cơ bản tạo đà để học sinh tiếp tục khám phá và làm chủ cái đẹp trong chương trình mĩ thuật
ở các cấp cao hơn, đặt biệt là biết vận dụng cái đẹp vào cuộc sống hằng ngày.
II.2. Thực trạng.
1. Thuận lợi – Khó khăn.
* Thuận lợi.
Trường tiểu học Ngô Quyền đóng trên địa bàn thôn Tân Trung xã EaKênh huyện Krông
Pắc.
Được sự quan tâm của BGH nhà trường đã trang bị đầy đủ đồ dùng dạy học và cập nhật
kịp thời các tài liệu liên quan để phục vụ cho môn mĩ thuật.
Phụ huynh quan tâm đến việc chuẩn bị đầy đủ dụng cụ học tập liên quan đến môn học
cho con em mình.
* Khó khăn.
Trường học chưa có phòng chức năng dành cho môn mĩ thuật, một số học sinh chưa quan
tâm đến môn học nên khi đến lớp không có đủ đồ dùng học tập. Điều kiện khó khăn nên việc
sưu tầm đồ dùng tranh, ảnh cũng hạn chế.
2. Thành công – hạn chế.
Khi thực hiện đề tài này tôi thấy học sinh yêu thích môn học và tự tin hơn khi vẽ bài, kết
quả các bài thực hành tăng lên rõ rệt, không những vậy nó giúp học sinh trở thành người thiết
kế, tổ chức, hướng dẫn hoạt động độc lập theo nhóm để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học tập,
chủ động đạt mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình.
* Hạn chế.
Bậc tiểu học các em ở độ tiểu từ 6 đến 11 do vậy tư duy phát triển chưa toàn diện nên
giáo viên cần sáng tạo và vận dụng nhiều phương pháp truyền thống cùng với những phương

pháp mới hiện nay nhằm đưa tới học sinh cách học đơn giản và dễ hiểu nhất, nhằm phát huy
tính tích cực của học sinh, đưa các em vào tiết học một cách nhẹ nhàng và bổ ích. Từ đó tạo cho
các em có cái nhìn và cảm nhận về cái đẹp thông qua phân môn vẽ theo mẫu.
3. Mặt mạnh – mặt yếu.
Qua nghiên cứu đề tài đã giúp cho tôi trang bị kiến thức, rèn luyện tay nghề và vận dụng
nhiều phương pháp dạy học giúp học sinh phát triển trí tưởng tượng, biết yêu cái đẹp, có ý thức
trân trọng giữ gìn, bảo vệ cái đẹp của thiên hiên, của con người tạo ra.
Học sinh có khả năng hoàn thành tốt các bài vẽ theo mẫu và các phân môn khác của môn
mĩ thuật.
* Mặt yếu.
Học sinh đi học quên mang đồ dùng liên quan đến môn học
Trong lớp ít phát biểu ý kiến xây dựng bài.
Một số em chưa hoàn thành bài vẽ ở lớp.
4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.
Vẽ theo mẫu rèn luyện cho học sinh khả năng quan sát, nhận xét và kĩ năng vẽ nét, vẽ bố
cục và vẽ hình. Vẽ theo mẫu còn giúp học sinh hiểu được vẻ đẹp của mẫu, tạo điều kiện để học


sinh học các bài trang trí, vẽ theo đề tài, vẽ tự do, thường thức mĩ thuật thuận lợi và hiệu quả
hơn.
Phân môn vẽ theo mẫu xuyên suốt chương trình mĩ thuật tiểu học được thiết kế theo quy
trình đồng tâm, các đơn vị kiến thức được lặp lại nhưng có nâng cao hơn qua mỗi bài, mỗi lớp.
Từ lớp 1 đến lớp 5 có 45 bài vẽ theo mẫu với những mẫu vẽ đơn giản như hình khối,
đường nét quen thuộc như nét cong, nét thẳng, các hình cơ bản như hình tròn, hình vuông, hình
tam giác, hình chữ nhật; khối đơn giản như khối cầu, khối hộp…vật dụng phổ biến, gần gũi như
cái xoong, cái ấm, cái chén, cặp sách, lá cây, quả cây…Khi vẽ theo mẫu học sinh sẽ nắm được
cách vẽ cân đối, vẽ từ bao quát đến chi tiết, từ những hình cơ bản tới những đồ vật cụ thể, bước
đầu so sánh kích thước, hình dáng, màu sắc của vật mẫu. Từ đó học sinh sẽ cảm nhận được
mẫu, vẽ mẫu theo sự “cảm” và so sánh để hình vẽ gần giống với mẫu hơn.
Vẽ theo mẫu là một phân môn quan trọng và cần thiết cho các phân môn khác của môn

mĩ thuật. Bởi vì, nắm vững cách vẽ của vẽ theo mẫu thì các phân môn khác sẽ dễ dàng và thuận
lợi hơn nhiều và đặt biệt sẽ hình thành cách nhìn tổng thể ( định hình được trước khi vẽ). Học
sinh vẽ theo mẫu theo một quy trình: Quan sát – So sánh – Cảm nhận – Nhận biết mẫu – Hình
thành thới quen, kĩ năng khi các em vẽ bài.
5. Thực trạng mà đề tài đặt ra.
Trước thực trạng khó khăn, điều kiện dạy học chưa đủ và đồng bộ, phương pháp giáo dục
chưa phát huy mạnh được vai trò của học sinh, để phân môn vẽ theo mẫu thực sự được học sinh
quan tâm và vẽ đúng như hướng dẫn và hoàn thành xuất sắc các bài vẽ theo mẫu trong chương
trình, tôi đưa ra một số vấn đề cần giải quyết cụ thể sau.
+ Công tác chuẩn bị cần thiết cho bài giảng.
+ Hướng dẫn học sinh quan sát, nhận xét.
+ Hướng dẫn học sinh cách vẽ.
+ Hướng dẫn học sinh thực hành.
+ Nhận xét, đánh giá bài của học sinh.
* Các vấn đề trên được giải quyết tốt thì hiệu quả sẽ đem lại một bài giảng thành công cho
phân môn vẽ theo mẫu của bộ môn mĩ thuật.
* Công tác chuẩn bị cần thiết cho bài giảng:
+ Sự chuẩn bị của giáo viên:
* Đối với việc chuẩn bị đồ dùng dạy học:
Đối với môn mĩ thuật nói chung và phân môn vẽ theo mẫu nói riêng, việc sử dụng đồ
dùng dạy học (ĐDDH) là đặt biệt cần thiết, bởi dạy mĩ thuật là dạy trên những gì cụ thể, hiện
diện một cách rõ ràng trước học sinh. Học sinh phải được quan sát một cách cụ thể về hình
dáng, đậm nhạt, màu sắc, đường nét, bố cục và tương quan vật mẫu (đối với bài vẽ hai vật mẫu).
Đó chính là kiến thức cơ bản của môn mĩ thuật.
Khi nói tới việc chuẩn bị đồ dùng trực quan ta nghĩ đến nhiệm vụ của môn mĩ thuật
ngoài việc cung cấp những tri thức bộ môn và rèn kĩ năng nó còn nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ
cho học sinh. Do đó đồ dùng giảng dạy đưa ra cho học sinh học tập ngoài yêu cầu học sinh quan
sát phải phù hợp với nội dung bài giảng còn có yêu cầu là phải đẹp để thu hút sự chú ý của học
sinh tạo nên không khí nghệ thuật của giờ học. Làm cho học sinh yêu thích vật mẫu bởi vẻ đẹp
về hình dáng, màu sắc của mẫu làm phấn chấn tinh thần học tập của các em. Hơn thế vẽ theo

mẫu thì phải có mẫu để học sinh quan sát và vẽ theo mẫu chứ không để học sinh vẽ lại hình


minh họa trong sách mĩ thuật hoặc hình vẽ minh họa của giáo viên trên bảng như vậy học sinh
sẽ không hiểu bài và chất lượng không đạt yêu cầu như mong muốn.
Trong chương trình mĩ thuật ở tiểu học có 45 bài vẽ theo mẫu giáo viên cần chuẩn bị đầy
đủ mẫu theo đơn vị bài và trực quan cho các bài đó. Từ những mẫu vẽ đơn giản như: (Khối hộp,
khối trụ, khối cầu) tới những mẫu vẽ cụ thể hơn như ( quả cây, ấm tích, chén, bát, lọ hoa, bình
đựng nước…)
Sử chuẩn bị của giáo viên còn căn cứ theo từng bài. Một mặt do tiết học thường được tổ
chức tại lớp học “ thông thường” một mặt sỹ số học sinh/lớp đông khiến các em khó quan sát
mẫu nếu bày một mẫu trên bảng. Do đó giáo viên cần chuẩn bị nhiều mẫu vẽ giống nhau trên
một yêu cầu của bài vẽ mẫu đó để cho học sinh hoạt động theo nhóm, theo tổ.
Ví dụ: Để dạy bài “Vẽ quả” (quả dạng tròn) bài 10 mĩ thuật lớp 1 trang 15 vở tập vẽ.
Nếu học sinh khoảng 30 em ngồi trong một phòng học bàn ghế kê sát nhau theo hướng nhìn lên
bảng thì việc giáo viên bày một mẫu (quả cây) để học sinh quan sát và vẽ là điều không thể, bởi
những học sinh ngồi bàn dưới và cuối lớp sẽ không thể nhìn thấy mẫu. Như vậy sẽ vô hiệu khi
giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát, nhận xét. Ở bài này quả quan sát khó (vì nhỏ) cho nên
tôi chuẩn bị (3,4) mẫu và bày theo nhóm, tổ giúp học sinh quan sát và vẽ hiệu quả hơn.
Đối với bài vẽ này tôi chuẩn bị cho bài giảng những tranh vẽ các bước dựng hình, đến
hoàn thành bài vẽ. Cách vẽ cụ thể, rõ ràng, đẹp vẽ trên khổ giấy lớn để học sinh dễ quan sát,
việc chuẩn bị trực quan tốt còn giúp cho học sinh hình thành khái niệm mẫu vẽ nhanh nhất, hiệu
quả và đơn giản nhất.
Ví dụ: Bài vẽ quả cà chua
VẼ RA GIẤY A4


+ Sự chuẩn bị đối với học sinh:
Học vẽ theo mẫu đối với học sinh tiểu học vốn vẫn là kiến thức trừu tượng nhất trong bộ
môn mĩ thuật. Trừu tượng bởi lẽ học sinh dần hình thành khái niệm về khối, về hình thể. Tuy

nhiên vẽ theo mẫu ở tiểu học không đòi hỏi học sinh diễn tả được khối rõ ràng mà chỉ yêu cầu


học sinh có khái niệm về ‘khối” mà thôi. Vì lý do này, học sinh cần chuẩn bị tốt điều kiện để
tham gia vào tiết học một cách tích cực và hiệu quả.
Việc xem bài trước là công việc của học sinh. Từ đó, học sinh sẽ tìm hiểu mẫu ở nhà( nếu
có) hoặc mẫu tương tự, sẽ tạo được thói quen chủ động của học sinh. Có những bài học sinh
chuẩn bị mẫu vẽ cá nhân để giờ thực hành làm việc một cách độc lập như: Bài vẽ lá cây ( MT
lớp 2 bài 13 trang 40 ). Việc chuẩn bị này giúp học sinh tư duy nhanh hơn, so sánh dễ dàng và
đặc biệt tiếp thu bài cũng nhanh hơn.
Việc chuẩn bị đồ dùng học tập là một yếu tố cần thiết đối với học sinh, nếu học sinh
chuẩn bị đầy đủ mọi đồ dùng như: Vở tập vẽ, bút chì, bút dạ, sáp màu, tẩy, thước kẻ…Như vậy
sự chuẩn bị tốt của giáo viên và học sinh sẽ đạt được kết quả cao cho tiết học vẽ theo mẫu.
* Hướng dẫn học sinh quan sát, nhận xét mẫu:
Dạy mĩ thuật nói chung và vẽ theo mẫu nói riêng, phải thực hiện theo hướng để học sinh
làm bài thực hành là chính ( thời gian khoảng 20/ 35 phút của tiết học). Thời gian hướng dẫn
học sinh quan sát khoảng 5 – 7 phút, phần này tuy ít thời gian nhưng lại là một việc hết sức
quan trọng trong quá trình hình thành kiến thức mĩ thuật, kiến thức vẽ theo mẫu đối với học
sinh.
+ Thực tế:
Lâu nay dạy vẽ theo mẫu thường qua loa nhất trong năm phân môn của môn mĩ thuật. Bởi
một lẽ đồ dùng dạy học thiếu rất nhiều, mẫu vẽ thường không có trong suốt chương trình tiểu
học, việc giáo viên chuẩn bị mẫu cho học sinh cũng gặp nhiều khó khăn.
Mặt khác lớp học quá đông từ 25 – 30 em/ lớp, bàn kê thẳng xếp cố định theo hướng nhìn
lên bảng. Với điều kiện như thế thì việc học sinh quan sát mẫu là một điều tương đối phức tạp
và hiệu quả của tiết học là một vấn đề cần bàn tới. Từ những thực tế ấy tôi mạnh dạng đưa ra
những phương pháp cụ thể, nhằm khắc phục và nâng cao hiệu quả dạy – học phân môn vẽ theo
mẫu ở tiểu học.
+ Phương pháp:
Trong 45 bài vẽ theo mẫu ở tiểu học được chia điều cho 5 khối lớp là những bài vẽ từ đơn

giản và nâng cao dần theo cấu trúc chương trình đồng tâm. Vì vậy ở các lớp (1, 2, 3) là những
mẫu vẽ đơn giản như: hình tam giác, hình tròn, hình vuông, cái túi xách, cái cốc…Còn ở lớp (4,
5) nhìn chung mẫu vẽ là đồ dùng trong gia đình như: cái bát, ấm tích, lọ hoa… Cho nên, việc
hướng dẫn cho học sinh là rất cụ thể, rất gần gũi, giáo viên sử dụng phương pháp phù hợp sẽ đạt
hiệu quả cao.
Giáo viên bày mẫu: Lớp học đông nên giáo viên bày mẫu vẽ vào giữa lớp và kê bàn ghế
theo hình chữ U để học sinh nào cũng có cự ly gần với mẫu, và đảm bảo các em được quan sát
mẫu 100%. Đối với những mẫu nhỏ như cái cốc, lá cây, quả… giáo viên cần chuẩn bị nhiều
mẫu giống nhau để cho học sinh quan sát theo nhóm, như vậy sẽ khắc phục được tình trạng học
sinh không quan sát mẫu, làm việc riêng hay đùa nghịch.
Khi đặt câu hỏi quan sát giáo viên nên nêu những cao hỏi đơn giản dễ hiểu như: Em hãy
so sánh chiều cao của mẫu với chiều ngang của mẫu như thế nào? Khi giáo viên đặt câu hỏi như
vậy học sinh sẽ tập trung vào so sánh, nhận xét mẫu và đưa ra kết quả. Căn cứ vào thực tế cùng
phương pháp dạy đổi mới tôi đưa ra một số ví dụ áp dụng nội dung cho vấn đề hướng dẫn quan
sát nhận xét.
+ Một số ví dụ:
+ Bài 24: Vẽ cái ấm tích và cái bát: MT 5 trang 50.


Đối với bài này mục tiêu đặt ra là học sinh tập quan sát, so sánh, ước lượng tỷ lệ mẫu
ghép (hai vật mẫu) để tìm ra vị trí, khích thước các bộ phận của mẫu. Riêng về kĩ năng yêu cầu
học sinh vẽ được gần giống mẫu ( Diễn tả được đặt điểm, tỷ lệ chính của mẫu, vẽ đậm nhạt theo
từng góc độ quan sát)
Ở bài này tôi cho học sinh ngồi vẽ theo hình chữ U, mẫu vẽ bày giữa phòng học, học sinh
vẽ theo ba hướng bên trái, bên phải và ở giữa lớp, mẫu vẽ đặt vừa tầm nhìn của học sinh, mẫu
vẽ phải đảm bảo có mĩ quan.
Phần quan sát chung: Giáo viên chuẩn bị hai miếng bìa, một miếng được đục lỗ hình
chữ nhật bao quanh cả hai mẫu và một miếng bìa đục thủng hình chữ nhật bao quanh vừa cái
bát. Mục đích của sự chuẩn bị này là khi đặt câu hỏi đối với học sinh về khung hình chung và
khung hình riêng của từng vật mẫu trông giống hình gì? Hình riêng của cái bát nhỏ bằng một

phần mấy của hình chung? Việc đục lỗ miếng bìa làm đơn giản ở chỗ học sinh nhìn thấy một lổ
thủng mà trong nó (phía sau) chứa trọn vẹn mẫu vẽ, như vậy học sinh sẽ hiểu được khung hình
chung và hình riêng là như thế nào.
Để học sinh nhận biết được đậm nhạt, tôi chọn một hướng ánh sáng chiếu vào mẫu, lúc
đó học sinh quan sát mẫu sẽ nhận dạn được tối thiểu 3 sắc độ đậm, đậm vừa, nhạt. Tương tự
như vậy tôi nêu câu hỏi cho học sinh, em nhìn lên mẫu thấy phần bên nào là đậm nhất? Còn
phần giữa em thấy độ đậm nhạt như thế nào? ( ở giữa là độ sáng trung gian).
Qua hai ví dụ cụ thể trên chúng ta thấy để bắt đầu học vẽ nói chung và vẽ theo mẫu nói
riêng thì việc quan trọng đó là phải quan sát, nhận xét. Khi quan sát nhận xét đầy đủ mẫu việc
tiến hành vẽ của học sinh sẽ dễ dàng và ít mắc phải lỗi sai lớn về tỷ lệ, hình dáng. Có thể nói
phần hướng dẫn quan sát nhận xét là điều kiện bất biến để hướng dẫn tiếp học sinh cách vẽ.
* Hướng dẫn học sinh cách vẽ:


+ Hướng dẫn về bố cục ( cách sắp xếp): Ở phần hướng dẫn này tôi treo trực quan bao gồm 4
hình vẽ trong đó có: một hình vẽ rất nhỏ ở giữa trang giấy, một hình có hình vẽ sang mép của
trang giấy, một hình vẽ thật lớn kín cả chiều cao giấy và cuối cùng một bài vẽ cân đối đẹp mắt.
Sau đó cho học sinh tự chọn và nhận xét bài đẹp nhất ( các bài được đánh số từ 1 – 4 theo thứ tự
như trên ). Khi học sinh được quan sát, nhận xét thì việc tìm ra hình vẽ thứ 4 đẹp điều rất dễ
dàng. Qua đó giáo viên nêu câu hỏi ngược lại, tại sao hình vẽ
1, 2, 3 lại là hình chưa đẹp? và những lý do ấy được học sinh nêu ra một cách rõ ràng, giáo viên
bổ sung nhằm phát huy tính tích cực, chủ động ở học sinh khi vẽ bài.
+ Hướng dẫn học sinh vẽ hình chung của mẫu:
Khung hình chung có nghĩa là hình của mẫu vẽ được chứa trọn vẹn bên trong khung hình
ấy, khi xác định bố cục của bài vẽ chiếm bao nhiêu giấy tức là khung hình chung sẽ chiếm từng
ấy, khi vẽ khung hình chung học sinh chủ động được tỷ lệ với trang giấy.
+ Tìm và xác định các vị trí của các bộ phận chi tiết trên mẫu vẽ:
Khi hoàn thành được khung hình chung của mẫu rồi giáo viên hướng dẫn học sinh xác
định một số bộ phận chi tiết như khi vẽ các khối cơ bản cần xác định các mặt, đối với các vật
dụng thì cần xác định các bộ phận chi tiết trên vật dụng đó. Trước hết giáo viên hướng dẫn học

sinh vẽ trục đối xứng cho bài vẽ có mẫu cân đối, đối xứng, có chiều đứng như một số mẫu: cái
cốc, khối hộp, cái phích, cái bát…khi học sinh xác định được trục đối xứng thì việc vẽ mẫu sẽ
không bị đổ ngả đổ nghiêng.
+ Hướng dẫn học sinh vẽ phác bằng nét thẳng:
Phần này việc quan trọng làm thế nào để học sinh hiểu là vẽ nét thẳng thì hình vẽ chuẩn
và đẹp hơn là chúng ta vẽ nét cong ngay. Lúc này giáo viên sử dụng phương pháp trực quan
bằng thị phạm trên bảng để học sinh nhận thấy việc vẽ nét thẳng để tạo thành hình dáng của
mẫu sau đó chúng ta tẩy bỏ nét thẳng và chỉnh sửa hình sao cho gần giống mẫu thật theo hướng
quan sát của từng em theo từng góc độ.
+ Hướng dẫn vẽ chi tiết ( mô phỏng giống mẫu):
Vẽ chi tiết tức là học sinh sẽ vẽ những gì các em quan sát, so sánh, nhận xét và nhìn thấy
trên mẫu. Đích cuối cùng của bài vẽ theo mẫu đối với học sinh tiểu học là mô phỏng được mẫu.
Sau các bước trên giáo viên hướng dẫn học sinh cần bám sát vào các nét thẳng để hoàn thiện,
phần này giáo viên không nên giảng giải áp đặt, trên cơ sở mẫu giáo viên đặt câu hỏi tập trung
vào các bộ phận chi tiết của mẫu.
+ Hướng dẫn học sinh cách vẽ đậm nhạt:
Đậm nhạt là một khái niệm tương đối trừu tượng đối với học sinh học mĩ thuật ( phần này
áp dụng cho học sinh khối 4, 5). Cụ thể ở phần này giáo viên giảng giải cho học sinh biết đậm
nhạt trên mẫu do đâu mà có( do ánh sáng chiếu vào mẫu), có chổ ánh sáng chiếu được vào, có
chỗ không chiếu vào được và tạo ra ranh giới sáng ( có ánh sáng chiếu trực tiếp), tối ( không có
ánh sáng chiếu trực tiếp), trung gian ( có ánh sáng ít, chiếu gián tiếp), vẽ đậm nhạt cần cho vẽ
theo mẫu sẽ diễn tả được không gian của mẫu, biểu đạt được khối của vật mẫu như vậy khi vẽ
đậm nhạt bài vẽ sẽ nổi khối tức là trông giống như mẫu thật, nhìn bài vẽ hấp dẫn hơn, đẹp hơn.
Qua đó học sinh sẽ thích thú và hào hứng hơn với những bài vẽ mẫu lần sau.
* Hướng dẫn học sinh thực hành:
Như đã biết, phần thực hành chúng ta phải dành 2/3 tiết học để các em thể hiện bài, hơn
nữa đây lại là bài vẽ theo mẫu thì việc đó rất quan trọng. Việc hướng dẫn học sinh thực hành


cần chú ý những nội dung: Để học sinh quan sát và vẽ độc lập, giáo viên tham gia góp ý cho cá

nhân học sinh.
Đối với phân môn vẽ theo mẫu, việc vẽ theo mẫu là rất quan trọng cho nên giáo viên cần
hướng dẫn học sinh ngay khi thấy các em làm bài thực hành có chiều hướng chưa đúng.
Học sinh làm bài độc lập: Tới giờ thực hành học sinh phải đảm bảo có đầy đủ đồ dùng
học tập (100% ), bút chì, tẩy, vở tập vẽ, học sinh vẽ theo mẫu ở vị trí mình ngồi nhìn thấy, tập
trung vẽ sát với mẫu, đảm bảo đúng tỷ lệ của mẫu.
Giáo viên hướng dẫn cá nhân: Việc hướng dẫn cá nhân rất quan trọng trong thời gian thực
hành của học sinh. Vì trong khi vẽ không tránh khỏi những sai sót, cũng như gặp phải một số
vướng mắc, chính vì vậy việc hướng dẫn cá nhân rất cần thiết.
Khi hướng dẫn cá nhân học sinh giáo viên tuyệt đối không được cầm bút sữa bài cho học
sinh mà chỉ hướng dẫn. Trong quá trình hướng dẫn thấy có nhiều học sinh mắc phải một lỗi giáo
viên yêu cầu học sinh dừng bút để hướng dẫn, uốn nắn kịp thời.
Đối với bài vẽ lọ hoa và quả tôi hướng dẫn học sinh vẽ theo các bước sau: vẽ tay


* Nhận xét đánh giá sản phẩm của học sinh:
Nhằm phát huy tính tích cực của học sinh khi học môn mĩ thuật nói chung và phân môn
vẽ theo mẫu nói riêng, thì việc nhận xét đánh giá là điều rất quan trọng, nhận xét bài của học
sinh cần phát huy được tinh thần khích lệ các em hăng hái học phân môn là chính, và phải tôn
trọng ý kiến của học sinh nếu là tích cực, nếu bài vẽ chưa đạt yêu cầu giáo viên cần nhẹ nhàng
nhắc nhở không nên chê các em trước lớp điều này làm cho các em tự ti lần sau sẽ không tích
cực, không hứng thú với phân môn vẽ theo mẫu vì nghĩ mình vẽ không được đẹp như các bạn.
Qua thời gian thực hành giáo viên chọn một số bài vẽ đẹp và chưa đẹp dán lên bảng lớp.
Mục đích để học sinh tư duy khách quan theo cảm nhận của mình. Ở phần này giáo viên nêu


câu hỏi: Em hãy chọn các bài vẽ đúng, đẹp? Tại sao những bài còn lại không đẹp?, Những bài
vẽ chưa đẹp em thấy hình vẽ của các bạn như thế nào?, Đối với lớp (4, 5), Em thấy bạn vẽ đậm
nhạt như vậy đã đúng, đẹp chưa? Trông khối hình đã rõ hay chưa?...Qua một loạt ý kiến của học
sinh giáo viên tập hợp được ưu điểm và khuyết điểm của từng bài và đưa ra nhận xét chung để

học sinh phát huy những ưu điểm và khắc phục điểm yếu cho những bài vẽ theo mẫu lần sau.
II.3. Giải pháp, biện pháp.
* Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
Cung cấp cho học sinh những kiến thức ban đầu về mĩ thuật và hình thành các kĩ năng
cần thiết để học sinh hoàn thành được các bài tập theo chương trình.
Giáo dục thị hiếu thẩm mĩ lành mạnh cho học sinh, giúp các em cảm nhận và vận dụng
những kiến thức về mĩ thuật vào học tập, sinh hoạt hằng ngày góp phần xây dựng môi trường
thẩm mĩ cho xã hội.
* Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
Học mĩ thuật không nhằm đào tạo các em trở thành họa sĩ hay những người chuyên gia
làm nghề mĩ thuật mà học để các em biết yêu cái đẹp, có ý thức trân trọng giữ gìn, bảo vệ cái
đẹp của thiên nhiên, của con người tạo ra.
Lượng kiến thức đưa vào từng bài học chỉ dừng lại ở mức sơ đẳng và được chọn lọc theo
mức điển hình. Những lượng kiến thức này được lập lại nâng cao và phát triển dần ở các lớp
sau.
Mỗi phân môn đều có đặc điểm riêng nhưng tất cả đều nằm trong tổng thể chung là sử
dụng ngôn ngữ mĩ thuật cho các hoạt động thực hành và hoạt động này chiếm thời gian khoảng
20/35 phút của tiết học, những sản phẩm các em tạo ra luôn hướng đến mục tiêu chung là tạo ra
cái đẹp xung quanh mình ứng dụng cái đẹp vào cuộc sống, sinh hoạt hằng ngày.
Nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong phân môn vẽ theo mẫu, cũng như hiệu
quả của tiết học đạt kết quả cao giáo viên cần sử dụng linh hoạt các phương pháp như:
Phương pháp quan sát: Nhằm tạo cho các em thói quen quan sát làm giàu vốn biểu tượng
kinh nghiệm sống của các em đó là tiền đề của vẽ theo mẫu, từ những yêu cầu đó thường xuyên
giúp các em có thói quen quan sát hình thành trong trí nhớ giúp học sinh nhìn thấy cái hiện thực
trong tự nhiên, trong mẫu vẽ.
Phương pháp trực quan, giúp học sinh quan sát mẫu thực, nhận biết được độ đậm nhạt
của mẫu, nhận biết mẫu có hình khối gì? mẫu có mấy vật mẫu? Từ những yêu cầu đó thường
xuyên giúp các em có thói quen quan sát hình thành trong trí nhớ vốn kiến thức giúp học sinh
nhìn thấy cái hiện thực trong tự nhiên, trong xã hội để thể hiện chung trong bài vẽ của mình một
cách độc đáo, sáng tạo và riêng biệt.

Phương pháp so sánh, gợi mở, vấn đáp và luyện tập… Giáo viên cần kết hợp linh hoạt
giữa các phương pháp này với nhau, tạo thành một phương pháp tổng hợp, phù hợp với tất cả
các đối tượng, phù hợp với bài giảng, gắng liền với thực tiễn.
Cách so sánh mẫu, cách vẽ thông qua quan sát mẫu thực, có thể học sinh không hiểu thế
nào là “bố cục”, không hiểu thế nào là dựng “hình chung”, ước lượng “tỷ lệ”…Giáo viên có thể
giải thích một cách đơn giản, dễ hiểu nhất như: Bố cục là cách sắp xếp hình vẽ vào trang giấy,
bố cục đẹp là sự sắp xếp hình vẽ cân đối, bố cục chưa đẹp là sắp xếp hình vẽ bị lệch sang trái,
phải…Tỷ lệ ta có thể hiểu đơn giản là chiều cao so với chiều ngang, xem các chiều này hơn
kém nhau bao nhiêu lần, từ đó giữ được tỷ lệ chuẩn của mẫu khi vẽ sẽ không bị sai lệch.


Phương pháp liên hệ thực tiễn: Thông qua mỗi bài học giáo viên không những trang bị
cho các em kiến thức mà hình thành cho các em kĩ năng sống biết giao tiếp học hỏi lẫn nhau,
biết giúp đỡ người khó khăn, biết gìn giữ và bảo vệ đồ dùng trong gia đình và bảo vệ của
công…
Phương pháp giảng dạy của giáo viên cần phát huy được tính tích cực, sự độc lập suy
nghĩ, tìm tòi, sáng tạo của học sinh và đây cũng là tư tưởng chủ đạo của phương pháp dạy học
mĩ thuật nói chung và dạy vẽ theo mẫu nói riêng. Hơn nữa học sinh phải là người chủ động tiếp
nhận kiến thức từ giáo viên. Vì thế khi giảng dạy giáo viên không chỉ quan tâm tới phương pháp
của giáo viên mà còn phải chú ý tới phương pháp của học sinh. Do đó, khi Dạy – Học vẽ theo
mẫu ở tiểu học tôi thường chú tâm vào những đặc điểm sau:
+ Tạo được không khí học tập để học sinh háo hức chờ đón bài học
+ Tạo điều kiện cho học sinh suy nghĩ, tìm tòi những vấn đề mà giáo viên giảng giải.
+ Tổ chức tiết học sao cho học sinh tham gia vào quá trình nhận thức một cách tự giác.
+ Động viên, khích lệ nhằm giúp học sinh làm bài bằng khả năng và cảm xúc riêng.
* Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp.
Bậc tiểu học các em ở độ tuổi từ 6 đến 11 tuổi do vậy tư duy phát triển chưa hoàn thiện
nên khi dạy học phân môn vẽ theo mẫu tôi luôn chú trọng đến đặc điểm tâm sinh lý của trẻ và
tìm nhiều phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh. Mặc khác ở tuổi này các em
học mà chơi, chơi mà học do vậy mỗi tiết học vẽ tôi thường tổ chức các trò chơi liên quan đến

từng bài học để tạo cho các em sự thích thú và say mê vẽ tranh.
Ví dụ: Bài vẽ cái ấm tích và cái bát. Giáo viên quy định cái ấm tích là “thò”, cái bát là
“thụt”. Trò chơi này áp dụng cho cả lớp cùng chơi.
* Luật chơi: Khi giáo viên hô “tích thò” nếu thấy đúng với quy định thì giơ tay lên theo (GV),
tiếp tục như vậy GV hô “bát thò” nếu HS thấy sai thì thụt tay xuống. Tương tự như vậy GV hô
vừa đúng quy định vừa không đúng đối với cả hai mẫu.
Trên đây là một trong số các trò chơi tôi thường áp dụng cho các tiết học vẽ theo mẫu
nhằm khắc sâu kiến thức hơn khi các em học vẽ theo mẫu, tạo được không khí vui tươi hồn
nhiên, nhẹ nhàng và sinh động trong tiết học, để cho học sinh nhận thấy tiết học vẽ mẫu không
khô cứng, và góp phần vào tiết dạy thành công hơn thông qua các trò chơi cho phân môn vẽ
theo mẫu.
* Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Qua nghiên cứu đề tài đã giúp tôi trang bị về kiến thức, rèn luyện tay nghề và tìm được
nhiều phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng dạy – học vẽ theo mẫu giúp học sinh phát
triển về trí, thể, mĩ từ đó các em biết sáng tạo, tìm tòi, hiểu biết về cái đẹp và có khả năng vận
cái đẹp vào cuộc sống.
II.3. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Qua thời gian giảng dạy và áp dụng phương pháp bản thân nhận thấy kết quả đạt được
một cách rất tích cực với tỷ lệ học sinh hoàn thành bài vẽ theo mẫu với những yêu cầu cụ thể và
thuyết phục. Đã áp dụng thành công cho các khối lớp. Dưới đây là một số thống kê so sánh qua
việc chưa áp dụng và đã áp dụng.
** Thời gian đầu chưa áp dụng được:
stt

khối

số HS

HS vẽ hình


HS vẽ hình

HS vẽ được

Ghi chú


1

1B

29

cân dối
SL
%
11
36.7

2

2B

33

15

50.0

10


33.3

3

3C

28

16

53.3

14

46.7

4

4A

32

14

56.0

12

48.0


8

32.0

5

5B

28

16

53.3

16

53.3

12

40

lớp

đúng tỷ lệ
SL
%
10
33.3


đậm, nhạt
SL
%
Không vẽ
đậm, nhạt
Vẽ đậm, vẽ
nhạt
Vẽ đậm, vẽ
nhạt

** Thời gian đã áp dụng phương pháp mới.(Từ học kỳ II năm học 2012 - 2013 đến học kỳ I
năm học 2014 - 2015).

stt

Khối
lớp

số HS

HS vẽ hình
cân dối

HS vẽ hình
đúng tỷ lệ

%
56.7


SL
15

%
50.0

HS vẽ
được
đậm, nhạt
SL
%

1

1B

29

SL
17

2

2B

33

20

66.7


17

56.7

3

3C

28

21

70.0

18

60.0

4

4A

32

22

88.0

20


80.0

17

5

5B

28

26

86.7

22

73.3

19

Ghi chú

Không vẽ
đậm, nhạt
68.
0
63.
3


Vẽ đậm, vẽ
nhạt
Vẽ đậm, vẽ
nhạt

Qua những kết quả đạt được và áp dụng thành công với học sinh các khối lớp, đây cũng
là nguồn động viên khích lệ bản thân hoàn thành tốt nhiệm vụ và luôn tìm ra những biện pháp,
cũng như áp dụng nhiều phương pháp một cách nhuần nhuyễn để phục vụ cho việc Dạy - Học
mĩ thuật nói chung và phân môn vẽ theo mẫu nói riêng ngày một tốt hơn.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
Qua thực tiễn giảng dạy và nhiều năm đứng lớp, với tâm huyết và trách nhiệm của người
giáo viên đối với thế hệ tương lai của đất nước bản thân tôi luôn tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm
của những người đi trước cũng như qua nhiều phương tiện khác nhau để nâng cao trình độ
chuyên môn. Từ đó hoàn thành tốt nhiệm vụ của người giáo viên đồng thời tạo cho học sinh yêu
thích phân môn vẽ theo mẫu hơn, luôn sáng tạo để tiết học luôn được đổi mới về hình thức dạy,
học nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh, tạo cho các em có cái nhìn và cảm nhận
về cái đẹp của cuộc sống và trong sinh hoạt hằng ngày.
Trong quá trình dạy học phân môn vẽ theo mẫu nói riêng và môn mĩ thuật nói chung tôi
rút ra một số kinh nghiệm trong giảng dạy như sau:
1/ Đối với nhà trường:


Cần đầu tư về cơ sở vật chất như phòng học mĩ thuật riêng.
Các đồ dùng dạy học cần thiết cho bộ môn mĩ thuật như: các vật mẫu tượng các hình
khối, giá vẽ, bản vẽ, tranh ảnh…
2/ Đối với giáo viên:
Bám sát mục tiêu bài dạy, dạy đúng đặc trưng bộ môn.
Nắm vững kiến thức bộ môn.( Bám chuẩn kiến thức kĩ năng)
Thực hiện đúng công văn chỉ đạo nội dung điều chỉnh dạy và học
Tham gia đầy đủ các lớp tập huấn chuyên đề, tham gia dự giờ môn Mĩ thuật tại các đơn vị

bạn để rút kinh nghiệm trong giảng dạy.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học bộ môn Mĩ thuật
Chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng dạy học ( Mẫu vẽ, tranh ảnh minh hạo, hình gợi ý cách vẽ)

Giáo viên hướng dẫn cách vẽ mẫu trên bảng lớp.
Quan tâm nhiều các đối tượng học sinh chưa tích cực tham gia hoạt động.
Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học (phù hợp với đối tượng học sinh tiểu học)
Đánh giá xếp loại học sinh đúng với thông tư 32/BGD&ĐT
Tổ chức lớp học theo nhiều hình thức để học sinh được quan sát mẫu rõ ràng và vẽ tốt
hơn.
Tổ chức trò chơi phù hợp với từng bài vẽ theo mẫu.
Thông qua các bài học của môn Mĩ thuật nói chung và phân môn vẽ theo mẫu nói riêng
giáo dục học sinh biết quý trọng và bảo vệ những đồ dùng có trong gia đình, trường học…
những tài sản chung nơi công cộng.
Giáo dục học sinh tình yêu quê hương, đất nước biết trồng nhiều cây xanh để bảo vệ môi
trường xanh – sạch – đẹp. Cây xanh không những có vai trò hấp thụ khí cacbon điô xít mà còn
cung cấp ôxy cho môi trường, hấp thụ bụi làm môi trường xanh - sạch - đẹp hơn và giảm tác
động của BĐKH (Biến đổi khí hậu) tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường như: Vệ
sinh trường, lớp học, thu gom phân loại, xử lý rác thải, tiết kiệm giấy, điện, nước, trồng nhiều
cây xanh và chăm sóc cây, tham gia các phong trào kế hoạch nhỏ phong trào quyên góp ủng hộ
các bạn vùng bị thiên tai, bão, lũ…như vậy chúng ta đã góp phần vào ứng phó với Biến đổi khí
hậu.


Hãy yêu thiên nhiên và luôn thực hiện một lối sống thân thiện với môi trường và là tấm
gương sáng để lôi cuốn mọi người xung quanh cùng thay đổi. Làm cho môi trường của chúng ta
luôn xanh – sạch – đẹp với môi trường trong lành.
3. Đối với học sinh:
Chuẩn bị chu đáo ở nhà việc xem bài, quan sát mẫu ở nhà, chuẩn bị mẫu mang đến lớp
(đối với những bài vẽ mẫu cá nhân)

Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập (Vở tập vẽ, giấy A4, bút chì, tẩy, bút dạ, sáp màu…)
4. Đối với phụ huynh:
Phối hợp với phụ huynh học sinh quan tâm, giúp đỡ các em việc học tập ở nhà cũng như
việc chuẩn bị bài, đồ dùng học tập khi đến lớp. Không để tình trạng các em đến lớp không mang
đầy đủ đồ dùng học tập...
Vâng! Tôi, các bạn, chúng ta là những nhà giáo luôn mang trong mình trọng trách lớn lao
của sự nghiệp trồng người. Chúng ta thường xuyên học tập, rèn luyện, tu dưỡng để xứng đáng là
những nhà giáo hội tụ cả nét đẹp tâm hồn và trí tuệ để góp phần xây dựng nền giáo dục huyện
nhà ngày càng phát triển hơn.
Trên đây tôi đã mạnh dạn đưa ra Một số Phương pháp dạy học sinh vẽ theo mẫu hiệu quả bậc
tiểu họccó hiệu quả. Bằng những kinh nghiệm thực tế giảng dạy của bản thân, rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của BGH và các đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện và áp dụng
trong dạy học mĩ thuật nói chung và loại bài vẽ theo mẫu nói riêng ngày một hiệu quả hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Eana, Ngày 25 tháng 11 năm 2014
Người viết
Lê Thị Lý


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN

Huỳnh thị Biên


MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
I.1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………………1
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài………………………………………………………2
I.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………………….2
I.4. Giới hạn nghiên cứu…………………………………………………………………2
I.5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………….2
II. PHẦN NỘI DUNG:…………………………………………………………………2
II.1. Cơ sở lý luận………………………………………………………………………..2
II.2. Thực trạng…………………………………………………………………………3
1. Thành công – hạn chế…………………………………………………………………3
2. Mặt mạnh – mặt yếu…………………………………………………………………..3
3.Thuận lợi – Khó khăn…………………………………………………………………..3
4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động…………………………………………………3
5. Thực trạng mà vấn đề đặt ra……………………………………………………………4
* Công tác chuẩn bị cần thiết cho bài giảng………………………………………………4
* Hướng dẫn học sinh quan sát, nhận xét mẫu……………………………………………7
* Hướng dẫn học sinh cách vẽ…………………………………………………………….9
* Hướng dẫn học sinh thực hành…………………………………………………………10
* Nhận xét đánh giá sản phẩm của học sinh……………………………………………..12

II.3. Giải pháp, biện pháp………………………………………………………………12
* Mục tiêu của giải pháp, biện pháp………………………………………………………12
* Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp…………………………………12
* Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp…………………………………………….....13
* Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu…………………………13
II.3. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu….14
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ…………………………………………………..15
1/ Đối với nhà trường……………………………………………………………………..15
2/ Đối với giáo viên ……………………………………………………………………….15
3/ Đối với học sinh.………………………………………………………………………..16
4/ Đối với phụ huynh:……………………………………………………………………..16



×