Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ-XÃ HỘI TÁC ĐỘNG ĐẾN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.78 KB, 11 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Bên cạnh chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống tư tưởng
chính trong nước. Theo đó, hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn
Việt Nam.
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam cùng các quan điểm chính
thống ở Việt Nam hiện nay đều thống nhất đánh giá tư tưởng Hồ Chí Minh chính là
cách vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam và
trong thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của
Đảng Cộng Sản Việt Nam và của dân tộc Việt Nam.
Vấn đề đặt ra là, tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành dựa trên những điều kiện
nào?
Trong chủ đề lần này, em đã chọn vấn đề: “ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ-XÃ HỘI
HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH” để tìm hiểu, đi sâu và làm rõ hơn
một vấn đề tiên quyết về những tư tưởng của Người.

Hồ Chí Minh (1890-1969)

1


MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU................................................................................1
I. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ-XÃ HỘI TÁC ĐỘNG
ĐẾN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH......................3
1. Xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX....................3
2. Quê hương và gia đình....................................................................5
3. Thời đại.............................................................................................7


II. KẾT LUẬN......................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................11

2


Ta biết rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là sản phẩm chủ quan, phản
ánh tâm lý nguyện vọng của nhân dân Việt Nam với lãnh tụ kính yêu của mình. Nói
chính xác, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cánh mạng Việt Nam, ra
đời do yêu cầu khách quan và là sự giải đáp những nhu cầu bức thiết do cách mạng
Việt Nam đặt ra.
Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dưới những tác động,
ảnh hưởng của tổng hợp những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể của dân tộc, thời
đại ma chính Người đã sống và hoạt động. Những điều kiện đó chính là bối cảnh xã
hội Việt Nam, là quê hương và gia đình, là yếu tố thời đại để giúp Người tìm ra con
đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc mình.
I. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ-XÃ HỘI TÁC ĐỘNG ĐẾN HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX
Suốt thế kỉ XIX, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội phong kiến lạc hậu và
bảo thủ, triều đình vẫn thi hành những chính sách áp bức, bóc lột bên trong và
chính sách “bế quan toả cảng” với bên ngoài, điều đó làm nhân dân không có điều
kiện tiếp xúc với thế giới văn minh. Nền kinh tế vẫn duy trì nền nông nghiệp lạc
hậu và trì trệ, không mở trường đào tạo khoa học-kĩ thuật và cự tuyệt mọi đề án cải
cách, đổi mới. Điều đó đã làm cho Việt Nam không bắt kịp với sự phát triển thế
giới. Vì vậy, đã không phát huy được những thế mạnh của đất nước (về vị trí địa lý,
tài nguyên, con người,...), không tạo được tiềm lực vật chất và tinh thần đủ sức bảo
vệ Tổ quốc, chống lại âm mưu xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước
ta, triều đình nhà Nguyễn đã từng bước dâng nước ta cho Pháp, cho đến hiệp ước

Patonot (năm 1884) được kí kết đã đưa xã hội Việt Nam bước sang giai đoạn mới
và trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Triều đình nhà Nguyễn nhượng bộ

3


thực dân Pháp cũng chỉ để bảo vệ ngai vàng và lợi ích của chúng. Nhưng phong
trào vũ trang kháng chiến chống Pháp vẫn diễn ra mạnh mẽ và lan rộng khắp cả
nước: ở Nam Bộ có Trương Định, Nguyễn Trung Trực,...; đến Trung Bộ có Trần
Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng,...; và ra đến ngoài Bắc
có Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích,... Nhưng những phong trào đó đều đi
đến thất bại vì đều mang nặng tư tưởng phong kiến. Điều đó cho thấy sự bất lực
của hệ tư tưởng phong kiến trước nhiệm vụ lịch sử.
Như vậy, Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước mất nhà tan.
Đây là tiền đề đầu tiên hình thành cho Người lòng yêu nước, thương dân tộc sâu
sắc.
Đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa và xã hội Việt
Nam bắt đầu có những biến chuyển và sự phân hoá. Giai cấp công nhân và giai cấp
tư sản ra đời. Cùng lúc đó, “tân thư”, “tân văn” và cuộc vận động cải cách của
Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu từ Trung Quốc đã ảnh hưởng trực tiếp tới Việt
Nam. Dưới tác động của nhân tố mới, các phong trào yêu nước Việt Nam chuyển
dần sang xu hướng dân chủ tư sản, điển hình như: phong trào Đông Du, Việt Nam
Quang Phục Hội của Phan Bội Châu; phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục của
Lương Văn Can và Nguyễn Quyền; Duy Tân của Phan Châu Chinh...
Tuy những phong trào ấy đã ghi thêm vào trang sử vẻ vang của dân tộc
nhưng đều lần lượt bị dập tắt, một phần vì chưa lôi cuốn được đông đảo nhân dân
tham gia nhưng chủ yếu vì vẫn còn gắn với hệ tư tưởng tư sản. Hệ tư tưởng tư sản
lúc này đã trở nên lỗi thời và lạc hậu ở phương Tây, hơn nữa lại được các sĩ phu
phong kiến truyền bá nên ít nhiều cũng còn những hạn chế và không tránh khỏi thất
bại.

Tình hình cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ đen tối không đường ra, xã hội
Việt Nam khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo.

4


Nguyễn Tất Thành lớn lên cùng với thời kì cách mạng nước nhà lâm vào
cảnh khó khăn nhất. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục đóng cửa (2/1907), cuộc biểu
tình chống thuế ở Huế và Miền Trung bị đàn áp đẫm máu (4/1908), vụ Hà Thành
đầu độc bị thất bại (6/1908), Yên Thế bị tan rã (1/1909), phong trào Đông Du tan rã
làm Phan Bội Châu và các đồng chí của ông bị trục xuất khỏi Nhật (2/1909), các
lãnh tụ Duy Tân bị bắt, bị giết...
Trong bối cảnh như vậy, Nguyễn Tất Thành sớm tìm ra nguyên nhân thất bại
của các phong trào giải phóng dân tộc đó là các phong trào giải phóng dân tộc đều
không có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn. Người hiểu rằng cách
mạng Việt Nam muốn giành thắng lợi phải đi theo con đường mới và Ngưới sớm
hình thành ý định ra đi tìm đường cứu nước - con đường đưa Người đến với tư
tưởng “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
2. Quê hương và gia đình
- Quê hương:
Nghệ Tĩnh - quê hương của Hồ Chí Minh là mảnh đất giàu truyền thống, lao
động, yêu nước, chống giặc ngoại xâm... Nơi đây, mảnh đất này đã sản sinh biết
bao anh hùng nổi tiếng trong lịch sử như: Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng
Dung, các lãnh tụ yêu nước thời cận đại như: Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu,...
những liệt sĩ chống Pháp ngay trên mảnh đất Kim Liên như: Vương Thúc Mậu,
Nguyễn Sinh Quyến,...
- Gia đình:
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, yêu nước, gần gũi
với nhân dân, với người cha - cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc vốn là một nhà nho
cấp tiến, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Người kế thừa tấm gương lao động

cần cù, tấm gương về ý chí kiên cường vượt qua gian khổ để đạt được mục tiêu và
đặc biệt là tư tưởng thương dân, chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách

5


chính trị-xã hội của cụ Bảng Sắc đã có ảnh hưởng sâu sắc tới sự hình thành tư
tưởng chính trị và nhân cách của Người.
Cuộc sống của người mẹ - bà Hoàng Thị Loan cũng ảnh hưởng đến tư tưởng,
tình cảm của Người về đức tính nhân hậu, đảm đang, sống chan hoà với mọi người.
Còn phải kể đến mối quan hệ và tác động qua lại giữa ba chị em Nguyễn Thị
Thanh (Nguyễn Thị Bạch Liên), Nguyễn Sinh Khiêm (Nguyễn Tất Đạt), Nguyễn
Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành) về lòng yêu nước, về tinh thần cách mạng, đấu
tranh. Cả anh và chị của Nguyễn Tất Thành cũng đều tham gia hoạt động yêu nước
chống Pháp, bị bắt giam hàng chục năm. Điều này đã hun đúc nên vị anh hùng giải
phóng dân tộc, nhà tư tưởng, nhà văn hoá kiệt xuất của Việt Nam.
Thủa thiếu thời, Hồ Chí Minh đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo khổ
của nhân dân, bị đàn áp, bị bóc lột cùng cực của đồng bào, đày đoạ nhân dân mình
với cuộc sống xa hoa, đồi truỵ ngay trên mảnh đất quê hương. Những năm ở Huế,
Người đã tận mắt nhìn thấy tội ác của bọn thực dân và thái độ ớn hèn, bạc nhược
của bọn quan lại Nam triều. Những bài học thất bại của những nhà tiền bối đương
thời cũng có tác động không nhỏ tới Nguyễn Tất Thành.
Chính những điều đó đã ảnh hưởng và nuôi dưỡng lý tưởng yêu nước cách
mạng của Nguyễn Tất Thành ngay tư những ngày đầu và theo suốt quá trình cách
mạng. Bởi vì ở Người, tư tưởng yêu nước, thương dân, cảm thông với mọi nỗi khổ
đau của nhân dân, đồng bào luôn luôn có sự gắn bó chặt chẽ không tách rời. Tất cả
đã thôi thúc Người ra đi tìm một con đường mới để cứu nước cứu dân, giải phóng
dân tộc.
Bằng trực giác, Nguyễn Tất Thành nhận thấy rằng muốn cứu nước, giải
phóng dân tộc thì không thể đi theo con đường mà các bậc tiền bối đã đi, mà cần

phải tìm ra một con đường mới. Và Người đã quyết định sang Pháp và từ Pháp đến
các nước khác xem họ làm như thế nào, học tập rồi quay về giúp đồng bào mình.

6


3. Thời đại
Quê hương, gia đình, truyền thống dân tộc,... đã chuẩn bị cho Người về
nhiều mặt, nhưng Người không thể thành công nếu Người không đến được với trào
lưu mới của thời đại.
Trên phạm vi thế giới, tư cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư
bản đã chuyển thành chủ nghĩa đế quốc (nói cách khác là chuyển từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang giai đoạn tư bản độc quyền) và có tính chất quốc tế, xác lập sự
thống trị của chúng trên phạm vi thế giới. Chúng tranh giành, xâu xé thuộc địa và
nô dịch các dân tộc nhỏ yếu trong vòng kìm kẹp thuộc địa của chúng.
Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sang thế kỉ XX không còn là hoạt động
riêng rẽ của nước này chống lại sự thống trị, xâm lược của nước khác, mà đã trở
thành cuộc đấu tranh chung của các dân tộc thuộc địa chống lại chủ nghĩa Đế quốc,
chủ nghĩa thực dân gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trên toàn thế
giới.
Trong điều kiện lịch sử mới, mỗi thuộc địa là một mắt xích của hệ thống Đế
quốc, do đó cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mỗi nước cũng là mộy mắt khâu
của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Và đương nhiên, nếu chỉ tiến hành riêng rẽ thì
không thể nào giành thắng lợi. Sự thất bại của các phong trào cứu nước cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX không phải do nhân dân ta thiếu anh hùng, các lãnh tụ phong
trào kém nhiệt huyết mà vì họ không nhận thức được đặc điểm của thời đại nên vẫn
tiến hành đấu tranh theo đường lối và phương pháp cũ: tự mình nổi dậy đấu tranh
như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám; Đấu tranh không thắng nổi thì đi cầu
ngoại viện, điển hình như Phan Bội Châu và nhiều trường hợp khác.
Khi còn ở trong nước, Nguyễn Tất Thành tuy chưa ý thức được những đặc

điểm của thời đại, nhưng từ thự tế lịch sử, Người đã thấy rõ rằng đường đi của các
bậc tiền bối, của lớp cha anh là cũ kĩ, là không phù hợp và điều đó không đem lại

7


kết quả. Tư tưởng phong kiến lạc hậu, tính chất cải lương của tư tưởng dân chủ tư
sản, tư đó, Người đã phải đi tìm một con đường khác với hướng đi của những nhà
yêu nước trước đó, một con đường hoàn toàn mới.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, trên con tàu Amiral La Touche De Tréville,
Người đã ra đi tìm đường cứu nước. Người đã vượt ba đại dương, bốn châu lục, đặt
chân lên khoảng gần ba mươi nước, là một trong những nhà hoạt động chính trị đã
đi nhiều nhất, có vốn hiểu biết phong phú nhất về thực tế ở các nước thuộc địa cũng
như các nước tư bản Đế quốc trong những thập niên đầu của thế kỉ XX... Và nhờ
đó, Người đã hiểu được bản chất chung của chủ nghĩa Đế quốc cũng như những
đặc trưng riêng của từng nước Đế quốc; đã hiểu được trình độ phát triển kinh tế, xã
hội, chính trị, văn hoá,... của nhiều nước thuộc địa cùng cảnh ngộ.
Khoảng cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh về Pháp, Người sống và
hoạt động tại Pari_một trung tâm văn hóa, khoa học, chính trị của Châu Âu. Ở đây,
nhờ lăn lộn với phong trào quần chúng Pháp, sát cánh với những người yêu nước
Việt Nam và với những người cách mạng các nước khác từ các nước thuộc địa của
Anh, Pháp, Người đã nhanh chóng tiếp cận với phái tả và gia nhập Đảng xã hội
Pháp (12/1919), một chính Đảng duy nhất lúc bấy giờ của nước Pháp đồng tình,
ủng hộ, bênh vực cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa bị áp bức, bóc lột và
theo đuổi những lý tưởng cao đẹp của cách mạng Pháp: “Tự do, bình đẳng, bác ái”.
Người trở thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa.
Cùng năm đó, nhân dịp Hội nghị hoà bình được tổ chức tại Vécxây, nhân
danh những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã gửi tới Hội nghị bản
“Yêu sách của nhân dân An Nam” đòi các quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho nhân
dân Việt Nam và mong muốn sự giúp đỡ để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.

Mặc dù rất ôn hoà nhưng bản yêu sách này không được chấp nhận. Qua sự thật tàn
nhẫn đó, Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra bản chất giả rối của chủ nghĩa Đế quốc và

8


Người cũng rút ra được bài học: “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể
trông cậy vào chính bản thân mình” không thể tin theo những tuyên bố bằng lời nói
của chủ nghĩa Đế quốc mà cần phải nhận rõ những hành động của chúng đằng sau
những những lời tuyên bố giả tạo ấy - gọi là “Hội nghị hoà bình” nhưng thực chất
là để thoả thuận giữa các nước Đế quốc với nhau trong việc phân chia lại thị trường
thế giới.
Tuy nhiên, đến lúc đó, Nguyễn Ái Quốc vẫn chưa ý thức được rõ ràng và đầy
đủ về con đường giải phóng dân tộc mình và các dân tộc thuộc địa nếu không có
tác động to lớn của sự kiện vĩ đại là Cách mạng tháng 10 Nga và việc thành lập
Quốc tế III. Đây chính là yếu tố thời đại quyết định nhất đến tư tưởng của Người.
Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 thành công. Tuy nhiên, do sự bưng bít
của báo chí tư sản vì chúng rất sợ ảnh hưởng của cuộc cách mạng vô sản vĩ đại này
nên tác động cách mạng của nó chưa đến ngay được với Thủ đô Pari. Tháng 3 năm
1919, Lênin thành lập Quốc tế III thay thế cho quốc tế II và việc nhà nước Xô Viết
non trẻ đánh bại cuộc chiến tranh can thiệp của 14 nước Đế quốc và bọn bách vệ
vào nước Nga, thêm nữa là giải quyết xong vấn đề nội chiến. Đây chính là những
sự kiện vĩ đại làm thay đổi cục diện chính trị của tình hình thế giới với lợi thế
nghiêng về nước Nga, về phong trào vô sản và làm cho bầu không khí chính trị ở
các nước Châu Âu sôi động, nhất là trong Đảng xã hội Pháp. Sự phân hoá về đường
lối diễn ra trên hầu khắp các vấn đề cơ bản: đấu tranh giải phóng, cách mạng xã
hội, chuyên chính vô sản, chủ nghĩa dân tộc, trong đó có vấn đề dân tộc-thuộc địa.
Chính những sự kiện đó đã ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ đến tiến trình nhận thức
và chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc.
Là một Đảng viên trong Đảng xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc không thể đứng

ngoài cuộc tranh luận. Muốn tham gia đấu tranh, phải tìm hiểu về lý luận. Tháng 7
năm 1920, Người đã đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc

9


và thuộc địa” của V.I.Lênin đăng trên báo “Nhân đạo”. Trước khi đọc được luận
cương này, Người cũng đã đi đến kết luận: “chủ nghĩa tư bản, đế quốc ở đâu cũng
tàn bạo, độc ác, bất công; người lao động ở đâu cũng bị áp bức, bóc lột, đày đoạ, dù
màu da có khác nhau trên đời này cũng chỉ có hai giống người: giống người bóc lột
và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình
hữu ái vô sản”. Như vậy, tư nhận thức áp bức dân tộc Người đi tới nhận thức áp
bức giai cấp, từ quyền dân tộc tới quyền con người, từ xác định rõ kẻ thù Người
cũng thấy được bạn đồng minh là nhân dân lao động. Và khi đọc bản luận cương
này, Người đã vui mừng đến phát khóc: “Hỡi đồng bào bị đày đoạ đau khổ! Đây là
cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Chính luận
cương của Lênin đã giúp Người tìm ra con đường chân chính cho sự nghiệp cứu
nước, giải phóng dân tộc. Người đã biểu quyết tán thành Quốc tế III và tham gia
sáng lập Đảng Cộng Sản Pháp. 30/12/1920, Đại hội Tua kết thúc đánh dấu bước
ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng cũng như trong tư tưởng của Ngươì: từ
chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, tìm thấy con đường giải phóng dân
tộc mình trong sự nghiệp giải phóng tất cả các dân tộc, từ một người yêu nước chân
chính trở thành một chiến sĩ cộng sản.

II. KẾT LUẬN
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ giữa trí tuệ lớn của Người với
trí tuệ của dân tộc và trí tuệ của thời đại. Từ phát triển của tư tưởng yêu nước Việt
Nam cuối thế kỉ XIX-đầu XX đến khi bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin đã làm chuyển
biến tư tưởng của Người. Đó chính là bối cảnh và điều kiện đã hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh.


10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Hội đồng trung ương chỉ đạo biên
soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh, NXB ChÍNH TRỊ QUỐC GIA, Hà Nội-2003.
 Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ giáo dục và đào tạo, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội-2009.
 Tư tưởng Hồ Chí Minh - Một số nhận thức cơ bản, TS. Nguyễn Mạnh
Tường (chủ biên), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội-2009.
 http:// www.tapchicongsan.org.vn

11



×