Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Quyền hiến bộ phận cơ thể trong hệ thống các quyền nhân thân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.21 KB, 22 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ

Cùng với sự phát triển của xã hội, các quyền con người, quyền của cá nhân
ngày càng được tôn trọng và bảo vệ bằng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau. Một
xu hướng rất phổ biến diễn ra hiện nay là các giá trị nhân thân ngày càng được đề cao
và được ghi nhận ngày càng nhiều hơn trong pháp luật quốc gia cũng như trong pháp
luật quốc tế. Sở dĩ như vậy vì xã hội càng phát triển, các quan hệ xã hội càng đa dạng
phức tạp nhu cầu của con người nhày càng tăng lên cả về vật chất và tinh thần, đặc
biêt là nhu cầu về tinh thần. Trong đó nhu cầu về nhận các bộ phận cơ thể cũng là
những nhu câu cần thiết, nhằm phục vụ cho chữa trị cho người bệnh và phục vụ cho
công việc nghiên cứu khoa học.
Nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc lấy, ghép mô; bộ phận cơ thể và
tạo nguồn cung cấp mô, tạng dồi dào phục vụ cho việc cứu chữa người bệnh và nghiên
cứu khoa học, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật điều chỉnh về hiến
xác, hiến bộ phận cơ thể người mà tiêu biểu là Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ
thể và hiến, lấy xác năm 2006, trong đó có quy định cụ thể về điều kiện hiến xác; bộ
phận cơ thể khi còn sống cũng như điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết.
Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện việc hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể cho thấy
pháp luật về vấn đề này còn khá nhiều điểm bất cập, đặc biệt là trong các quy định về
định của pháp luật về hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết. Vì vậy em đã chọn
đề tài “ Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết” để hiểu thêm về vấn
đề này. Do kiến thức cá nhân còn nhiều hạn chế nên bài làm còn nhiều sai sót, nên em
mong nhận được những nhận xét của Thầy, Cô để bài làm của em được hoàn thiện
hơn.

1


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. Quyền hiến bộ phận cơ thể trong hệ thống các quyền nhân thân


Giá trị nhân thân là những giá trị gắn liền với cá nhân mỗi con người, chúng tồn
tại không phụ thuộc vào mức độ và tính chất điều chỉnh của các quy phạm pháp luật.
Trong những năm gần đây, dưới ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau về kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, quốc tế…, hệ thống các quyền nhân thân trong pháp luật các
nước ngày càng được mở rộng với sự ghi nhận nhiều quyền mới như quyền hiến bộ
phận cơ thể, quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết, quyền nhận bộ phận cơ thể,
quyền xác định lại giới tính… Pháp luật Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng
đó.
Với tư cách là một quyền nhân thân, quyền hiến bộ phận cơ thể mang những
đặc điểm chung của quyền nhân thân, đó là:
Thứ nhất, tính chất cá nhân tuyệt đối. Quyền nhân thân luôn gắn với một cá
nhân xác định, không được phép chuyển giao cho người khác. Quyền nhân thân thuộc
về cá nhân cụ thể từ khi người đó được sinh ra hoặc theo những căn cứ khác do pháp
luật quy định. Là các yếu tố cấu thành không thể tách rời khỏi cá nhân chủ thể, những
giá trị nhân thân được cá thể hoá, làm cho bản thân người mang các giá trị đó là hoàn
toàn không thể lặp lại. Những quyền nhân thân này ứng với mỗi cá nhân, sẽ cho phép
cá nhân khẳng định họ, là chính họ mà không phải ai khác, họ là một chủ thể độc lập
trước cộng đồng.
Thứ hai, tính không được xác định bằng tiền. Về cơ bản, chủ thể của quyền
nhân thân chỉ được hưởng lợi ích tinh thần mà không được hưởng lợi ích vật chất. Bên
cạnh đó, có những trường hợp đặc biệt, quyền nhân thân mang lại lợi ích vật chất cho
chủ thể quyền. Những lợi ích vật chất mà chủ thể quyền được hưởng ở đây có được là
do giá trị tinh thần mang lại (ví dụ: trường hợp góp vốn bằng uy tín trong một doanh
nghiệp). Như vậy, một trong những tiêu chí phân loại quyền nhân thân là dựa vào yếu
2


tố tài sản, theo đó, có thể chia quyền nhân thân làm 2 loại: quyền nhân thân gắn với tài
sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản. Theo cách phân loại này, quyền hiến bộ
phận cơ thể thuộc nhóm quyền nhân thân không gắn với tài sản.

Thứ ba, quyền nhân thân được xác lập không phải dựa trên các sự kiện pháp lý
mà chúng được xác lập trực tiếp trên cơ sở những quy định của pháp luật
Thứ tư, quyền nhân thân là một loại quyền tuyệt đối. Người có quyền này đối
kháng với một phạm vi không xác định các chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng giá trị nhân
thân được bảo vệ.
Bên cạnh các đặc điểm chung của quyền nhân thân, quyền hiến bộ phận cơ thể
còn có đặc điểm riêng biệt, đó là: mục đích chủ yếu của việc thực hiện quyền này
không phải đem lại lợi ích cho chủ thể quyền như đại đa số các quyền nhân thân khác,
mà nhằm đem lại lợi ích cho người khác, lợi ích cho toàn xã hội. Lợi ích mà chủ thể
quyền đạt được chủ yếu là lợi ích tinh thần, là niềm vui khi cứu sống được người khác
đang mắc bệnh hiểm nghèo, đặc biệt khi người bệnh lại là người thân thích, ruột thịt
của mình; hoặc niềm vui khi thấy mình cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học.
Lợi ích vật chất có thể có nhưng không phải là chính yếu, chẳng hạn như: được chăm
sóc, phục hồi sức khoẻ miễn phí, được ưu tiên ghép mô, bộ phận cơ thể người khi
người đó có nhu cầu… Lợi ích của chủ thể quyền thực sự rất khiêm tốn so với lợi ích
to lớn mà xã hội nhận được từ việc người đó thực hiện quyền của mình. Đặc trưng này
chỉ có ở 2 quyền nhân thân đặc thù: quyền hiến bộ phận cơ thể và quyền hiến xác, bộ
phận cơ thể sau khi chết.
Vậy tại sao lại coi “hiến bộ phận cơ thể” là một “quyền”, trong khi lợi ích mà
nó mang lại cho chủ thể quyền hầu như không đáng kể? Có thể lý giải như sau: Nói
đến “quyền” là nói đến sự tự do ý chí lựa chọn hành động của chủ thể trong khuôn khổ
pháp luật. Rõ ràng, mỗi cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền tự quyết
định đối với thân thể của mình, không ai có quyền can thiệp hay ngăn cản. Khi một cá
nhân đã có nguyện vọng hiến bộ phận cơ thể của mình để chữa bệnh hoặc nghiên cứu
khoa học, thì những người khác, kể cả những người thân thích, ruột thịt cũng không
3


được cản trở. Thông thường, việc hiến bộ phận cơ thể không chỉ là một quyết
định khó khăn đối với người hiến mà còn có thể tác động lớn về mặt tinh thần đối với

gia đình, với những người thân thích của người đó, bởi không ai muốn bản thân mình
và những người thân yêu của mình có một cơ thể không toàn vẹn. Vì vậy, việc ghi
nhận “quyền” hiến bộ phận cơ thể chính là một bảo đảm cho sự tự do ý chí lựa chọn
hành động của các cá nhân trong lĩnh vực đặc thù và hết sức nhạy cảm này. Tuy nhiên,
dù cho mỗi cá nhân có quyền tự quyết định, tự định đoạt đối với thân thể của mình,
nhưng phải trong khuôn khổ pháp luật. Pháp luật đa số các nước không cho phép mua
bán bộ phận cơ thể người như là một loại tài sản, bởi nếu cân nhắc giữa việc đảm bảo
tự do ý chí của mỗi cá nhân với bảo vệ trật tự công cộng và đạo đức xã hội thì rõ ràng
phải ưu tiên cái thứ hai.
Trong các quyền nhân thân, có hai quyền liên quan chặt chẽ đến quyền hiến bộ
phận cơ thể là quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết và quyền nhận bộ phận cơ
thể người.
Quyền hiến bộ phận cơ thể và quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết thực
ra không khác nhau về bản chất, đều là quyền thể hiện ý chí tự nguyện hiến tặng bộ
phận cơ thể mình vì mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học. Do đó quyền hiến
bộ phận cơ thể phải được hiểu là một quyền thống nhất, chứ không nên hiểu đây là hai
quyền độc lập, tách biệt nhau (quyền hiến khi còn sống và quyền hiến khi chết). Để
thực hiện quyền này, trong cả hai trường hợp, cá nhân đều phải thể hiện ý chí tự
nguyện hiến tặng khi người đó còn sống và còn minh mẫn, sáng suốt. Còn việc lấy bộ
phận của người hiến được thực hiện khi người đó còn sống hay đã chết tuỳ theo trước
tiên là ý nguyện của người hiến, ngoài ra còn căn cứ vào đặc điểm của bộ phận cơ thể
được hiến. Khi lấy đi một bộ phận cơ thể, tuỳ thuộc vào chức năng của từng bộ phận
mà nó sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ của người hiến ở các mức độ khác nhau: có thể là
ảnh hưởng không lớn (ví dụ: thận, gan), nhưng có thể ảnh hưởng quyết định đến sự
sinh tồn của cá nhân (ví dụ: tim). Vì vậy, quyền hiến bộ phận cơ thể không phải lúc
nào cũng thực hiện được khi người hiến còn sống.

4



Còn quyền hiến và quyền nhận bộ phận cơ thể người thực chất là hai mặt của
một quan hệ: một bên là chủ thể hiến có quyền hiến, một bên là chủ thể nhận có quyền
nhận. Quyền hiến là tiền đề cho quyền nhận. Tuy nhiên, mặc dù hiến-nhận là hai mặt
của một quá trình nhưng việc thực thi quyền nhận sẽ phức tạp, nhạy cảm hơn quyền
hiến, nếu không thực hiện tốt sẽ gây phản ứng xã hội không tốt, ảnh hưởng trở lại đến
chính quyền hiến của cá nhân, làm mất ý nghĩa tốt đẹp của quyền hiến. Bởi vì ở bất cứ
quốc gia nào trên thế giới cũng xảy ra tình trạng mất cân bằng giữa nhu cầu lấy, ghép
mô, bộ phận cơ thể người với khả năng cung cấp các bộ phận này. Nhu cầu luôn vượt
xa so với khả năng đáp ứng. Nguyên nhân chính là do về mặt tâm lý xã hội, mọi người
đều muốn có một cơ thể toàn vẹn ngay cả khi đã chết và họ thường rất e ngại khi
quyết định hiến bộ phận cơ thể cho người khác, trừ khi đó là người thân thích, ruột thịt
của mình. Ngay cả khi bản thân người đó đồng ý hiến bộ phận cơ thể thì những người
thân trong gia đình cũng phản đối và tìm cách ngăn cản. Vì vậy, mục đích chủ yếu của
pháp luật về hiến bộ phận cơ thể ở các quốc gia là thiết lập một cơ chế phân bổ một
cách công bằng, bình đẳng nguồn “tài nguyên” chữa bệnh quý giá và khan hiếm này
cho những bệnh nhân nguy kịch nhất, hiểm nghèo nhất.
2. Sự cần thiết ghi nhận và bảo vệ quyền hiến bộ phận cơ thể bằng pháp
luật dân sự
Ngày nay, việc hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người đã trở nên phổ biến
trên thế giới. Để tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể
người, đa số các nước trên thế giới đều có đạo luật riêng về hiến, lấy, ghép mô, bộ
phận cơ thể người như Pháp, Mỹ, Canađa, úc, Bỉ, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore,
Thái Lan … nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc gặp phải trong việc cho –
nhận bộ phận cơ thể người, hỗ trợ, định hướng cho phép ngành y tế phát huy tối đa các
thành tựu của mình chữa bệnh phục vụ nhân dân; đảm bảo an toàn nghề nghiệp cho
đội ngũ bác sĩ thực hiện phẫu thuật lấy, ghép bộ phận cơ thể; bảo vệ người bệnh và
đảm bảo quyền lợi của người hiến tặng vì sự phát triển của khoa học và sự tiến bộ
chung của loài người.

5



ở các nước châu Âu, các quy định pháp luật về hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ
thể người đã được triển khai thực hiện từ rất sớm, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành
phẫu thuật ghép mô, bộ phận cơ thể người phát triển một cách mạnh mẽ vào những
thập kỷ gần đây như: Pháp năm 1952, Vương quốc Anh năm 1961, Đan Mạch, Italia
năm 1967, Na-Uy năm 1973, Thuỵ Điển năm 1975; Hy Lạp năm 1983…. Tại các
nước châu á, từ năm 1959 đến nay, nhiều nước như Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan,
Nhật Bản, Philippine, Singapore, Malaysia, Indonesia… đều đã có Luật quy định về
hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người. Chính vì lý do trên, số bệnh nhân được ghép
mô, bộ phận cơ thể người ở các nước này ngày càng tăng lên nhanh chóng.
ở nước ta, nhu cầu được ghép mô, bộ phận cơ thể người rất lớn và ngày càng gia
tăng.
Vì vậy, pháp luật cần ghi nhận quyền hiến bộ phận cơ thể cũng như cơ chế thực
hiện và bảo vệ quyền này nhằm tạo lập một hành lang pháp lý khuyến khích các cá
nhân tự nguyện hiến bộ phận cơ thể của mình vì mục đích nhân đạo.
Về mặt pháp lý, ở Việt Nam, việc lấy và ghép mô, bộ phận của cơ thể người đã
được Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân năm 1989 và Điều lệ Khám bệnh, chữa bệnh và
phục hồi chức năng năm 1991 đề cập đến. Tuy nhiên, các quy định này chỉ mang tính
nguyên tắc, chưa cụ thể, chưa đầy đủ nên khó thực hiện trong thực tiễn. Nguồn cung
cấp các bộ phận cơ thể rất hạn chế trong khi nhu cầu ghép chữa bệnh, nghiên cứu khoa
học lại rất lớn gây khó khăn cho sự phát triển của chuyên ngành giải phẫu bệnh, không
đảm bảo yêu cầu chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ của nhân dân. Do đó, cần phải ban hành
những văn bản pháp lý có hiệu lực cao, điều chỉnh hoạt động cho – nhận, ghép, sử
dụng các bộ phận cơ thể người để ngành y tế Việt Nam có cơ sở pháp lý vững chắc
triển khai các hoạt động này. Trong đó, trước hết pháp luật phải khẳng định, ghi nhận
quyền hiến và nhận bộ phận cơ thể người là quyền dân sự của cá nhân, từ đó tạo cơ sở
pháp lý để ban hành văn bản pháp luật chuyên ngành về vấn đề hiến và nhận bộ phận
cơ thể người.
3. Nguyên tắc ghi nhận, thực hiện và bảo vệ quyền hiến bộ phận cơ thể

6


3.1 Nguyên tắc “phi thương mại”
Nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong ghi nhận, thực hiện và bảo vệ quyền hiến
bộ phận cơ thể là nguyên tắc “phi thương mại”, tức là việc hiến bộ phận cơ thể chỉ
nhằm mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học, không
nhằm mục đích lợi nhuận. Mục đích của hiến bộ phận cơ thể luôn luôn phải được đặt
ra như một sự kiểm soát đặc biệt của pháp luật đối với vấn đề có tính chất xã hội nhạy
cảm này. Nguy cơ các bộ phận cơ thể người trở thành hàng hoá giao dịch trên thị
trường đang hiện hữu ngày càng rõ nét. Pháp luật một số nước thừa nhận việc mua bán
bộ phận cơ thể người, nhưng quan điểm của Việt Nam là không chấp nhận thương mại
hoá các bộ phận cơ thể người. Nguyên tắc “phi thương mại” xuất phát từ đối tượng
đặc biệt của quyền hiến bộ phận cơ thể là “bộ phận cơ thể người”, đây là những bộ
phận tạo nên một con người hoàn chỉnh, gắn liền với sự tồn tại và phát triển bình
thường của con người, không thể là vật đem ra mua bán, trao đổi. Hơn nữa, hiến tặng
bộ phận cơ thể là nghĩa cử vô cùng cao đẹp – ban tặng niềm hy vọng vào sự hồi sinh,
vào cuộc sống mới cho người khác. Điều quan trọng hơn, một khi hoạt động “bán” bộ
phận cơ thể được thừa nhận sẽ dẫn đến tình trạng hết sức nguy hiểm – những khoản
lợi nhuận từ hoạt động mua bán này có thể làm cho những kẻ chuyên kinh doanh bộ
phận cơ thể người sẵn sàng ép buộc, làm tổn thương người khác, thậm chí giết người
để lấy bộ phận cơ thể họ (nguy cơ này càng lớn đối với những người có chỉ số sinh
học hiếm gặp). Như thế, quyền hiến bộ phận cơ thể không những không được đảm bảo
mà quyền con người còn bị ảnh hưởng nghiêm trọng (quyền được đảm bảo an toàn
tính mạng, sức khoẻ, thân thể bị xâm phạm, an toàn xã hội không thể kiểm soát được).
Vì những lý do nêu trên, pháp luật khi ghi nhận quyền hiến bộ phận cơ thể phải
định ra một giới hạn, đó chính là giới hạn về mục đích của việc hiến bộ phận cơ thể.
Ngay cả khi một người vì quá túng thiếu muốn bán một bộ phận cơ thể của mình, pháp
luật cũng không cho phép, giao dịch đó sẽ là giao dịch vô hiệu tuyệt đối do vi phạm
điều cấm của pháp luật, đồng thời giao dịch đó cũng trái với đạo đức xã hội.

Thực hiện tốt nguyên tắc “phi thương mại” nói trên cũng là một biện pháp đảm
bảo sự bình đẳng về quyền nhận bộ phận cơ thể người, bởi nếu cho phép mua bán, sử
7


dụng bộ phận cơ thể người nhằm mục đích lợi nhuận tức là đã không tạo cơ hội chữa
bệnh bình đẳng giữa bệnh nhân giàu và bệnh nhân nghèo, những người nghèo sẽ hiếm
có cơ hội được ghép mô, bộ phận cơ thể người để chữa trị bệnh. Và nếu như vậy, pháp
luật về hiến-nhận bộ phận cơ thể người đã không làm tròn được vai trò của nó.
3.2 Nguyên tắc hiến bộ phận cơ thể vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng
dạy hoặc nghiên cứu khoa học
Nguyên tắc này có mối quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc “phi thương mại”, và
thực chất là sự cụ thể hoá nguyên tắc đó. Việc hiến bộ phận cơ thể không nhằm mục
đích lợi nhuận, nhưng nhằm vào mục đích cụ thể nào? Đó phải là mục đích chữa bệnh,
giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học, trong đó mục đích chữa bệnh là quan trọng, chủ
yếu nhất vì nhu cầu lấy bộ phận cơ thể để chữa bệnh cứu người là rất lớn, rất cấp bách.
Tại sao lại cần đặt ra nguyên tắc này? Bởi CON NGƯỜI là giá trị cao quý nhất, là
trung tâm của mọi chính sách, pháp luật, tất cả là vì con người và cho con người, trong
đó, quyền sống là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, là cơ sở để thực
hiện các quyền con người khác. Một trong số các biện pháp bảo đảm quyền sống cho
con người chính là tạo điều kiện cả về mặt kỹ thuật, cả về mặt pháp lý để y học có thể
cứu sống được ngày càng nhiều bệnh nhân hiểm nghèo. Vì vậy, mục đích chữa bệnh
của việc hiến bộ phận cơ thể người cần được đặt lên hàng đầu. Bên cạnh đó, hiến bộ
phận cơ thể còn nhằm mục đích giảng dạy, nghiên cứu khoa học để ngày càng tìm ra
các phương thức chữa bệnh hiệu quả hơn, và suy cho cùng cũng là vì con người.
3.3 Nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện của người hiến bộ phận cơ thể
Như đã phân tích ở phần trước, hiến bộ phận cơ thể là quyền của mỗi cá nhân,
không phải là nghĩa vụ, không ai có quyền ép buộc hoặc cản trở người hiến thực hiện
quyền này. “Tự nguyện” được hiểu là phải có sự thống nhất giữa ý chí bên trong của
cá nhân và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài. Vì vậy, muốn chứng tỏ người hiến bộ phận cơ

thể hoàn toàn tự nguyện, người đó phải bày tỏ ý chí của mình cho mọi người xung
quanh được biết. Do ý nghĩa và tính chất quan trọng của việc hiến bộ phận cơ thể, ý

8


chí của người hiến phải được thể hiện một cách rõ ràng bằng văn bản, chứ không chỉ
bằng lời nói như một số giao dịch dân sự thông thường.
Theo Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác của Việt
Nam, sự tự nguyện được thể hiện ở việc đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người.
Người có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật (từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ) có quyền bày tỏ nguyện vọng hiến mô, bộ phận cơ thể của
mình với cơ sở y tế. Người đã đăng ký hiến có quyền thay đổi hoặc huỷ bỏ đơn đăng
ký hiến mô, bộ phận cơ thể. Cơ sở y tế chỉ được lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sống
đã đăng ký hiến. Trong trường hợp cấp cứu mà cần phải ghép mô hoặc cần ghép mô
cho cha, mẹ, anh, chị, em ruột thì được phép lấy mô của người chưa đăng ký hiến nếu
có sự đồng ý của người đó.
Để đảm bảo tuân thủ nguyên tắc tự nguyện, người hiến bộ phận cơ thể không
những phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mà còn phải là người minh
mẫn, sáng suốt vào thời điểm thể hiện ý chí hiến bộ phận cơ thể của mình cho người
khác mà mục đích hiến đã được xác định rõ ràng.
Nguyên tắc “tự nguyện” được thể hiện trong pháp luật các nước ở các mức độ
khác nhau. Nói chung, đối với quyền hiến bộ phận cơ thể ở người sống, người hiến có
quyền tự định đoạt cao hơn so với quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết. Vào
những thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, hầu hết các nước áp dụng chính sách “tự
nguyện hiến”. Mỗi cá nhân phải thể hiện rõ ràng ý chí của mình đối với việc hiến bộ
phận cơ thể, như: ký tên vào thẻ đăng ký hiến. Nếu như người đó không thể hiện ý chí
của mình khi còn sống thì những người thân thích của người đó phải thể hiện sự đồng
ý lấy bộ phận cơ thể từ người chết.
4. Khái quát về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết trước khi có

Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác năm 2006
4.1 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989 và văn bản hướng dẫn

9


Theo số liệu của Bộ Y tế cho thấy, từ những năm đầu của thập kỷ 50, nước ta đã
có những ca ghép mô, bộ phận cơ thể người đầu tiên như: ghép da, ghép giác mạc từ
tử thi vô thừa nhận và đặc biệt vào đầu những năm 70, việc ghép gan và tim đã được
thực hiện trên lợn do Giáo sư Tôn Thất Tùng và một số bác sĩ khác tiến hành. Tuy
nhiên, thời kỳ này chưa có một băn bản pháp lý nào của Nhà nước quy định về điều
kiện hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể người. Đến cuối thập niên 80 và những năm
đầu thập niên 90 những ca lấy, ghép thử nghiệm thận, gan đã cho những kết quả đáng
mừng. Và do nhu cầu của nhân dân về chăm sóc, bảo vệ sức khỏe ngày càng tăng,
đồng thời để tạo hành lang pháp lý cho việc lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể có hiệu quả,
năm 1989 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân (Luật BVSKND) được Quốc hội thông qua.
Để chủ động bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, trong Luật quy định rất
nhiều vấn đề về phòng ngừa bệnh, khám chữa bệnh, điều dưỡng và phục hồi chức
năng… trong đó lần đầu tiên có quy định về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể người:
“1, Thầy thuốc chỉ tiến hành lấy mô hoặc bộ phận của cơ thể người sống hay người
chết dùng vào mục đích y tế sau khi đã được sự đồng ý của người cho, của thân nhân
người chết hoặc người chết có di chúc để lại. 2, Việc ghép mô hoặc một bộ phận cho
cơ thể người bệnh phải được sự đồng ý của người bệnh hoặc thân nhân hay người
giám hộ của người bệnh chưa thành niên…”.
Phân tích quy định trên ta thấy, Luật này không trực tiếp quy định về quyền và
điều kiện đối với người hiến mô, bộ phận cơ thể mà chỉ quy định trong những trường
hợp nào “thầy thuốc” (ở đây mà cụ thể là cơ sở y tế có thẩm quyền) được tiến hành lấy
mô, bộ phận cơ thể người khi còn sống hoặc sau khi chết. Và từ những quy định ở
khoản 1 Điều 30, chúng ta có thể thấy Luật quy định về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ
thể sau khi chết cần một trong hai điều kiện sau: thứ nhất, phải có sự sự đồng ý của

thân nhân người chết, trong trường hợp người chết không có di chúc để lại; thứ hai,
trường hợp người chết có di chúc để lại (khoản 2 Điều 30 BVSKND. Bên cạnh đó,
Luật này cũng có quy định về điều kiện của việc ghép mô, bộ phận cơ thể (tức là điều
kiện với người nhận mô, bộ phận cơ thể để chữa bệnh) là phải được sự đồng ý của
người bệnh hoặc người giám hộ của người bệnh chưa thành niên (khoản 2, Điều 30).

10


Tuy nhiên, ở đây, Luật mới chỉ quy định rất chung về điều kiện đối với người
hiến mô, bộ phận cơ thể nói chung cũng như điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi
chết nói riêng. Khoản 2 Điều 30 chủ yếu nhấn mạnh đến tính tự nguyện của người
hiến hoặc gia đình họ trong việc hiến mô, bộ phận cơ thể (tức là chỉ quy định điều kiện
về ý chí) mà không có một quy định nào điều kiện về độ tuổi, về sức khoẻ đối với
người hiến, về năng lực nhận thức của họ… Theo em, khoản 2 Điều 30 của Luật
BVSKND chỉ là một quy định mang tính chất kỹ thuật để giúp các cơ sở y tế tiến hành
việc lấy ghép mô, bộ phận cơ thể được thuận lợi hơn trong một số trường hợp cần thiết
như đã nêu ở trên. Mặt khác, chúng ta cũng thấy quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người
thời kỳ này chưa được thừa nhận nên chưa thể có được một quy định đầy đủ về điều
kiện mô, bộ phận cơ thể người khi còn sống cũng như điều kiện đối với người hiến
mô, bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết.
Để đảm bảo những quy định về lấy, ghép đối với người hiến mô, bộ phận cơ thể
trong Điều 30 Luật BVSKND đi vào thực tiễn cuộc sống thì vấn đề này đã được cụ thể
hóa trong Nghị định ban hành kèm theo Điều lệ Khám chữa bệnh và phục hồi chức
năng số 23-HĐBT ngày 24/1/1991 tại Điều 10: “Về lấy và ghép mô bộ phận cơ thể
người
1- Việc lấy mô, bộ phận cơ thể người sống phải được người đó tự nguyện và
viết thành văn bản.
2- Việc lấy mô hoặc một bộ phận của cơ thể người chết được tiến hành trong
các trường hợp:

- Người chết có di chúc để lại đồng ý cho mô hoặc một bộ phận cơ thể của họ.
- Người chết không có di chúc nhưng được thân nhân người chết đồng ý cho
bằng văn bản.
- Người chết vô thừa nhận.

11


4- Các thủ tục, tiến hành ghép mô hoặc một bộ phận cơ thể con người được tiến
hành như các trường hợp phẫu thuật ghi trong Điều 8 của Điều lệ này
…”.
Trong Điều lệ này đã có những quy định cụ thể hơn về cơ sở y tế khi tiến hành
lấy mô, bộ phận cơ thể sau khi chết (khoản 1 Điều 10), ngoài hai trường hợp Luật đã
quy định là trường hợp người chết có di chúc để lại và trường hợp không có di chúc,
nhưng được thân nhân người chết đồng ý thì Điều lệ này có quy định cụ thể hơn, trong
trường hợp người chết không có di chúc để lại thì thân nhân người chết có quyền đồng
ý hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết, nhưng phải thể hiện bằng văn bản (khoản 2
Điều 10). Mặt khác, Điều lệ cũng quy định cơ sở y tế có thẩm quyền cũng được sử
dụng xác, bộ phận cơ thể người chết vô thừa nhận để phục vụ cho mục đích chữa bệnh
hoặc nghiên cứu khoa học mà thực tế trong những năm vừa qua là việc sử dụng mô
(giác mạc, kết mạc) để chữa trị cho người bệnh; sử dụng bộ phận cơ thể, xác tử thi vô
thừa nhận phục vụ cho việc giảng dạy tại các Trường y. Tuy nhiên, cả Luật BVSKND
cũng như Điều lệ Khám chữa bệnh và phục hồi chức năng đều chưa có quy định cụ thể
về điều kiện đối với người hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết như: chưa quy định về
vấn đề hiến xác, liệu có cần quy định về độ tuổi với người hiến để lại di chúc hay
không? Điều kiện về sức khoẻ, điều kiện về năng lực nhận thức hay liệu có bắt buộc
cần phải có sự đồng ý của gia đình trong trường hợp người hiến để lại di chúc sau khi
chết, nếu cần có sự đồng ý của gia đình thì sự đồng ý này chỉ cần đồng ý bằng lời nói
hay phải bằng văn bản, trong trường hợp người hiến xác, bộ phận cơ thể cho giảng dạy
hoặc nghiên cứu khoa học thì trình tự thủ tục thế nào… Do đó, thực tế các cơ sở y tế

vẫn còn nhiều khó khăn trong việc nhận mô, bộ phận cơ thể người đối với trường hợp
người hiến sau khi chết. Mặt khác, các văn bản trên cũng mới chỉ quy định về việc
hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết nhằm mục đích chữa bệnh, chứ chưa có một quy
định nào về hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết nhằm mục đích nghiên cứu
khoa học, nên vấn đề này thực tế xảy ra các cơ sở y tế rất khó giải quyết.
4.2 Bộ luật Dân sự năm 2005
12


Phải nói rằng, việc thừa nhận và quy định quyền hiến mô, bộ phận cơ thể, gắn
liền với việc thừa nhận và quy định các điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể. Quyền hiến
mô, bộ phận cơ thể được thừa nhận là cơ sở cũng như căn cứ để các nhà làm luật quy
định một cách cụ thể và chặt chẽ về các điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể người,
trong đó có các điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết. Mặt khác, việc
quy định chặt chẽ, cụ thể các điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể người sẽ giúp mọi
người thực hiện tốt hơn quyền được hiến của mình.
Điều 34 của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) quy định: “Cá nhân có
quyền hiến bộ phận cơ thể của mình hoặc hiến xác sau khi chết vì mục đích chữa bệnh
hoặc nghiên cứu khoa học…”. Tuy nhiên, quy định tại Điều 34 của BLDS 2005 về cá
nhân được hiến trước khi có Luật Hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác
2006, thì còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Có cách hiểu cho rằng, cá nhân ở đây có
thể là bất kỳ ai không phân biệt họ bao nhiêu tuổi, miễn là họ không bị nhược điểm về
thể chất, tâm thần và tự nguyện, quan điểm khác lại cho rằng cá nhân hiến bộ phận cơ
thể ở đây phải là người đã thành niên – mới có đầy đủ khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi. Sở dĩ có các cách hiểu khác nhau như vậy bởi vì trong Bộ luật chưa quy
định điều kiện cụ thể với cá nhân ở đây là gì về độ tuổi, về năng nhận thức, về sức
khoẻ… Như vậy, chúng ta thấy Bộ luật quy định cũng rất chung chung về việc cá
nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể khi còn sống hoặc sau khi chết mà không quy
định cụ thể về độ tuổi, sức khoẻ đối với người hiến.
5. Điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết

5.1 Điều kiện về năng lực chủ thể
Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết là một quyền nhân thân quan trọng,
mặc dù là quyền nhưng không phải cá nhân nào muốn thực hiện cũng được mà cá
nhân đó phải đạt được những điều kiện nhất định, trong đó một điều kiện không thể
không nói đến đó là điều kiện về độ tuổi và điều kiện về khả năng nhận thức cũng như
điều khiển hành vi.

13


Như chúng ta đã biết, điều kiện về độ tuổi là một dấu hiệu định lượng quan
trọng để xem xét cá nhân đó có đủ khả năng thực hiện quyền hiến mô, bộ phận cơ thể
hay không. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà ở các nước trên thế giới có sự quy
định khác nhau về độ tuổi đối với người hiến bộ phận cơ thể khi còn sống, đặc biệt là
hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết. ở Pháp, đủ 13 tuổi trở lên mới có quyền đăng ký
từ chối hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết (tức là sau khi một người bị chết đi, cơ sở
y tế có thẩm quyền sẽ kiểm tra xem người đó có thẻ từ đăng ký từ chối hiến xác
không, nếu không có thì cơ sở y tế có thẩm quyền gián tiếp suy luận là người đó đã
đồng ý hiến). ở nước ta, Điều 5 của Luật Hiến, lấy ghép mô bộ phận cơ thể người và
hiến, lấy xác năm 2006 quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết
và hiến xác”.
Phân tích quy định trên ta thấy, cá nhân phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới có quyền
hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết. Sở dĩ có quy định như vậy bởi các nhà làm
luật nước ta quan niệm rằng ở tuổi đó, người hiến mới phát triển đầy đủ về tâm, sinh
lý cũng như về mặt pháp lý họ là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự có thể bằng
hành vi của mình tham gia xác lập các quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của
pháp luật. Nếu độ tuổi là một dấu hiệu định lượng, là điều kiện cần để hiến mô, bộ
phận cơ thể thì khả năng nhận thức và điều khiển hành vi là dấu hiệu định tính để xác
định xem cá nhân đã hoàn thiện về mặt tâm lý, về khả năng nhận thức hay chưa.

5.2 Điều kiện về trình tự
Những người có đủ điều kiện quy định tại Điều 5 của Luật có quyền bày tỏ
nguyện vọng hiến mô, bộ phận cơ thể của mình với cơ sở y tế, khi nhận được thông tin
của người hiến mô, bộ phận cơ thể, cơ sở y tế có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm
điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người. Sau khi nhận được thông báo về
trường hợp hiến xác, bộ phận cơ thể người, Trung tâm điều phối quốc gia về bộ phận
cơ thể có trách nhiệm thông báo cho cơ sở y tế có đủ điều kiện về trang thiết bị, về đội
ngũ cán bộ y tế để tiến hành các thủ tục đăng ký cho người hiến. Khi nhận được thông
báo của Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người, cơ sở y tế quy
14


định tại Điều 16 của Luật này có trách nhiệm trực tiếp gặp người hiến để tư vấn thông
tin có liên quan đến hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể và hướng dẫn việc đăng ký hiến theo
mẫu đơn; thực hiện việc kiểm tra sức khoẻ cho người hiến. Đến đây, người hiến mô,
bộ phận cơ thể người để được hiến phải đảm bảo được điều kiện về sức khoẻ. Còn
trường hợp hiến xác sau khi chết thực hiện theo quy định điều 19 của Luật.
Một vấn đề đặt ra là liệu điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết
vào mục đích nghiên cứu khoa học có khác gì với điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể
sau khi chết vì mục đích chữa bệnh không? ở đây, chúng ta có thể dễ dàng trả lời được
là giữa chúng có sự khác nhau bởi mục đích của chúng là khác nhau. Vì vậy, có thể
thấy có nhiều trường hợp không đủ điều kiện để hiến mô, bộ phận cơ thể vì mục đích
chữa bệnh, nhưng vẫn có thể hiến và được sử dụng và mục đích nghiên cứu khoa học.
5.3 Điều kiện về sức khỏe
Việc hiến mô, bộ phận cơ thể nói chung cũng như việc hiến xác, bộ phận cơ thể
sau khi chết nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc mang lại hay kéo dài
sự sống cho người bệnh. Thực tế trên thế giới và ở Việt Nam cũng đã xảy ra những
trường hợp việc lấy, ghép nhầm mô, bộ phận cơ thể của người hiến bị bệnh (nan y)
cho người bệnh đã gây ra những cái chết rất thương tâm hoặc trường hợp bác sĩ lấy
nhầm bộ phận cơ thể của người hiến dẫn tới tính mạng của người hiến bị đe dọa

nghiêm trọng. Do đó, để bảo đảm tính mạng, sức khoẻ cũng như tinh thần cho người
hiến, Luật đã đưa ra những quy định về hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết phải
được kiểm tra sức khoẻ, tuy nhiên lại chưa quy định cụ thể người hiến cần phải đáp
ứng được điều kiện gì về sức khoẻ. Nhưng theo quy định tại Quyết định số
43/2007/QĐ-BYT của Bộ Y tế về việc thực hiện kỹ thuật cấy ghép thận, gan… cho
người bệnh thì trong Quyết định này có chỉ rõ là người hiến về sức khoẻ không bị mắc
các bệnh nan y như: viêm gan B, nhiễm HIV,…
Bên cạnh các quy định về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi
chết, cơ sở y tế có thẩm quyền để có thể lấy được xác, bộ phận cơ thể người hiến sau
khi chết, Luật cũng xác định thêm một số điều kiện khác như: điều kiện xác định chết
15


não, liệu có cần sự đồng ý của gia đình người hiến không trong trường hợp người thân
của họ muốn hiến xác, bộ phân cơ thể? Trong Luật quy định người từ đủ 18 tuổi trở
lên mà tự nguyện làm đơn hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết thì không cần sự
đồng ý của gia đình. Tuy nhiên, trên thực tế xảy ra trường hợp người hiến xác, bộ
phận cơ thể sau khi chết nhưng khi họ chết rồi cơ sở y tế có thẩm quyền đến lấy thì gia
đình người hiến không đồng ý, trường hợp này cơ sở y tế có được quyền cưỡng chế
lấy không? Vấn đề này, ở Pháp đã áp dụng cơ chế suy đoán sự đồng ý, tức là khi phát
hiện một người bị chết, cơ sở y tế có thẩm quyền kiểm tra trên hệ thống thông tin điện
tử xem người đó có đăng ký từ chối hiến không, nếu người đó không đăng ký thì suy
đoán rằng người đó đã đồng ý hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết. Tuy nhiên, trong
trường hợp này nếu gia đình người hiến không đồng ý hiến thì cơ sở y tế cũng không
lấy xác, bộ phận cơ thể của người đó.
Điều 5 của Luật quy định người hiến mô, bộ phận cơ thể khi còn sống cũng như
sau khi chết đều là người phải từ đủ 18 tuổi trở lên tự nguyện làm đơn đăng ký hiến.
Tuy nhiên, Luật cũng quy định trong trường hợp người chết không có đơn đăng ký
hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết nhưng nếu gia đình người hiến đồng ý thì cơ sở y
tế có thẩm quyền vẫn đựợc nhận.

6. Một số kiến nghị
6.1 Về trình tự, thủ tục đối với người hiến xác, bộ phận cơ thế sau khi chết
- Cần phải sớm có quy định pháp luật về trình tự thủ tục đối với việc hiến mô,
bộ phận cơ thể người cho mục đích nghiên cứu khoa học cũng như quy định về điều
kiện đối với các tổ chức nhận xác, bộ phận cơ thể người để nghiên cứu khoa học. Quy
định này rất quan trọng bởi, hiến xác, bộ phận cơ thể người vì mục đích chữa bệnh là
biện pháp ngăn chặn hậu quả, thì nghiên cứu khoa học lại giúp phát hiện và phòng
ngừa bệnh tật.
- Về thủ tục đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người sống; thủ tục đăng ký hiến
bộ phận cơ thể người hiến xác sau khi chết, theo chúng tôi, ở khoản 4 Điều 12 cũng
như khoản 4, Điều 18 của Luật về trách nhiệm của cơ sở y tế là trực tiếp gặp người
16


hiến để tư vấn về các thông tin có liên quan là không khả thi, vì người dân sẽ hiểu theo
nghĩa các cơ sở y tế phải có trách nhiệm cử cán bộ tới nhà gặp trực tiếp người hiến để
tư vấn, mà cơ sở y tế thì không đủ người để có thể làm được điều đó. Vì vậy, chúng tôi
đề nghị sửa đổi khoản 4, Điều 12, Điều 18 theo hướng sau: “Cơ sở y tế có trách nhiệm
mời người hiến đến cơ sở y tế để trực tiếp cung cấp đầy đủ các thông tin có liên quan
cho người hiến biết”.
6.2 Về năng lực chủ thể của người hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết
- Về độ tuổi của người hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết theo Điều 22 của
Luật, trường hợp người chết mà không có thẻ đăng ký hiến xác, hiến bộ phận cơ thể
người sau khi chết, theo chúng tôi, Luật không nên giới hạn độ tuổi là đủ 18 tuổi trở
lên mà người dưới 18 tuổi cũng có thể được chấp nhận nếu được gia đình hoặc người
giám hộ hợp pháp của người đó đồng ý. Bởi vì:
Thứ nhất, Luật hiện hành cho phép cơ sở y tế có quyền nhận mô, bộ phận cơ thể
từ người chết trong trường hợp người đó không có thẻ đăng ký hiến sau khi chết,
nhưng gia đình, cụ thể là người thân thích theo quy định của pháp luật của họ có đơn
muốn hiến.

Thứ hai, trường hợp người đó hiến khi còn sống thì điều kiện về năng lực chủ
thể tức khả năng nhận thức và điều khiển hành vi còn đặt ra, còn trường hợp người đó
đã chết thì trên cơ sở quy định pháp luật đã được gia đình đồng ý thì người hiến đó
không cần thiết phải là đủ 18 tuổi trở lên theo quy định của Luật mà có thể thấp hơn
18 tuổi.
- Về năng lực chủ thể của người hiến là cần thiết trong trường hợp người đó
hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hoặc đăng ký hiến sau khi chết. Tuy
nhiên, trường hợp mà người chết không để lại di chúc mà gia đình họ làm đơn hiến
mô, bộ phận cơ thể của con mình nhằm mục đích cứu chữa người bệnh thì vấn đề
năng lực nhận thức của người đó không nên đặt ra, bởi cho dù người đó có thể bị rơi
vào trường hợp bị tâm thần hoặc mất năng lực hành vi đi chăng nữa thì cũng không có
nghĩa là bộ phận cơ thể nào của họ cũng bị ảnh hưởng hoặc không sử dụng được để
17


cứu chữa người bệnh. Do đó, chúng ta không nên đặt ra vấn đề khả năng nhận thức
cũng như năng lực hành vi của người hiến trong những trường hợp như trên.
6.3 Về sức khỏe đối với người hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết
Sức khỏe là điều kiện vô cùng quan trọng đối với người hiến trong quá trình
hiến mô, bộ phận cơ thể người nhằm cứu chữa người bệnh. Do vậy có thể dễ dàng
nhận thấy sức khỏe là điều kiện tiên quyết và quan trọng đối với mục đích cứu chữa
bệnh, bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của người hiến mà nó còn ảnh hưởng
đến sức khỏe của người nhận ghép. Tuy vậy, nếu sử dụng xác, bộ phận cơ thể vào mục
đích nghiên cứu khoa học thì không nhất thiết phải bắt buộc điều kiện về sức khỏe của
người hiến, bởi vì đích cuối cùng của nghiên cứu khoa học là nhằm tìm nguyên nhân
và cách thức phòng ngừa bệnh tật để cứu chữa người bệnh. Vì vậy, dù là người có
bệnh hay không có bệnh mà hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết nhằm mục đích
giảng dạy và nghiên cứu khoa học thì đều có thể nhận được.
6.4 Một số kiến nghị liên quan khác
Bên cạnh những kiến nghị trên để hoàn thiện pháp luật về điều kiện hiến xác, bộ

phận cơ thể người sau khi chết, chúng ta cần phải quan tâm đến những vấn đề sau:
- Nên nghiên cứu quy định về điều kiện và trình tự, thủ tục cho phép người bị
tuyên tử hình có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết, đây là một
việc làm rất nhân văn và mang tính nhân đạo sâu sắc. Vì thế nên có quy định về điều
kiện hiến xác, bộ phận cơ thể đối với tử tù trong trường hợp họ muốn hiến, ngoài
những điều kiện chung về độ tuổi, năng lực nhận thức, sức khỏe… thì cần phải có
những quy định đầy đủ hơn nữa về vấn đề này. Ví dụ, cần phải bãi bỏ quy định là
không cho mang xác tù nhân ra khỏi pháp trường (tức là xác phải chôn trong pháp
trường) … đây là một vấn đề nhạy cảm nên cần phải có sự cân nhắc thận trọng giữa
việc đảm bảo an ninh, an toàn và vấn đề nhân đạo, sức khỏe nhân dân.
- Luật cũng nên quy định về điều kiện hiến, nhận, sử dụng mô, bộ phận cơ thể
sau khi chết để nghiên cứu khoa học một cách chặt chẽ bởi: thứ nhất, hiến xác, bộ
18


phận cơ thể là một trong hai mục đích quan trọng được ghi nhận trong BLDS 2005 (đó
là mục đích chữa bệnh và nghiên cứu khoa học); thứ hai, quy định đầy đủ về vấn đề
này nhằm tránh việc các tổ chức, cá nhân lợi dụng để bí mật bán mô, tạng vì mục đích
thương mại. Đồng thời theo chúng tôi, cũng nên quy định những trường hợp mà người
hiến xác, bộ phận cơ thể người vì mục đích chữa bệnh, nghiên cứu.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ

Để tạo điều kiện cho việc chữa trị cho bệnh nhân và phục vụ cho công tác
nghiên cứu khoa học được thuận lợi, cần phải sớm có quy định pháp luật về trình tự
thủ tục đối với việc hiến mô, bộ phận cơ thể người cho mục đích nghiên cứu khoa học
cũng như quy định về điều kiện đối với các tổ chức nhận xác, bộ phận cơ thể người để
nghiên cứu khoa học. Quy định này rất quan trọng bởi, hiến xác, bộ phận cơ thể người
vì mục đích chữa bệnh là biện pháp ngăn chặn hậu quả, thì nghiên cứu khoa học lại
giúp phát hiện và phòng ngừa bệnh tật. Giải thích rõ cho người dân hiểu về hiến xác

và bộ phận cơ thể là nghĩa cử cao đẹp của mỗi con người, để nhân dân không hiểu sai
về bản chất của việc hiến xác và bộ phận cơ thể sau khi chết. Nhằm giúp ngành Y học
nước ta ngày một phát triển, cũng như giúp cho người bệnh có nhiều hy vọng khỏi
bệnh thì hiến xác và bộ phận cơ thể là một đóng góp hết sức to lớn và cần thiết.

19


MỤC LỤC
TIÊU ĐỀ

TRANG

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

1

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

2

1. . Quyền hiến bộ phận cơ thể trong hệ thống các quyền nhân thân

2

2. Sự cần thiết ghi nhận và bảo vệ quyền hiến bộ phận cơ thể bằng pháp
luật dân sự

5


3. Nguyên tắc ghi nhận, thực hiện và bảo vệ quyền hiến bộ phận cơ thể

6

3.1 Nguyên tắc “phi thương mại”

7

3.2 Nguyên tắc hiến bộ phận cơ thể vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng
dạy hoặc nghiên cứu khoa học

8

3.3 Nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện của người hiến bộ phận cơ thể

8

4. Khái quát về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết trước khi có Luật Hiến,
lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác năm 2006

9

4.1 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989 và văn bản hướng dẫn

9

4.2 Bộ luật Dân sự năm 2005

12


5. Điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết
5.1 Điều kiện về năng lực chủ thể

13
13

5.2 Điều kiện về trình tự

14

5.3 Điều kiện về sức khỏe

15

20


6. Một số kiến nghị

16

6.1 Về trình tự, thủ tục đối với người hiến xác, bộ phận cơ thế sau khi
chết

16

6.2 Về năng lực chủ thể của người hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết

17


6.3 Về sức khỏe đối với người hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết

18

6.4 Một số kiến nghị liên quan khác

18

III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ

19

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật dân sự, trường Đại Học Luật Hà Nội
2. Bộ luật dân sự 2005
3. Ts Nguyễn Thị Quế Anh “ Quyền hiến bộ phận cơ thể”
4. BÙI ĐỨC HIỂN “ Quy định về điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể người sau
khi chết”
5. Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác năm 2006
Các trang web:
Google.com
Thongtinphapluatdansu.wordpress.com

22




×