Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

CÁC NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT BIỂN VÀ PHƯƠNG PHÁP VẠCH ĐƯỜNG CƠ SỞ THẲNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.54 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
I.

TỔNG QUAN VỀ LUẬT BIỂN QUỐC TẾ

1. Quy chế pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của
quốc gia ven biển theo Công ước luật Biển năm 1982
2. Quy chế pháp lý của vùng biển quốc tế và đáy biển quốc tế theo Công ước luật
Biển năm 1982
3. Các cơ chế quốc tế để thực thi các quy định của Công ước luật Biển năm 1982
II.

CÁC NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT BIỂN VÀ PHƯƠNG PHÁP VẠCH
ĐƯỜNG CƠ SỞ THẲNG

1. Các nguyên tắc của Luật Biển
2. Xác định ranh giới và vạch đường cơ sở thẳng
III.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT BIỂN QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM

1


I. TỔNG QUAN VỀ LUẬT BIỂN QUỐC TẾ
Từ rất sớm, con người đã có các hoạt động trên biển. Đến thế kỷ XV, các nguyên tắc lớn
của Luật biển đã hình thành như Nguyên tắc tự do biển cả, chủ quyền quốc gia trên biển.
Năm 1609, Hugo Grotius ( Hà Lan) viết “Mare Liberum” tuyên truyền cho tư tưởng tự do
biển cả. John Selden (Anh) viết “Mare Clausum” năm 1653 đại diện cho xu hướng mở rộng
quyền lực của quốc gia ven biển ra hướng biển. Luật biển trong thời gian này chủ yếu là các
quy tắc, quy phạm mang tính tập quán.


Quá trình pháp điển hóa Luật biển phát triển mạnh sau Đại chiến thế giới thứ hai, thông
qua ba hội nghị lớn của Liên hợp quốc vào các năm 1958,1960 và năm 1973 – 1982. Trong
các hội nghị đó, nhiều vấn đề pháp lý về biển đặt ra trong thực tiễn quốc tế đã dần dần được
giải quyết và quan trọng hơn cả là những thành tựu về lập pháp quốc tế đã đạt được của cộng
đồng quốc tế trong lĩnh vực luật biển tại Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc. Hội nghị
luật Biển lần thứ I được tổ chức tại Geneva vào năm 1958 và thông qua 4 công ước, cụ thể là
Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp, Công ước về biển cả, Công ước về đánh cá và bảo
tồn tài nguyên sinh vật ở biển cả và Công ước về thềm lục địa. Tiếp đó, Hội nghị luật Biển
lần thứ II cũng được tổ chức tại Geneva vào năm 1960 với mục đích thống nhất về chiều
rộng của lãnh hải. Do lập trường của các nhóm nước khác nhau, nên hội nghị đã không đạt
được mục tiêu đề ra. Hội nghị luật Biển lần thứ III chủ yếu được tổ chức tại New York và
Geneva với hai giai đoạn khác nhau: giai đoạn trù bị từ năm 1967 đến năm 1973 và giai
đoạn chính thức từ năm 1973 đến năm 1982.
Thành công lớn của Hội nghị luật Biển lần thứ III là đã thông qua Công ước luật Biển
năm 1982 của LHQ với 320 điều và 9 phụ lục. Công ước được mở ra cho các quốc gia ký
vào ngày 10.12.1982. Cũng ngay trong ngày đó, Fiji trở thành thành viên đầu tiên của công
ước. Tính đến ngày 5.6.2012, công ước có 162 thành viên từ khắp châu Á, châu Phi, châu
Âu, châu Mỹ và châu Đại dương. Trong số các nước ven biển Đông đã có 8 nước tham gia
Công ước là Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Malaysia, Singapore, Brunei và
Thái Lan.
Công ước luật Biển năm 1982 được coi là hiến pháp của thế giới về các vấn đề biển và
đại dương bởi vì đã xác định một cách toàn diện quy chế pháp lý của các vùng biển thuộc
chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển cũng như quy chế pháp lý của
vùng biển quốc tế và đáy biển quốc tế. Đồng thời công ước cũng quy định thành lập một loạt
cơ chế quốc tế quan trọng liên quan đến hoạt động ở biển và đại dương như Tòa án quốc tế
về luật Biển, Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương, Ủy ban Ranh giới thềm lục địa và
Hội nghị các quốc gia thành viên công ước. Đặc biệt liên quan đến các tranh chấp có thể nảy
sinh giữa các thành viên, Công ước luật Biển năm 1982 đòi hỏi các quốc gia thành viên giải
2



quyết mọi tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng công ước bằng các biện
pháp hòa bình theo đúng quy định của Hiến chương LHQ, đồng thời nêu rõ các cơ chế giải
quyết tranh chấp mang tính triệt để. Đáng chú ý là công ước được thông qua như là một giải
pháp cả gói, cho nên các quốc gia không được phép bảo lưu khi tham gia công ước.
1. Quy chế pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc
gia ven biển theo Công ước luật Biển năm 1982
Theo Công ước luật Biển năm 1982, quốc gia ven biển có các vùng biển là nội thủy, lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Chiều rộng của các vùng biển này được tính từ
đường cơ sở dùng để tính lãnh hải của quốc gia ven biển.
Nội thủy là toàn bộ vùng biển tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong đường cơ sở của quốc
gia ven biển. Trong vùng nội thủy của mình, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và
tuyệt đối như đối với lãnh thổ đất liền của mình.
Lãnh hải là vùng biển nằm phía ngoài đường cơ sở của quốc gia ven biển. Theo luật biển
vào những năm 50 của thế kỷ 20 trở về trước, lãnh hải của quốc gia ven biển chỉ rộng 3 hải
lý, tức khoảng 5,7 km. Tại Hội nghị luật Biển lần thứ II của LHQ, một số nước tiếp tục ủng
hộ quan điểm lãnh hải 3 hải lý, nhưng một số nước khác chủ trương mở rộng lãnh hải đến 12
hải lý. Tại Hội nghị luật Biển lần thứ III các nước đã đạt nhận thức chung, do đó Công ước
luật Biển năm 1982 đã xác định chiều rộng của lãnh hải là 12 hải lý. Các quốc gia ven biển
có chủ quyền đối với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời ở trên lãnh hải, đáy biển
và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải.
Tuy nhiên, tính chủ quyền ở đây không được tuyệt đối như trong nội thủy bởi vì trong lãnh
hải của quốc gia ven biển tàu thuyền của các quốc gia khác được quyền đi qua không gây hại
(tàu bay bay trên vùng trời vẫn phải xin phép). Công ước cũng đề ra những quy định rất cụ
thể đối với việc đi qua không gây hại như không được đe dọa hoặc dùng vũ lực chống lại
chủ quyền hoặc độc lập chính trị của quốc gia ven biển, hoặc dùng mọi cách khác trái với
các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương LHQ; hoặc tuyên
truyền, thu thập thông tin gây hại cho quốc phòng, an ninh của quốc gia ven biển…
Quốc gia ven biển có quyền ban hành các quy định để kiểm soát và giám sát tàu thuyền nước
ngoài thực hiện việc đi qua trong lãnh hải của mình trong một số vấn đề (an toàn hàng hải,

điều phối giao thông đường biển; bảo vệ các thiết bị, công trình, hệ thống đảm bảo hàng hải;
bảo vệ tuyến dây cáp và ống dẫn ở biển; bảo tồn tài nguyên sinh vật biển; ngăn ngừa vi
phạm pháp luật của quốc gia ven biển liên quan đến đánh bắt hải sản; bảo vệ môi trường
biển; nghiên cứu khoa học biển; và ngăn ngừa các vi phạm về hải quan, thuế khóa, xuất,
nhập cảnh, y tế) và quy định hành lang để tàu thuyền đi qua.
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển đặc thù nằm ở trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc
gia ven biển. Vùng này cũng có chiều rộng 12 hải lý kể từ ranh giới ngoài của lãnh hải. Có
thể nói, vùng này như là một vùng đệm mà ở đó, các quốc gia ven biển có quyền thực hiện
sự kiểm soát cần thiết nhằm mục đich ngăn ngừa và trừng trị các vi phạm xảy ra trong lãnh
hải của quốc gia đó. Ngoài khía cạnh này ra, quy chế của vùng này hoàn toàn như phần còn
lại của vùng đặc quyền kinh tế.
3


Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm phía ngoài lãnh hải và có chiều rộng 200 hải lý
tính từ đường cơ sở (vì lãnh hải 12 hải lý, nên thực chất vùng đặc quyền kinh tế có 188 hải
lý). Vùng đặc quyền kinh tế là một chế định pháp lý hoàn toàn mới. Mãi cho đến những năm
50 của thế kỷ 20 hoàn toàn không có chế định này. Lúc đó các quốc gia ven biển chỉ có lãnh
hải 3 hải lý. Ngoài lãnh hải 3 hải lý là vùng biển quốc tế. Với việc ra đời của vùng đặc quyền
kinh tế, vùng biển của quốc gia ven biển được mở rộng và vùng biển quốc tế bị thu hẹp đáng
kể.
Khác với nội thủy và lãnh hải, quốc gia ven biển không có chủ quyền mà chỉ có quyền chủ
quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế của mình. Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối
với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật ở đó cũng như đối với
các hoạt động khác như sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió. Hiện nay, tài nguyên
thiên nhiên chính trong vùng đặc quyền kinh tế mà các quốc gia ven biển đang quan tâm và
đẩy mạnh thăm dò, khai thác là tôm, cá. Đối với số lượng tôm, cá mà quốc gia ven biển
không đánh bắt hết thì có thể cho phép các quốc gia khác đánh bắt (nhưng họ phải trả lệ phí
và tuân thủ các quy định của quốc gia ven biển). Quốc gia ven biển có quyền tài phán đối
với việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình; nghiên cứu khoa học

biển; bảo vệ và giữ gìn môi trường biển.
Bên cạnh đó, Công ước luật Biển năm 1982 cũng quy định rõ ở trong vùng đặc quyền kinh
tế của quốc gia ven biển, các quốc gia khác có một số quyền như quyền tự do hàng hải và
quyền tự do hàng không ở vùng trời trên vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển.
Thềm lục địa là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển
với chiều rộng tối thiểu là 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải.
Theo công ước, quốc gia ven biển có thể mở rộng thềm lục địa của mình đến tối đa 350 hải
lý kể từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2.500 m (đường nối
liền các điểm có độ sâu 2.500 m). Điều kiện để có thể mở rộng thềm lục địa quá 200 hải lý là
quốc gia ven biển phải trình Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của LHQ báo cáo quốc gia kèm
đầy đủ bằng chứng khoa học về địa chất và địa mạo của vùng đó. Thực hiện quyền này, các
quốc gia ven biển đã trình lên LHQ 60 báo cáo quốc gia khác nhau, trong đó có 5 báo cáo
chung - do 2 hoặc 3, 4 nước cùng làm báo cáo đối với một khu vực cụ thể. Ngày 6.5.2009,
Đại diện thường trực nước ta tại LHQ cùng với Đại diện thường trực Malaysia trình LHQ
báo cáo chung của Việt Nam và Malaysia về xác định ranh giới thềm lục địa ngoài 200 hải
lý ở nam biển Đông. Tiếp đó, ngày 7.5.2009, Đại diện thường trực nước ta tại LHQ đã trình
tiếp báo cáo riêng của Việt Nam về xác định thềm lục địa ngoài 200 hải lý ở khu vực phía
Bắc.
Công ước luật Biển năm 1982 quy định trong thềm lục địa của mình, quốc gia ven biển có
quyền chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên ở đó. Hiện
nay, các nước ven biển tập trung thăm dò, khai thác nguồn lợi dầu khí để phục vụ cho sự
nghiệp phát triển kinh tế. Trong tương lai, ngoài dầu và khí, các nước sẽ thăm dò và khai
thác các tài nguyên khác như quặng sắt, đồng, chì, thiếc… Đặc biệt, khoản 2, điều 77 của
công ước nhấn mạnh quyền chủ quyền đối với thềm lục địa mang tính đặc quyền ở chỗ nếu
quốc gia ven biển không thăm dò, khai thác thì cũng không ai có quyền khai thác tại đây,
nếu không được sự đồng ý của quốc gia ven biển.
4


Như vậy, các quy định của Công ước luật Biển năm 1982 về phạm vi cũng như quy chế pháp

lý các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia ven biển rất rõ ràng và
minh bạch. Phù hợp với quy định của Công ước, các quốc gia ven biển có các quyền hợp
pháp và chính đáng đối với mỗi vùng biển của mình. Khi thực hiện các quyền đó của mình,
mỗi quốc gia ven biển có nghĩa vụ tôn trọng các quyền tương tự của các quốc gia ven biển
khác. Đó là yêu cầu khách quan của trật tự pháp lý trên biển mà cộng đồng quốc tế đã cùng
nhau xây dựng nên. Các quyền và nghĩa vụ theo các cam kết quốc tế luôn luôn phải song
hành.
2. Quy chế pháp lý của vùng biển quốc tế và đáy biển quốc tế theo Công ước luật Biển
năm 1982
Vùng biển quốc tế: Theo luật biển quốc tế trước đây thì vùng biển quốc tế rất rộng, tức là
toàn bộ các khu vực biển nằm ngoài lãnh hải 3 hải lý của quốc gia ven biển. Với sự ra đời
của vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, phạm vi vùng biển quốc tế bị thu hẹp đáng kể. Theo
Công ước luật Biển năm 1982, vùng biển quốc tế là vùng biển nằm ngoài vùng đặc quyền
kinh tế 200 hải lý của các quốc gia ven biển. Ở vùng biển quốc tế, mọi quốc gia đều có
quyền tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do đặt dây cáp và ống ngầm, tự do đánh bắt cá
và tự do nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, khi thực hiện các quyền tự do này, các quốc gia
phải tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác cũng như phải tuân thủ các quy định liên quan
của Công ước luật Biển năm 1982 như bảo vệ môi trường biển, bảo tồn tài nguyên sinh vật
biển, an toàn hàng hải, hợp tác trấn áp cướp biển... Công ước quy định vùng biển quốc tế
được sử dụng vì mục đích hòa bình và không nước nào được phép đòi một khu vực nào đó
của vùng biển quốc tế thuộc chủ quyền của mình.
Đáy biển quốc tế (hay còn gọi là đáy đại dương) là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển
nằm bên ngoài thềm lục địa của quốc gia ven biển. Công ước luật Biển năm 1982 quy định
đáy biển quốc tế là di sản chung của nhân loại và không một quốc gia nào có quyền đòi hỏi
chủ quyền hay các quyền chủ quyền ở đáy biển quốc tế, kể cả tài nguyên ở đó. Đây cũng là
những quy định mới trong luật biển quốc tế hiện đại. Công ước luật Biển năm 1982 quy
định: khác với vùng biển quốc tế, ở đáy biển quốc tế các quốc gia không có quyền tự do khai
thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Để điều chỉnh mọi hoạt động liên quan đến đáy biển
quốc tế, Công ước luật Biển năm 1982 đã quy định thành lập một tổ chức quốc tế mới là Cơ
quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương.

Quy chế nói trên về đáy biển quốc tế là kết quả đấu tranh kiên trì của các nước đang phát
triển. Theo luật biển quốc tế trước đây quy chế pháp lý của đáy biển cũng là quy chế tự do,
tương tự như vùng biển quốc tế. Vào những năm 60 của thế kỷ 20, các nước đang phát triển
đã nỗ lực để cộng đồng quốc tế đi tới quy chế pháp lý này. Trong khi đó, một số nước nước
công nghiệp phát triển, hoàn toàn không ủng hộ việc có một quy chế pháp lý như vậy. Do
đó, vào những năm 90 của thế kỷ 20, trong khuôn khổ tham khảo không chính thức dưới sự
chủ trì của Tổng thư ký LHQ, các nước đã tiến hành thương lượng về nội dung của phần XI.
Kết quả thương lượng đó dẫn đến sự ra đời của Hiệp định năm 1994 về thực hiện phần XI
của công ước. Theo đó, một số điều khoản của Công ước luật Biển năm 1982 liên quan quy
chế pháp lý của đáy biển quốc tế đã có thay đổi nhất định để đáp ứng yêu cầu của các nước
phát triển.
5


3. Các cơ chế quốc tế để thực thi các quy định của Công ước luật Biển năm 1982
a) Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 họp thường niên để thảo
luận việc thực hiện công ước, bầu các cơ chế liên quan như Tòa án quốc tế về luật Biển, Cơ
quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương, Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa, xem xét và đánh
giá hoạt động của các cơ chế đó. Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm
1982 được tổ chức tại trụ sở LHQ ở New York vào khoảng tháng 6 hằng năm. Các quyết
định được hội nghị thông qua bằng đa số phiếu.
b) Tòa án quốc tế về luật Biển có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan giải thích
và thực hiện Công ước luật Biển năm 1982. Trụ sở của tòa án đặt tại Hamburg (Đức). Tòa có
21 thẩm phán với nhiệm kỳ 9 năm (có thể được bầu lại). Các thẩm phán của tòa án được Hội
nghị các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 bầu bằng bỏ phiếu kín. Cho đến
nay các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 đã trình 19 vụ việc lên Tòa án
quốc tế về luật Biển, trong đó 18 vụ liên quan tranh chấp giữa các quốc gia và 1 vụ Cơ quan
Quyền lực quốc tế về đáy đại dương xin ý kiến tư vấn của tòa. Dư luận cho rằng về lâu về
dài các quốc gia sẽ đưa nhiều vụ việc tranh chấp ra tòa nhiều hơn vì tòa án này có một số ưu
thế nhất định so với các cơ chế tư pháp quốc tế khác.

c) Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương có chức năng thay mặt toàn thể cộng đồng
quốc tế quản lý đáy biển quốc tế (cấp phép thăm dò tài nguyên ở đó, định ra các chính sách
thăm dò khai thác, phân chia thu nhập từ việc khai thác tài nguyên ở đáy biển quốc tế cho
cộng đồng quốc tế…). Các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 là thành viên
đương nhiên của Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương. Cơ quan Quyền lực quốc tế
về đáy đại dương đóng tại Kingston (Jamaica). Các cơ quan chính của Cơ quan Quyền lực
bao gồm Đại hội đồng với đại diện tất cả các quốc gia thành viên (tương tự như Đại hội
đồng LHQ), Hội đồng với 36 thành viên (nhiệm kỳ 4 năm) và Ban Thư ký do Tổng thư ký
đứng đầu.
d) Ủy ban Ranh giới thềm lục địa được trao chức năng xem xét các báo cáo quốc gia về ranh
giới ngoài thềm lục địa quá 200 hải lý, sau đó ra khuyến nghị đối với các báo cáo. Ủy ban có
21 thành viên được Hội nghị các thành viên công ước bầu với nhiệm kỳ 5 năm. Sau khi Ủy
ban có khuyến nghị, các quốc gia ven biển ấn định ranh giới thềm lục địa ngoài phạm vi 200
hải lý của mình. Tính đến ngày 5.6.2012, Ủy ban Ranh giới thềm lục địa đã nhận được 60
báo cáo quốc gia về thềm lục địa quá 200 hải lý, trong đó có Báo cáo chung giữa Việt Nam
và Malaysia về khu vực thềm lục địa phía nam biển Đông và Báo cáo riêng của nước ta về
thềm lục địa phía Bắc. Hằng năm Ủy ban tiến hành các kỳ họp tại trụ sở LHQ ở New York.
Do nội dung các báo cáo phức tạp và công việc xem xét các báo cáo thuộc dạng mới, nên
đến nay mặc dù đã rất cố gắng, nhưng Ủy ban mới ra khuyến nghị đối với 17 báo cáo. Với
tiến độ như vậy, dự kiến phải khoảng hai chục năm nữa Ủy ban mới ra được kết luận về tất
cả các báo cáo quốc gia. Vì thế, trong mấy năm gần đây các quốc gia thành viên Công ước
luật Biển năm 1982 đang cố gắng thương lượng để tìm các biện pháp thúc đẩy tiến độ công
việc của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa.
II. CÁC NGUYÊN TẮC LUẬT BIỂN VÀ PHƯƠNG PHÁP VẠCH ĐƯỜNG CƠ SỞ
THẲNG
6


1. CÁC NGUYÊN TẮC LUẬT BIỂN
Khi nhắc đến Luật biển thì những nguyên tắc không thể thiếu trong các quy định Luật đề

ra trong Công ước 1982 cũng nhưng trong Luật đề ra như: Nguyên tắc tự do biển cả, Nguyên
tắc đất thống trị trên biển,Nguyên tắc di sản chung của loài người, Nguyên tắc công bằng.
Những nguyên tắc trên đều được áp dụng cho các vùng biền thuộc chủ quyền của mỗi
quốc gia. Những vùng biển đó là : Nội thủy va Lãnh hải, Vùng tiếp giáp lãnh hai, Vùng đặc
khu kinh tế hay là biển cả đều có những quy định và nguyên tắc chung trong Công ước 1982.
Nổi bật trong vùng Lãnh hải ta có thể nhắc đến đó là Phương pháp xác định ranh giới
lãnh hải và xác định đường cơ sở thẳng dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
2. XÁC ĐỊNH RANH GIỚI VÀ VẠCH ĐƯỜNG CƠ SỞ THẲNG
a. Xác định ranh giới lãnh hải
Muốn xác định ranh giới lãnh hải của 1 nước , trước hết phải xác định được đường cơ sở
dùng để tính lãnh hải có được đường cơ sở rồi, chỉ cần vẽ tiếp một đường song song với
đường cơ sở và cách đường cơ sở một khoảng cách bằng chiều rộng lãnh hải đã được qui
định theo luật pháp của nước đó, là có được phạm vi ranh giới của lãnh hải một cách chính
xác. Nói cách khác xác định đường cơ sở dùng để tính lãnh hải tức là xác định đường ranh
giới phía trong của lãnh hải. vấn đề khó khăn nhất trong thực hiện là cách xác định đường
ranh giới phía trong của lãnh hải( đường cơ sở) như thế nào? Vì trên địa hình thực tế muôn
màu muôn vẻ, tồn tại nhiều vấn đề về đặc điểm thiên nhiên cần phải chú ý tới như bờ biển
thường ghồ ghề, khúc khuỷu có nhiều vịnh, vũng , cửa sông, lại có đảo, có nước thủy triều
lên xuống…….việc kẻ đường cơ sở dùng để tính lãnh hải có một ý nghĩa rất thiết thực, do
cách kẻ đường cơ sở mà một vùng biển có thể trở thành lãnh hải, hoặc một khu vực lãnh hải
có thể thàn vùng nội thủy.
b. Phương pháp vạch đường cơ sở
Đường cơ sở là đường ranh giới phía trong của lãnh hải và phía ngoài của nội thuỷ, do
quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo định ra phù hợp với công ước của Liên hợp
quốc về luật biển năm 1982 để làm cơ sở xác định phạm vi của các vùng biển thuộc chủ
quyền và quyền tài phán quốc gia (lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh
tế, thềm lục địa). Đường cơ sở thẳng
Hiện nay trên thế giới thường áp dụng 2 phương pháp chủ yếu để kể đường cơ sở dùng để
tính lãnh hải. phương pháp kẻ đường cơ sở theo ngấn nước thủy triều xuống thấp nhất và
phương pháp kẻ đường cơ sở theo các đoạn thẳng gẫy khúc.

Phương pháp kẻ đường cơ sở theo nguyên tắc ngấn nước thủy chiều xuống thấp nhất.
phương pháp này thường được áp dụng ở những nơi địa hình bờ biển bằng phẳng không lồi
lõm.
Phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng thường được áp dụng ở những nơi địa hình bờ biển
lồi lõm,khúc khuỷu, quanh co hoặc có nhiều hòn đảo gần bờ, ở đấy nước ngấn thủy triều
7


thấp nhất không thể hiện được rõ ràng, nên người ta chọn những điểm ở phía ngoài cùng của
các mũi,các điểm nhô ra nhất, các đảo ven bờ, mà khi nối liền chúng lại với nhau thành một
đường liên tiếp gãy khúc làm đường cơ sở để tính lãnh hải. đường cơ sở thẳng được xác định
bằng phương pháp nối liền bằng các đoạn thẳng những điểm thích hợp có thể được lựa chọn
ở những điểm ngoài cùng , nhô ra nhất của bờ biển, tại ngấn nước chiều thấp nhất. trước khi
được pháp điển hóa vào điều ước quốc tế, đường cơ sở thẳng là quy định của luật tập quán
quốc tế. phán quyết năm 1951 của Tòa án quốc tế trong vụ ngư trường Anh- Na uy được luật
quốc tế thừa nhận và được pháp điển hóa trong Điều 4 Công ước GiơNevề lãnh hải và vùng
tiếp giáp và điều 7 công ước luật biển 1982.cũng theo công ước này, các điều kiện cần tuân
thủ trong khi vạch đường cơ sở thẳng là tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa
hướng chung của bờ biển và các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn với đất
liền đủ đến mức được đặt dưới chế độ nội thủy. tuy nhiên, trong khi kẻ một số đoạn đường
cơ sở thẳng theo điều 7 của công ước 1982, quốc gia ven biển có thể tính đến những lợi ích
kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà tầm quan trọng của nó đã được sử dụng một quá trình
lâu dài chứng minh rõ ràng. Với đường cơ sở thẳng, cần lưu ý đến việc lựa chọn những điểm
xuất phát phải không từ bãi cạn nửa nổi nửa chìm, trừ trường hợp ở đó có những đèn biển
hoặc các thiết bị thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó
đã được sự thừa nhận chung của quốc tế, không được làm cho lãnh hải của một quốc gia
khác bị tách khỏi biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế.
Đường cơ sở thẳng là đường cơ sở nối liền các điểm thích hợp và được áp dụng “ở
những nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và
chạy dọc theo bờ biển”, hoặc “ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ

và do những điều kiện tự nhiên khác” (Điều 7, Công ước Luật biển 1982). Việc vạch đường
cơ sở thẳng phải tuân thủ hai điều kiện:
1. Tuyến đường cơ sở thẳng vạch phải đi theo xu hướng chung của bờ biển, và
2. Các vùng biển ở bên trong đường cơ sở này phải gắn với đất liền đủ đến mức đặt
dưới chế độ nội thủy, nghĩa là tuyến đường cơ sở thẳng vạch ra không được cách xa bờ.
Khi vạch ra đường cơ sở thẳng phải tuân thủ theo các hạn chế sau:
1. Các bãi cạn lúc nổi lúc chìm không được chọn làm các điểm cơ sở trừ trường hợp
ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô lên khỏi mặt nước,
hoặc việc kẻ đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế;
2. Khi vạch đường cơ sở thẳng phải lưu ý không được làm cho lãnh hải của một quốc
gia khác bị tách khỏi biển cả hay một vùng đặc quyền về kinh tế.
Đường cơ sở quần đảo: là đường cơ sở thẳng nối các điểm ngoài cùng của các đảo xa
nhất và các bãi đá nổi xa nhất của quần đảo. Đường cơ sở thẳng này phải bảo đảm các
điều kiện:
Khu vực trong đường cơ sở quần đảo phải có tỷ lệ diện tích nước so với đất, kể cả
vành đai san hô, từ tỷ số 1/1 đến 9/1.


8


Chiều dài các đường cơ sở này không vượt quá 100 hải lý; có thể có tối đa 3% tổng số
đường cơ sở dài quá 100 hải lý nhưng cũng không được quá 125 hải lý.
• Tuyến đường cơ sở không được tách xa rõ rệt đường bao quanh chung của hòn đảo.
• Đường cơ sở quần đảo không được phép làm cho lãnh hải của một quốc gia khác tách
rời khỏi biển cả hay vùng đặc quyền về kinh tế.


Đường cơ sở có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định ranh giới các vùng biển. Theo Công
ước Luật biển 1982, đường cơ sở được dùng để xác định nội thủy (vùng biển nằm phía bên

trong đường cơ sở), lãnh hải (12 hải lý tính từ đường cơ sở), vùng tiếp giáp (24 hải lý tính từ
đường cơ sở, vùng đặc quyền về kinh tế (200 hải lý tính từ đường cơ sở)…
Việt Nam tuyên bố đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải vào ngày 22-111982. Theo Tuyên bố của Chính phủ ngày 12 tháng 11 năm 1982 (sau đây gọi là Tuyên bố
82), hệ thống đường cơ sở của Việt Nam gồm 11 điểm có tọa độ xác định.
Hệ thống này thực tế là kiểu đường cơ sở thẳng và còn để ngỏ hai điểm: điểm 0 nằm trên
giao điểm giữa đường thẳng nối liền quần đảo Thổ Chu (Việt Nam) và đảo Poulowai (của
Campuchia) và đường phân định biên giới giữa hai bên trong vùng nước lịch sử; và điểm kết
thúc ở cửa vịnh Bắc Bộ là giao điểm đường cưa vịnh với đường phân dịnh biển trong vịnh
Bắc Bộ. Theo Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa trong
Vịnh Bắc Bộ giữa nước ta và CHND Trung Hoa ngày 25-12-2000, đường phân định biển
trong Vịnh Bắc Bộ và đường cửa vịnh đã được xác lập. Tuy nhiên, đường phân định trong
Vịnh Bắc Bộ chỉ là đường phân định lãnh hải (các điểm từ 1 đến 9) hoặc đường phân định
vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa (các điểm từ 9 đến 21) giữa hai nước. Như vậy,
theo tinh thần của Hiệp định, Vịnh Bắc Bộ là vịnh chung giữa hai nước, không phải là vịnh
lịch sử như trong các tuyên bố năm 1977 và 1982 của ta. Trong thời gian tới, ta sẽ phải xác
lập hệ thống đường cơ sở trong vịnh để xác lập nội thủy và các vùng biển khác của ta trong
Vịnh Bắc Bộ. Đây là trường hợp hiếm thấy trong tiền lệ phân định biển: Đường cơ sở được
xác lập sau đường ranh giới bên ngoài của lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa,
vì thông thường các đường ranh giới bên ngoài của lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa được xác lập sau khi đã xác lập được đường cơ sở.
Trong khi hoạt động trên biển, nhiều bà con thường thấy có phao số 0 và cho rằng đó là
biên giới quốc gia trên biển. Sự thực phao số 0 không phải là điểm mốc của đường biên giới
quốc gia trên biển. Nó chỉ là điểm đầu tiên của hệ thống mốc tiêu dẫn luồng vào cảng, được
đặt theo quy định của Luật Hàng hải. Đối với thực tế của Việt Nam ta, chiều dài bờ biển
khoảng 3260 KM, ven biển có nhiều mũi đá nhỏ ra ngoài biển , có nhiều đảo nhỏ ven bờ, và
cũng có những nhóm đảo tuy xa bờ, nhưng về mặt địa lý , hành chính, kinh tế và quốc phòng
vẫn có những quan hệ trực tiếp lâu đời với hệ thống đảo và bờ biển đất liền thì việc lựa chọn
đường cơ sở thẳng bằng cách “ nối liền các điểm nhô ra nhất của bờ biển và các điểm ở phía
ngoài cùng các đảo ven bờ của Việt Nam tính từ ngấn thủy triều thấp nhất trở ra là có đầy đủ
cơ sở pháp lý, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, cũng như với thực tiễn của Viêt

Nam.
9


IV.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT BIỂN QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM

a. Là một quốc gia ven biển, Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình thương lượng về
dự thảo Công ước luật Biển năm 1982. Việt Nam đánh giá cao việc hội nghị lần thứ III của
LHQ về luật Biển thông qua Công ước luật Biển năm 1982. Trong quá trình thương lượng
tại hội nghị, sự tập hợp lực lượng và sự đấu tranh về nội dung của dự thảo công ước diễn ra
từ góc độ các nhóm nước khác nhau: nhóm nước ven biển và nhóm nước không có biển,
nhóm nước đang phát triển và nhóm nước phát triển, nhóm nước nghèo và nhóm nước có
tiềm lực hải quân hùng mạnh… Lợi ích và quan tâm của các nhóm nước đối với quy chế
pháp lý các vùng biển rất khác nhau và nhiều lúc rất mâu thuẫn. Vì vậy, các quy định của
Công ước luật Biển năm 1982 không thể thỏa mãn tất cả các yêu sách mà các nhóm nước đặt
ra, nhưng về tổng thể đã dung hòa yêu cầu và quan tâm của các nhóm.
Sau khi Công ước luật Biển năm 1982 được thông qua, Việt Nam là một trong những quốc
gia đầu tiên ký công ước và ngày 23.6.1994, Quốc hội nước ta đã quyết định phê chuẩn văn
kiện pháp lý quan trọng này. Từ khi trở thành thành viên của Công ước luật Biển năm 1982,
nước ta đã tích cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các cơ chế quốc tế theo công
ước. Việt Nam đã được bầu làm Phó chủ tịch Đại hội đồng Cơ quan Quyền lực quốc tế về
đáy đại dương và thành viên của Hội đồng Cơ quan Quyền lực. Tại các diễn đàn liên quan,
Nhà nước ta luôn khẳng định trong hoạt động sử dụng biển các quốc gia phải tuân thủ đúng
các quy định trong công ước, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo công ước. Là một
quốc gia ven biển Đông, Nhà nước ta triển khai nhiều hoạt động khai thác các vùng biển
thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của mình để xây dựng và phát triển đất nước. Trong
khi tiến hành các hoạt động ở biển Đông, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của công
ước, tôn trọng quyền của các quốc gia khác ven biển Đông cũng như các quốc gia khác theo

đúng các quy định của công ước. Đồng thời Nhà nước ta cũng yêu cầu các quốc gia ven biển
Đông và các quốc gia khác tôn trọng các quyền lợi chính đáng của Việt Nam ở biển Đông.
Trong thực tế, có lúc đã xảy ra một số vụ việc xâm hại nghiêm trọng quyền chủ quyền của
Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của mình. Nhà nước ta đã kiên
quyết đấu tranh ở các cấp qua đường ngoại giao và dư luận cũng như trên thực địa để bảo vệ
quyền chủ quyền của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt
Nam.
b.Việt Nam nhận thức rõ ràng rằng trong việc sử dụng biển và áp dụng Công ước luật Biển
năm 1982 việc nảy sinh các bất đồng và tranh chấp giữa các quốc gia là điều khó tránh. Cách
thức duy nhất để giải quyết những sự khác biệt và các tranh chấp giữa các quốc gia liên quan
đến giải thích và thực hiện các quy định của công ước chính là sử dụng các biện pháp hòa
bình theo pháp luật quốc tế quy định. Giải quyết các tranh chấp biển bằng các biện pháp hòa
bình vừa là nghĩa vụ của các thành viên LHQ theo quy định của Hiến chương và vừa là
nghĩa vụ theo Công ước luật Biển năm 1982.
Chính vì vậy, Nghị quyết của Quốc hội nước ta về việc phê chuẩn Công ước luật Biển năm
1982 tuyên bố rõ Nhà nước Việt Nam chủ trương giải quyết các bất đồng liên quan đến biển
Đông bằng các biện pháp hòa bình, trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau,
tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước luật Biển năm 1982 của LHQ, tôn trọng
10


chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển Đông đối với vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ
bản lâu dài, các bên liên quan cần duy trì hòa bình, ổn định trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng,
không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử
dụng vũ lực.
Với chủ trương nhất quán và xuyên suốt đó, Nhà nước ta đã căn cứ vào các quy định của
Công ước luật Biển năm 1982 tiến hành đàm phán với các nước láng giềng về các vấn đề
liên quan biển Đông. Thời gian qua ta và một số nước láng giềng liên quan như Thái Lan,
Trung Quốc và Indonesia đã giải quyết một số tranh chấp về vùng đặc quyền kinh tế và thềm

lục địa chồng lấn. Năm 1997, ta và Thái Lan ký Hiệp định phân định vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa của hai nước trong vịnh Thái Lan. Năm 2000, ta và Trung Quốc ký Hiệp
định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong vịnh Bắc
bộ. Năm 2003, ta và Indonesia ký Hiệp định phân định thềm lục địa của hai nước ở phía nam
biển Đông. Sau khi có hiệu lực, các hiệp định này đã được lưu chiểu tại LHQ theo đúng quy
định của Hiến chương LHQ. Phù hợp với nghĩa vụ theo Công ước luật Biển năm 1982 và
các cam kết theo Tuyên bố năm 2002 giữa ASEAN và Trung Quốc về ứng xử của các bên ở
biển Đông, Nhà nước Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục hành động theo chủ trương tuân thủ
nghiêm ngặt các quy định của Công ước luật Biển năm 1982; đồng thời yêu cầu kêu gọi các
quốc gia khác tuân thủ nghĩa vụ này. Lập trường đó của Nhà nước Việt Nam đang nhận
được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế.

11


12



×