Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

KHÁI QUÁT VỀ THUẾ VÀ PHÁP LUẬT THUẾ KHÁI QUÁT VỀ THUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.79 KB, 17 trang )

A. MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển xã hội loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một
tất yếu khách quan, gắn liền với sự hình thành và phát triển của nhà nước.
Bằng quyền lực của mình nhà nước đã thu một phần của cải vật chất trong xã
hội để đảm bảo yêu cầu vật chất để tồn tại và hoạt động. Quan hệ thu và nộp
nguồn vật chất này chính là thuế.
B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ THUẾ VÀ PHÁP LUẬT THUẾ.
1. KHÁI QUÁT VỀ THUẾ.
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển về thuế.
Ở việt nam , thuế cũng xuất hiện từ thời đầu của chế độ phong kiến, mục
đích nhằm tập trung nguồn công quỹ cho nhà vua nhưng chủ yếu dưới dạng
cống vật. Ban đầu mới hình thành nên các loại thuế như thuế đò, thuế chợ,
thuế thổ sản… sang đến triều nhà nguyễn xuất hiện thuế xuất cảng, thuế nhập
cảng…hệ thống thuế thời phong kiến nhìn chung còn thiếu chuẩn mực về đạo
lý và pháp lý. Sang thời kỳ pháp thuộc , chính phủ pháp đặt ra nhiều loại thuế
mang tính chất vơ vết bóc lột. sau khi nước việt nam dân chủ cộng hòa ra
đời, song song với việc xóa bỏ hệ thống thuế phi nhân đạo ( thuế than, thuế
thổ trạch…) nhà nước dần dần hình thành nên hệ thống thuế mới ngày càng
ổn định và hoàn thiện hơn.
1.2. Định nghĩa và đặc điểm thuế.
* Định nghĩa: Các Mác viết: “ thuế là cơ sở của bộ máy nhà nước, là thủ
đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay tài sản của người dân để dùng
vào việc chi tiêu của nhà nước”. Ở khía cạnh nghiên cứu thuế với tư cách là
một nội dung điều chỉnh của pháp luật, các chuyên gia về luật thuế nhận định:
“ thuế là một trật tự đã được thiết lập hòa bình giữa chính phủ với cộng đồng
trong sự tôn trọng thực hiện nghĩa vụ thu nộp vào ngân sách. Thuế không có
bất kỳ sự phân biệt đối xử nào giữa các bang hay vùng lãnh thổ”.
Như vậy đặc điểm chung nhất về thuế là khoản thu nộp mang tính bắt
buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những
điều kiện nhất định.


*Đặc điểm thuế:

1


Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách nhà nước. tính
bắt buộc được thể hiện ở chỗ, đối với người nộp thuế, đây là nghĩa vụ chuyển
giao tài sản của họ cho nhà nước khi có đủ điều kiện mà không phải quan hệ
thanh toán dù trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng. đối với các cơ quan thu
thuế, có sự phan biệt đối xử đối với người nộp thuế.
Thứ hai, thuế gắn liền với yếu tố quyền lực . thuế xuất hiện cùng với sự
xuất hiện của nhà nước , thực hiện việc cung cấp cơ sở vật chất cho nhà nước
thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Bằng quyền lực chính trị, nhà
nước tạo ra cho thuế tính cố định, sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế, thuế
suất,…được quy định trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ gắn với yếu
tố quyền lực thuế mới đảm bảo hoàn thành nhiện vụ tạo nguồn thu nhập tài
chính cho quốc gia.
Thứ ba, thuế không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp. đâychính
là điểm quan trọng để phân biệt thuế với các khoản thu từ phí, lệ phí. Bất kỳ
đối tượng nào,khi đủ điều kiện đều phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước
không phân biệt họ đã nhận được lợi ích công cộng nào, một người chỉ phải
nộp phí, lệ phí khi đã nhận được một lợi ích nhất định từ phía nhà nước. nhà
nước thu thuế để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình, và kết quả đạt được là
các công trình công cộng phần tạo sự bình yên cho xã hội, đảm bảo an ninh
quốc gia và sự phát triển thịnh vượng các chế độ phúc lợi công cộng…đồng
thời, đối tượng thụ hưởng kết quả này lại chính là đối tượng nộp thuế. Nói
cách khác, người nộp thuế được hoàn trả một cách gián tiếp khoản tiền đã nộp
cho nhà nước.
2. KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT THUẾ.
2.1. Định nghĩa pháp luật thuế.

Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước để
thực hiện các mục tiêu xác định trước.
2.2. Một số đặc trưng về pháp luật thuế.
2.2.1. Đối tượng điều chỉnh của luật thuế.
Xác định đối tượng điều chỉnh của của luật thuế không có nghĩa xác định
đây là một ngành luật độc lập hay một lĩnh vực khoa học riêng biệt mà chỉ
2


nhằm xác định rõ nội dung nghiên cứu, đề cập trong một lĩnh vực pháp luật
cụ thể, một môn học luật.
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động và nội dung hoạt động của các chủ thể, đối
tượng điều chỉnh của pháp luật thuế bao gồm các nhóm quan hệ sau:
Nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý thuế: hoạt động quản lý
thuế bao gồm nhiều nội dung cụ thể khác nhau, tuy vậy bao giờ cũng gắn liền
với sự tham gia của nhà nước thể hiện thông qua các hành vi như: chấp hành
những quy định về thuế của các cơ quan có thẩm quyền, chống hiện tượng
chiếm dụng và trốn lậu thuế; xác đinh phạm vi người nộp thuế và các nguyên
tắc đánh thuế; xác định đúng đối tượng tính thuế và các căn cứ tính thuế…
Nhóm các quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. :
các tổ chức, cá nhân dù trực tiếp hay gián tiếp đều phải thực hiện nghĩa vụ
nộp thuế với nhà nước, pháp luật thuế điều chỉnh các hành vi như: thực hiện
đăng ký, kê khai thuế; thực hiện nộp thuế theo trình tự, tức là thực hiện một
trật tự phải tuân thủ trong suốt quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế; thực hiện
chế độ báo cáo thuế và các vấn đề liên quan đến cơ sở xác định số thuế phải
nộp với cơ quan có thẩm quyền….
Trong pháp luật thuế nhà nước với tư cách là chủ thể quyền lực, luô là một
bên tham gia quan hệ thuế và trực tiếp chi phối các quan hệ đó. Các quan hệ

đều hướng tới việc chuyển giao bắt buộc một nguồn tài chính cho ngân sách
nhà nước. quan hệ này luôn mang tính chấp hành và điều hành.
2.2.2. Phương pháp điều chỉnh của luật thuế.
Xuất phát từ tính chất cuẩ các quan hệ thuế do luật thuế điều chỉnh, để sự
tác động của pháp luật có hiệu quả, luật thuế sử dụng phương pháp mệnh lệnh
quyền uy.
Không có sự bình đẳng giữa cơ quan có thẩm quyền về thuế với người nộp
thuế. Nhà nước có quyền đơn phương đưa ra những quyết định theo ý chí của
mình mà không cần có sự thỏa thuận của các đối tượng còn lại. trường hợp
cần thiết nhà nước có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế, buộc đối tượng
nộp thuế phải thực hiện nghĩa vụ.
2.2.3 Các nguyên tắc cở bản của pháp luật thuế.

3


Theo nghiên cứu của một số học giả nổi tiếng về tài chính công và pháp
luật về thuế, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật thuế có thể phân chia thành
hai nhóm:
Các nguyên tắc có tính hiến định: đây là các nguyên tắc chung ít nhiều
được ghi nhận trong hiến pháp: nguyên tắc luật định; nguyên tắc bình đẳng
không phân biệt; nguyên tắc đánh thuế theo khả năng tài chính của người nộp
thuế; nguyên tắc tự do…
Các nguyên tắc không có tính hiến định: không được ghi nhận trong hiến
pháp nhưng làm cơ sở cho việc thể chế hóa bằng pháp luật : nguyên tắc lãnh
thổ; nguyên tắc không có hiệu lực hồi tố của luật thuế…
II. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT THUẾ.
1.Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn thu,
đáp ứng yêu cầu chi tiêu của nhà nước.
Thuế đóng vai trò quan trọng, nguồn thu từ thuế có vị trí quyết định trong

cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước ( chiếm khoảng 90% trong tổng thu
ngân sách nhà nước). theo quy định tại Khoản1 điều 2 luật ngân sách nhà
nước : “ thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí lệ phí…
các khoản thu khác theo quy định của pháp luật”. mặt khác theo quy định tại
điều 30, 31 luật ngân sách nhà nước quy định về nguồn thu của ngân sách
trung ương, nguồn thu của ngân sách địa phương đa phần các nguồn thu về
của ngân sách nhà nước được thu từ các loại thuế như: thuế giá trị gia tăng;
thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế xuất nhập khẩu; thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế
tài nguyên; thuế thu nhập cá nhân; thuế môn bài….
Theo kết quả theo dõi thuế quan qua các thời kỳ tồn tại và phát triển cho
thấy: thu từ thuế chiếm phần lớn tổng thu ngân sách nhà nước . Ở Việt Nam
từ những năm 1990 trở lại đây, nguồn thu từ thuế đáp ứng phần lớn các khoản
chi tiêu ngân sách nhà nước, đảm nhiệm hàng loạt cac yêu cầu chi tiêu cho bộ
máy nhà nước, cho cộng đồng xã hội : Tỷ lệ thuế trong tổng ngân sách nhà
nước năm 1999 chiếm 85,14%; năm 2001 chiếm 87,85%; năm 2003 chiếm
88%...(dẫn: chiến lược cải cách hệ thống pháp luật thuế giai đoạn
2001_2010).
Ngày 7.11.2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO,
chúng ta phải thực hiện cam kết về thủ tục nhập khẩu . mức cam kết chung:
4


chúng ta đồng ý rang buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế( 10.600 dòng).
Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn
13,4% thực hiện dần trung bình trong vòng 5_7 năm. Mức thuế bình quân đối
với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện
trong 5_7 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6 % thực hiện
trong vòng 5_7 năm. Việc cắt giảm thuế theo biểu thuế hiện hành đã ảnh
hưởng không nhỏ tới nguồn thu của ngân sách nhà nước . Vì vậy để cân đối
thu _chi ngân sách nhà nước chúng ta cần có những biện pháp đảm bảo thu_

chi một cách hợp lý.
Trong những năm qua, nguồn thu từ thuế vào ngân sách nhà nước đã huy
động được một phần lớn nguồn tài chính từ xã hội để đầu tư xây dựng các
công trình kết cấu hạ tầng- kinh tế; đầu tư hỗ trợ các doanh nghiệp; các sự
nghiệp giáo dục, y tế văn hóa thông tin văn học nghệ thuật, thể dục thể thao
khoa học công nghệ; quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội; hỗ trợ quỹ
bảo hiểm xã hội; trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội ….công tác
kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua kho bạc, hoạt động thanh tra, kiểm tra
tài chính đã được tăng cường, thực hiện công khai minh bạch quyết toán và
dự toán hàng năm.
Điều 8 luật ngân sách nhà nước quy định: “ ngân sách nhà nước được cân
đối theo nguyên tắc tổng thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi
thường xuyên và tích lũy ngày càng cao vào đầu tư phát triển” với những lý
do đó, bất kỳ quốc gia nào cũng cần phải có và mong muốn có được hệ thống
pháp luật thuế đầy đủ với tư cách là căn cứ pháp lý vững chắc để tạo nguồn
thu ổn định cho ngân sách nhà nước. mọi thay đổi về cơ cấu hệ thống luật
thuế, nội dung từng luật thuế đều ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả thu ngân
sách nhà nước.Vì vậy có thể khẳng định vai trò của pháp luật thuế trong việc
tạo căn cứ pháp lý hình thành nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước.
2.Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế,
thực hiện đường lối trong một thời kỳ nhất định của nhà nước.
Xét trên góc độ quốc gia đánh thuế thì thuế quan sẽ mang lại thu nhập cho
nước đánh thuế. Tuy nhiên đứng trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, thuế lại làm
giảm phúc lợi chung do nó làm giảm hiệu quả khai thác nguồn lực của nền

5


kinh tế thế giới, nó làm thay đổi cán cân thương mại, điều tiết hoạt động xuất
nhập khẩu của một quốc gia.

Thuế cao sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa và do đó
làm giảm lượng hàng hóa được tiêu thụ, kích thích tệ nạn buôn lậu. thuế quan
cao cũng là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng gian lận thuế, trốn thuế
( bởi khi trốn thuế hay gian lận thuế thì người ta phải bỏ ra một khoản tiền gọi
là chi phí để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế). Thuế xuất khẩu làm tăng giá hàng
hóa trên thị trường quốc tế và giữ giá thấp hơn ở thị trường nội địa. điều đó có
thể làm giảm lượng khách hàng ở nước ngoài do họ sẽ cố gắng tìm kiếm các
sản phẩm thay thế. Đồng thời, nó cũng không khích lệ các nhà sản xuất trong
nước áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ làm tăng năng suất,
chất lượng và giảm giá thành. Tuy nhiên, nếu khả năng thay thuế thấp , thuế
xuất khẩu sẽ không làm giảm nhiều khối lượng hàng hóa xuất khẩu và vẫn
mang lại lợi ích đáng kể cho nước xuất khẩu. Thuế nhập khẩu có vai trò quan
trọng trong việc bảo hộ thị trường nội địa, đặt biệt bảo hộ các ngành công
nghiêp non trẻ. Thuế nhập khẩu sẽ làm tăng giá trị hàng hóa, do vậy khuyến
khích các nhà sản xuất trong nước. tuy nhiên, điều đó cũng sẽ làm giảm khả
năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước. Thuế nhập khẩu có thể
giúp cải thiện thương mại của nước đánh thuế. Có thể có nhiều sản phẩm mà
giá của chúng không tăng đáng kể khi bị đánh thuế. Đối với các loại hàng hóa
này thuế quan có khuyến khích nhà sản xuất ở ngoài nước giảm giá. Khi đó
lợi nhuận sẽ được chuyển dịch một phần cho nước nhập khẩu. Tuy nhiên, để
đạt được điều đó, nước nhập khẩu phải là nước có khả năng chi phối đáng kể
đối với nhu cầu thế giới của hàng hóa nhập khẩu.
Chính sách thuế trong điều kiện hội nhập: nhìn chung chính sách thuế
quan của các quốc gia trong điều kiện hiện nay đều ảnh có ảnh hưởng nới
lỏng sự hạn chế thương mại , từng bước giảm dần các mức thuế trên cơ sở các
hiệp định đa phương và song phương. Thương lượng trong việc xây dựng
biểu thuế được coi như là một đặc trưng cơ bản của chính sách thuế xuất nhập
khẩu trong những thập kỷ gần đây. Sự hình thành của các liên minh thuế quan
đã có những ảnh hưởng nhất định đến lượng hàng hóa được trao đổi giữa các
nước trong liên minh thuế đã có tác dụng làm tăng đáng kể khối lượng thương

mại giữa các nước thuộc liên minh trong khi đó nó tạo ra một hàng rào ngăn
6


cản hàng hóa của các nước ngoài liên minh. Điều này dường như đã trở thành
một xu hướng trong việc hoạch định chính sách thuế quan hiện nay nhằm tự
do hóa thương mại giữa các nước trong khu vực và bảo hộ thị trường khu vực
trước sự cạnh tranh của hàng hóa đến từ bên ngoài. Trong trường hợp tự do
hóa thương mại, lợi ích thương mại cho các thành viên không còn là điều
phải tranh cãi vì mỗi quốc gia nhờ đó sẽ tận dụng triệt để những nguồn lực có
thế mạnh, loại bỏ những ngành sản xuất không hiệu quả đồng thời người dân
cũng được tiêu dùng những sản phẩm rẻ hơn với chất lượng tốt hơn. Trong
trường hợp bảo hộ thị trường khu vực, nếu chỉ xét trong một ngành duy nhất,
có thể có một số nước sẽ lâm vào tình trạng bất lợi do phải nhập khẩu những
sản phẩm của các nước trong liên minh giá cao hơn giá quốc tế. tuy nhiên,
liên minh thuế quan là một thỏa thuận hợp tác giữa các nước tham gia. Do
vậy, nếu như một nước chịu thiệt hại về một ngành nào đó thì đổi lại nó sẽ
được lợi từ một ngành khác trên cơ sở cân bằng về lợi ích giữa các thành
viên.
Nhà nước bằng pháp luật có khả năng quản lý điều tiết tới mọi mặt của đời
sống kinh tế xã hội. Bằng hệ thống pháp luật thuế, nhà nước thực hiện ý chí
của mình đối với đường lối phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thông qua đó
đảm bảo thực hiện công bằng xã hội.
ví dụ; với thuế giá trị gia tăng nhà nước có biểu thuế suất khác nhau đối
với những loại hàng hóa khác nhau để điều tiết nền kinh tế xã hội. cụ thể áp
dụng mức thuế xuất 0% đối với hàng hóa xuất khẩu; như vậy mức thuế xuất
này được áp dụng đối với cả hoạt động xuất khẩu tại chỗ, các dịch vụ xuất
khẩu khi đáp ứng điều kiện của luật, nhà nước áp dụng mức thuế suất 0% đối
với hàng hóa xuất khẩu thể hiện mục đích thúc đẩy xuất khẩu phát triển; bên
cạnh mức thuế suất 0% nhà nước còn áp dụng mức Thuế xuất 5% đối với các

hàng hóa dịch vụ ưu đãi, khuyến khích phát triển đầu tư. Các sản phẩm thiết
yếu ( như : thuốc, các trang thiết bị y tế….), … đều thuộc diện ưu đãi và áp
dụng mức thuế suất 5%. Thông qua việc áp dụng các loại thuế suất khác nhau
mà nhà nước thể hiện ý chí của mình trong đó. Đối với các loại hàng hóa,
dịch vụ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân thì mức thuế suất
thường ở mức thấp hơn. Điều này càng được thể hiện rõ hơn ở biểu thuế đối
với một số loại hàng hóa đặc biệt là đối tượng của điều chỉnh của luật thế tiêu
7


thụ đặc biệt. cụ thể mức thuế thấp nhất là 10% áp dụng đối với dầu thô và
condensate; quặng đồng và tinh quặng đồng là 30%…,. Chúng ta có thể thấy
được nhà nước nhà nước đã dùng chính sách thuế để điều tiết nền kinh tế
quốc gia, thể hiện đường lối phát triển kinh tế xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức, cá nhân có thể tồn tại và vận
động theo nhu cầu và lợi ích của chính họ, điều đó có thể tổn thương đến trật
tự xã hội cũng như định hướng của nhà nước trong từng giai đoạn, ở mỗi
quốc gia. Giải quyết vấn đề này, pháp luật thuế có thể làm thay đổi hoặc can
thiệp gián tiếp vào hoạt động và quyết định đầu tư của các chủ thể nhằm đạt
tới mục tiêu nhất định của nhà nước. Thông quan hệ thống pháp luật nhà nước
có thể thay đổi cơ cấu đầu tư, cơ cấu ngành kinh tế mà không cần can thiệp
hành chính. Để thực hiện cơ cấu đầu tư định trước, pháp luật thuế có những
quy định cụ thể khác nhau giữa nghĩa vụ thuế của đối tượng ưu tiên và đối
tượng hạn chế. Chính điều này sẽ làm ảnh hưởng đến cơ hội tìm kiếm thu
nhập của đối tượng đầu tư, qua đó có thể thay đổi luồng chu chuyển vốn từ
khu vực đầu tư này sang khu vực đầu tư khác. Pháp luật thuế, của Việt Nam
đều phản ánh rõ vai trò nêu trên.
Ví dụ: quy định về đánh thuế hay không đánh thuế, mức thuế suất khác
nhau đối với từng ngành nghề, các mặt hàng hay các loại thu nhập đều có thể
tác động đến các ngành nghề, qua đó bảo đảm sự phát triển cân đối ngành

nghề trong nền kinh tế.
Hệ thống pháp luật cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội, điều
chỉnh thu nhập trong những trường hợp cần thiết. việc tiêu dùng xã hội, ở mỗi
quốc gia có những định hướng khác nhau tùy theo điều kiện thực tế. pháp luật
thuế Việt Nam ghi nhận rõ sự hạn chế chi tiêu của các đối tượng đối với hàng
hóa, dịch vụ chưa thật sự phù hợp với giai đoạn hiện tại; trong khi đó lại
khuyến khích, tạo cơ hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối với
những hàng hóa dịch vụ thiết yếu của đời sống xã hội .
3. Nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật thuế để kiểm tra gián
tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh.
Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ thuế, các cơ quan quản lý thuế cùng
với đối tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ các quy định gắn với
chế độ chứng từ, hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình
8


thức kinh doanh, cơ cấu tổ chức… thông qua sổ sách, chứng từ hóa đơn cơ
quan quản lý thuế có thể đánh giá phần nào cơ cấu tổ chức và hoạt động của
các đơn vị kinh doanh từ đó nhà nước có thể nắm bắt thực tế tình hình để điều
tiết nền kinh tế ngày càng có hiệu quả hơn phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.
Để có được số liệu đầy đủ và chính xác đánh giá đúng thực trạng sản xuất
kinh doanh , chúng ta cũng cần thắt chặt khâu quản lý thuế. Cơ quan quản lý
thuế tăng cường giám sát quá trình kê khai nộp thuế giá trị gia tăng . tùy theo
từng loại đối tượng mà có những biện pháp kiểm tra phù hợp. với những hoạt
động kinh doanh thông thường, các chủ thể kinh doanh hàng tháng phải kê
khai đầy đủ chính xác thuế giá trị gia tăng với cơ quan thuế không phân biệt
có phát sinh nghĩa vụ thuế thực tế trong tháng hay không, đối tượng kê khai
phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung kê khai.
Với hoạt động nhập khẩu hàng hóa, cơ sở kinh doanh, người nhập khẩu có

trách nhiệm kể khai thuế giá trị gia tăng cho từng phần nhập khẩu cùng với
việc kê khai các thông tin khác liên quan đến hoạt động nhập khẩu. thông báo
thuế giá trị gia tăng của cơ quan hải quan với hàng hóa nhập khẩu thường gắn
với nghĩa vụ thuế khác liên quan đến nhập khẩu …. Thông qua nghĩa vụ kê
khai của các chủ thể nộp thuế để kiểm tra giám sát hoạt động kinh doanh của
cá nhân tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh.
Điều đó cũng có nghĩa rằng: bằng việc quy định những vấn đề liên quan
đến nghĩa vụ thuế, nhà nước gián tiếp quản lý nền kinh tế ; trên cơ sở đó có
hệ thống pháp luật được ban hàn, sửa đổi, bổ sung phù hợp với định hướng
trong từng giai đoạn ở tầm vĩ mô cũng như tìm biện pháp hỗ trợ phù hợp cho
các đối tượng nộp thuế ở tầm vĩ mô. Nhà nước quản lý nền kinh tế thông quan
hoạt động ban hành các quy phạm pháp luật phù hợp với yêu cầu của từng
giai đoạn cụ thể.
Ví dụ; nhà nước muốn hạn chế các mặt hàng thật sự không cần thiết như :
rượu từ 20độ trở lên từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 đến hết ngày 31 tháng 12
năm 2012 là 45%; đánh thuế 40% vào các dịch vụ vũ trường; matsxa,
karaoke là 30%… hay áp dụng mức thuế suất 65% đối với thuốc lá, xì gà và
các chế xuất từ cây thuốc lá … từ những ví dụ trên đây chúng ta có thể thấy
thông qua hoạt động quản lý thuế cơ quan nhà nước nắm bắt và giám sát hoạt
9


động sản xuất kinh doanh, để từ đó điều tiết nền kinh tế xã hội, tăng cường
đảm bảo công bằng xã hội ở mức tối ưu.
Mặt khác, cũng thông qua việc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế, các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng có khả năng phát hiện và xử lý kịp thời
những hành vi vi phạm pháp luật thuế nói riêng và vi phạm trong quá trình
hoạt động gắn liền với tư cách của đối tượng nộp thuế nói chung. Cơ quan
quản lý thuế thông qua hoạt động kiểm tra giám sát của mình có thể phát hiện
ra những những hành vi trốn thuế, gian lận thuế….từ việc phát hiện ra các

hành vi vi phạm pháp luật thuế từ đó tìm ra các biện pháp hữu hiệu để từ đó
hạn chế vi phạm. Đồng thời xử lý thật nghiêm khắc các hành vi vi phạm để
răn đe, tránh các hành vi vi phạm pháp luật thuế tiếp tục xảy ra.
Các quy đinh về thanh tra, kiểm tra thuế và xử lý vi phạm luật thuế. Đây là
những quy định thể hiện nhất vai trò, chức năng quản lý hành chính của nhà
nước đối với xã hội nói chung và đối với người nộp thuế nói riêng. Trước
đây, hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế thường được tiến hành trước khi người
nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, gọi là cơ chế “ tiềm kiểm” . tuy nhiên,
những nỗ lực trong quá trình cải cách hành chính thuế gần đây đã dẫn đến
việc chuyển đổi từ cơ chế “ tiền kiểm” sang cơ chế “hậu kiểm”, theo đó cơ
quan quản lý thuế chỉ tiến hành thanh tra, kiểm tra sau khi người nộp thuế đã
tự thực hiện các chủ thủ tục chính yếu của quá trình quản lý thuế như đăng ký
thuế, kê khai thuế, tính thuế và nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế xin miễn
giảm thuế. Dựa trên cơ sở kết quả thanh tra và kiểm tra, cơ quan thuế có
quyền áp dụng các chế tài xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật
thuế. Việc quy định theo hướng này không những làm giảm gánh nặng công
việc cho cơ quan quản lý thuế, đảm bảo tính hợp lý của quá trình quản lý thuế
mà còn tạo điều kiện để cơ quan thuế nâng cao tính chuyên nghiệp trong quá
trình thanh tra, kiểm tra thuế_ với tư cách là những công cụ quản lý thuế hiệu
quả nhất.
Bên cạnh những vai trò cơ bản trên đây pháp luật thuế còn đóng vai trò
làm cơ sở cho các đàm phán thương mại.
4. pháp luật thuế giúp nhà nước thực hiện các chính sách xã hội của
mình.

10


Ở việt nam, bên cạnh những vai trò chung đối với nền kinh tế xã hội ,
pháp luật thuế còn được nhà nước sử dụng như một công cụ thể hiện chính

sách xã hội.
Nhà nước điều tiết thu nhập, hạn chế khoảng cách giầu nghèo, góp phần
thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội. bằng việc quy định của pháp luật thuế,
nhà nước phát huy trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp của mỗi cá thể đối với
cộng đồng xã hội…
5. Từ phương diện quản lý nhà nước, pháp luật thuế được xem như
một công cụ hữu hiệu trong việc quản lý các hoạt động thu, nộp thuế
nhằm khai thác vai trò tích cực và hạn chế những tiêu cực của hoạt động này.
Quan hệ thuế, về bản chất là một quan hệ phân phối của cải dưới hình thức
giá trị nên tự thân nó là mảnh đất mầu mỡ làm nảy sinh các hiện tượng xã hội
tiêu cực làm phương hại đến lợi ích chung của cộng đồng.
Bởi vậy, bằng pháp luật, nhà nước đã đưa ra các “giới hạn hành lang” thiết
lập các “hàng rào quản lý” để các chủ thể có được sự tự do trong khuôn khổ.
Vượt ra ngoài khuôn khổ đó, đương nhiên họ sẽ phỉa chịu chế tài nghiêm
khắc.
6. Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế và công bằng xã hội.
Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các
ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự
bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thế nhân
và pháp nhân.
Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên
giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những
điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.
Vai trò điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của
pháp luật thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã
hội.
Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải
sử dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục những sự mất cân đối
về mặt xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng pháp

luật thuế làm công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Sự điều tiết
11


này thể hiện ở chổ thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước thực
hiện việc điều tiết thu nhập của các đối tượng nộp thuế và các thành viên
trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế trong hệ
thống thuế, vế thuế suất... đều có tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập
trong xã hội.
7. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thông qua pháp luật thuế
nhà nước tiến hành bảo hộ đối với nền sản xuất trong nước còn non yếu
về nhiều mặt nhằm tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm pháp
luật thuế theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống thuế và
thuế suất...Tuy vậy, việc thực hiện xu hướng chung đó không làm triệt tiêu
vai trò của pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong điều
kiện nền kinh tế thị trường.
III. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ PHÁP LUẬT THUẾ.
Thứ nhất, trong từng sắc thuế hiện hành vẫn còn các quy định không công
bằng và chưa bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế khác nhau, thuế nhìn
chung vẫn thiên về thực hiện chức năng bảo hộ ( thiếu khoa học và chọn lọc)
và thu ngân sách nhà nước là chủ yếu mà chưa chú trọng thỏa đáng đối với
các chức năng điều tiết kinh tế và hướng dẫn tiêu dùng của thuế,
Thứ hai, dưới góc độ hội nhập, có thể nhận thấy pháp luật thuế Việt Nam
hiện hành còn nhiều nội dung chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và chưa đảm
bảo tính tương thích với hệ thống thuế của các nước trong khu vực.
Thứ ba, pháp luật thuế của nước ta còn quá phức tạp, chồng chéo , thiếu
tính hệ thống, chưa thể hiện sự đơn giản, rõ ràng và minh bạch, đồng thời,
thiếu tính ổn định cần thiết do thường xuyên phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu
thực tế.

Thứ tư, hệ thống thuế đang phải phục vụ quá nhiều mục tiêu: kinh tế,
chính trị , văn hóa, giáo dục, xã hội , do đó mất đi tính trung lập cần thiết một
trong những yếu tố dẫn tới sự hiệu quả trong phân bổ nguồn lực.
Thứ năm, công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế có những
thành công bước đầu, song để đạt được mục tiêu đề ra thì còn rất nhiều việc
phải làm trong thời gian tới, cũng như công cuộc công cuộc cải cách hành

12


chính nói chung đang từng bước được triển khai thực hiện ở nước ta trong
giai đoạn này.
Thứ sáu, tính thực thi, hiệu quả của pháp luật thuế nhìn chung chưa cao ,
một số quy định gián tiếp làm phát sinh các hiện tượng tiêu cực xã hội ( các
khe hở pháp lý dẫn tới hiện tượng luồn lách luật)…
Khi Việt Nam gia nhập và đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức
quốc tế WTO phải xây dựng một hệ thống pháp luật thuế phù hợp với các
nguyên tắc của tổ chức này. Thuế phải thể hiện như một công cụ kích thích
và điều tiết sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp, góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Mặc dù đã có nhiều cải thiện nhưng hiện nay chính sách thuế
vẫn còn nhiều vướng mắc cần tiếp tục sửa đổi và cải cách cho phù hợp với
các nguyên tắc của WTO.
III. GIẢI PHÁP PHÁT HUY HIỆU QUẢ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT
THUẾ.
Khi việt nam thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt tham gia các tổ chức kinh tế
lớn thế giới như: WTO thì pháp luật thuế cần được chú ý hơn bao giờ, sau
đây là một số giải pháp nhằm phát huy hiệu quả pháp luật thuế hơn nữa.
Thứ nhất, giảm thuế suất tăng diện thu. Đứng trước yêu cầu giảm thuế

suất theo cam kết đã đưa ra, để đảm bảo đáp ứng cho thu chi ngân sách nhà
nước chúng ta cần tăng nguồn thu để đảm bảo cân đối giữa nhu cầu thu và chi
ngân sách. Hơn nữa, khi thuế suất cao cũng dễ dẫn tới các hành vi trốn thuế,
gian lận thuế. Như vậy thì dù thuế suất có cao nhưng nguồn thu của ngân sách
nhà nước từ thuế cũng không được thực hiện như mong muốn. vấn đề giảm
thuế suất sẽ làm cho người dân không do dự khi tham gia nghĩa vụ nộp thuế.
Với thuế suất cao, họ sẵn sàng bỏ ra một khoản chi phí khác để tránh được
nghĩa vụ nộp thuế; Khoản chi phí này cũng không được đưa vào quỹ ngân
sách nhà nước. Khi chúng ta thực hiện chính sách giảm thuế suất, những
người có nghĩa vụ nộp thuế sẽ cân nhắc giữa việc đóng thuế và bỏ ra chi phí
để trốn thuế thì điều gì sẽ đem lại nhiều lợi ích hơn cho họ. Đương nhiên, nếu
thuế phù hợp họ sẽ không ngần ngại bỏ tiền ra để đóng thuế theo quy định của
pháp luật.
13


Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về thuế. Một số vấn đề về thuế cần nghiên
cứu: luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mặc dù đã có nhiều chỉnh sửa nhưng
vẫn chưa đồng bộ, nội dung chưa bao quát hết các đối tượng và nguồn thu.
Thuế nhập khẩu ở nước ta vừa đánh theo tính chất hàng hóa, vừa đánh theo
mục đích sử dụng dễ tạo ra những sơ hở, bất hợp lý để cho các đối tượng làm
ăn bất chính triệt để lợi dụng. so với các nước khác, biểu thuế của Việt Nam
vẫn còn phức tạp, bao gồm hàng trục nghìn dòng thuế, nhiều nhóm hàng, mặt
hàng có nhiều mức thuế suất khác nhau: giữa các mức thuế lại có sự chênh
lệch rất lớn vừa không phù hợp với xu thế hội nhập, vừa tạo kẽ hở để đối
tượng nộp thuế lợi dụng trốn thuế.
Ví dụ, cùng một loại hàng hóa nhưng lúc nhập khẩu chỉ cần khai báo sai
lệch đặc tính của chúng là có thể được hưởng mức thuế suất có lợi hơn hoặc
chỉ cần khai đặc tính của loại hàng hóa có thuế suất thấp, nhưng sau khi nhập
khẩu sẽ cải tạo thay đổi kết cấu thành loại hàng hóa có trị giá cao hơn. Do

vậy, cần tiếp tục sửa đổi các biểu thuế suất.
Thứ ba, vấn đề cho nợ thuế kéo dài, cơ chế quản lý hàng tạm nhập tái
xuất, hoàn thuế VAT cùng với thủ tục thành lập, giải thể công ty lỏng lẻo…là
những sơ hở để các đối tượng xấu triệt để khai thác trốn thuế. Đặc biệt lợi
dụng chính sách ân hạn thời gian nộp thuế nhưng không có chế tài ràng buộc
đã làm đối tượng này chây ỳ, chiếm đoạt tiền thuế xuất nhập khẩu ngày một
dài thêm. Theo ước tính hiện nay có số tiền thuế xuất nhập khẩu trên cả nước
( khoảng 3.000 tỷ đồng) còn nợ đọng kéo dài, khả năng không thể thu hồi.
Đề nghị bãi bỏ thời gian ân hạn thuế quy định trong luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu. chỉ nên dùng một trong hai hình thức: nộp thuế ngay hoặc có
bảo lãnh của tổ chức tín dụng trước khi thông qua hàng hóa.
Thứ tư, tăng cường việc giáo dục người dân có ý thức trách nhiệm trước
nghĩa vụ nộp thuế. Thông qua việc chi ngân sách có hiệu quả cũng làm cho
người dân ý thức được trách nhiệm của họ, bởi không cần biết họ nhận được
lợi ích công cộng nào hay chưa họ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của
mình. Tuy nhiên, kết quả của việc sử dụng các khoản thu từ thuế chủ yếu là
những sản phẩm công. Và những sản phẩm này lại được thụ hưởng bởi chính
những đối tượng nộp thuế, đó là sự yên bình xã hội, sự phát triển và thịnh
vượng, chế độ phúc lợi công cộng… thực tế cho thấy, nhà nước sử dụng
14


nguồn thu ngân sách chưa thực sự hiệu quả. ví dụ: như các công trình dự án
xây dựng có nguồn chi từ ngân sách nhà nước thường có chất lượng không
cân đối với số chi phí bỏ ra. Tiền được chi từ ngân sách nhà nước thường
chậm trễ so với êu cầu của thực tiễn. như vậy, muốn nâng cao ý thức trách
nhiệm của người dân thì trước tiên nhà nước cần phải sử dụng nguồn thu ngân
sách nhà nước một cách có hiệu quả đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của
người dân.
Trình độ nhận thức và thái độ chấp hành của người nộp thuế. Người nộp

thuế chính là đối tượng trực tiếp thực hiện chính sách, pháp luật về thuế. Cho
dù hệ thống chính sách, pháp luật hoàn thiện, phương pháp, hình thức quản lý
đổi mới, cán bộ thuế đáp ứng năng lực trình độ song vẫn không thể ngăn chặn
việc trốn thuế, lậu thuế nếu người nộp thuế thiếu ý thức chấp hành nghĩa vụ
nộp thuế. Do đó để hoàn thiện nhiệm vụ đặt ra, một mặt cần hoàn thiện hệ
thống chính sách, pháp luật; mặt khác, phải tuyên truyền giáo dục, vận động
người nộp thuế tự giác chấp hành đúng nghĩa vụ và quyền lợi của họ.
Thứ năm, để có thể phát huy hiệu quả vai trò điều tiết kinh tế quốc gia đòi
hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo
và phân tích tình hình, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến
động trên thị trường thế giới.
Thứ sáu, nâng cao năng lực của cơ quan thuế, sắp xếp lại tổ chức bộ máy
cơ quan thuế, đào tạo và đào tạo lại công chức ngành thuế theo hướng chuyên
môn, chuyên nghiệp đáp ứng được yêu cầu công việc trong điều kiện hội nhập
với thế giới.
Thứ bẩy, cần ban hành ngay các loại thuế như: thuế hạn nghạch, thuế
chống trợ cấp, thuế phản kháng…để chống lại “ cuộc chiến thương mại” được
núp bóng tinh vi trong cái “áo khoác” tự do thương mại và toàn cầu hóa.
C.KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Như vậy qua nghiên cứu vấn đề vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện
nay, chúng ta đã thấy được vai trò của nó trong quá trình hội nhập kinh tế và
hội nhập quốc tế. Song bên cạnh đó còn những điểm bất cập nhất định cần
phải đề ra những giải pháp phù hợp nhằm năng cao vai trò hơn nữa của thuế
trong điều kiện thưc tiễn đất nước và thế giới.

15


MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU....…………………………………………………………………

B.NỘI DUNG………………………………………………………………….
I.KHÁI QUÁT VỀ THUẾ VÀ PHÁP LUẬT THUẾ.
1. KHÁI QUÁT VỀ THUẾ.
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển về thuế……………………………..
1.2. Định nghĩa và đặc điểm thuế……………………………………………..
2.KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT THUẾ……………………………………….
2.1. Định nghĩa pháp luật thuế………………………………………………..
2.2. Một số đặc trưng về pháp luật thuế……………………………………...
2.2.1.
Đối
tượng
điều
chỉnh
của
luật
thuế…………………………………….
2.2.2. Phương pháp điều chỉnh của luật thuế…………………………..……
2.2.3 Các nguyên tắc cở bản của pháp luật thuế……………………..………
II. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT THUẾ.
1.Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn thu,
đáp ứng yêu cầu chi tiêu của nhà nước……………………………………
2.Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế,
thực hiện đường lối trong một thời kỳ nhất định của nhà nước………..
3.Nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật thuế để kiểm tra gián tiếp
hoạt động sản xuất kinh doanh……………………………………………
4. pháp luật thuế giúp nhà nước thực hiện các chính sách xã hội của
mình. …………………………………………………………………………
5. Pháp luật thuế được xem như một công cụ hữu hiệu trong ………….
6. Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa ……….
7. Pháp luật thuế nhà nước tiến hành bảo hộ đối với nền sản xuất trong

nước còn non yếu về nhiều mặt nhằm tăng cường sức cạnh tranh ………
III. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ PHÁP LUẬT THUẾ…………………………
III. GIẢI PHÁP PHÁT HUY HIỆU QUẢ VAI TRÒ ………………………..
D.KẾT THÚC VẤN ĐỀ………………………………………………………

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2011.
2.Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tài chính, Hà Nội, 2007.
3. LUẬT:
Luật NSNN năm 2002. Luật quản lí thuế năm 2006.;Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu năm 2005.; Luật thuế TTĐB năm 2008.; Luật thuế GTGT năm
2008.; Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008.
4. Các nghị định hướng dẫn thi hành những văn bản pháp luật nêu trên và các
nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế
5. “Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật thuế Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Đề tài
khoa học cấp trường năm 2008.
6.Phạm Thị Giang Thu, “Những yêu cầu và mục tiêu cơ bản của việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật thuế ở Việt Nam”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số
3, tháng 3/2008.
7.Nguyễn Lan Hương, “Hoàn thiện pháp luật thuế tài sản ở Việt Nam”, Tạp
chí luật học, số 5/2009.
8.WEB:
1.
2.
3. www.tailieu.vn


17



×