Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Mức độ phù hợp của các quy định hiện hành với cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến mô hình các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.44 KB, 20 trang )

ĐỀ BÀI
Bình luận mức độ phù hợp của các quy định hiện hành với cam kết quốc tế của
Việt Nam liên quan đến mô hình các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường
chứng khoán Việt Nam.

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
LCK : Luật chứng khoán 2006 (sửa đổi, bổ sung 2010)
TTCK : Thị trường chứng khoán
UBCKNN : Ủy ban chứng khoán nhà nước
TNHH : trách nhiệm hữu hạn

1


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung …………………………………………………………………. 4
1. Các quy định của pháp luật hiện hành về mô hình các chủ thể kinh doanh
chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt nam. ……………………………4
a. Công ty chứng khoán……………………………………………………....4
b. Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. ………………………………...5
c. Công ty đầu tư chứng khoán. ……………………………………………...5
d. Các chủ thể khác …………………………………………………………..6
2. Các cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến mô hình chủ thể kinh doanh
chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam. ……………………………6
a. Công ty chứng khoán ……………………………………………………...8
b. Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán …………………………………9
c. Công ty đầu tư chứng khoán ………………………………………………9
d. Các chủ thể khác …………………………………………………………10
II. Mức độ phù hợp của các quy định hiện hành với cam kết quốc tế của Việt


Nam liên quan đến mô hình các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị
trường chứng khoán Việt Nam ………………………………………………….. 10
1. Về hình thức của các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng
khoán Việt Nam. ………………………………………………………………..10
2. Về thủ tục thành lập, tổ chức và hoạt động của các chủ thể kinh doanh chứng
khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam. …………………………………11
III. Phương hướng hoàn thiện …………………………………………………….16
C. KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


A. MỞ ĐẦU
Kinh doanh chứng khoán là một hoạt động quan trọng và chủ yếu trên thị trường
chứng khoán, và nhân tố không thể không kể đến khi nói đến hoạt động kinh doanh
chứng khoán đó là “chủ thể kinh doanh chứng khoán”.
Pháp luật Việt Nam hiện hành cũng đã quy định rõ về các loại chủ thể kinh
doanh chứng khoán cùng với những nội dung kinh doanh được phép tiến hành cho
mỗi loại chủ thể. Theo đó, pháp luật Việt Nam quy định các mô hình chủ thể kinh
doanh chứng khoán bao gồm: công ty chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán,
công ty quản lý quỹ đầu tư và một số chủ thể cung cấp dịch vụ khác có liên quan.
Nhưng trong thời điểm hiện nay, khi xu hướng toàn cầu hóa là tất yếu, và với
việc Việt Nam tham gia rất nhiều các cam kết quốc tế, trong đó có các cam kết quốc
tế về các lĩnh vực dịch vụ tài chính, thì câu hỏi đặt ra là liệu các mô hình chủ thể kinh
doanh chứng khoán ở Việt Nam có đầy đủ, giống với trên thế giới và các văn bản
Việt Nam tham gia ký kết với nước ngoài không? Bài tiểu luận dưới đây trình bày về
vấn đề: “Bình luận mức độ phù hợp của quy định hiện hành với cam kết quốc tế của
Việt Nam liên quan đến mô hình các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường
chứng khoán Việt Nam.” Bài viết phân tích về các mô hình chủ thể, đưa ra những

nhận xét pháp lý và phương hướng hoàn thiện.

3


B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung
1. Các quy định của pháp luật hiện hành về mô hình các chủ thể kinh
doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt nam.
Theo quy định tại khoản 19 điều 6 LCK thì “Kinh doanh chứng khoán là việc
thực hiện các nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát
hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu
tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán”. Như vậy, chủ thể kinh
doanh chứng khoán là các pháp nhân được pháp luật cho phép thực các nghiệp vụ
trên trong lĩnh vực chứng khoán.
Chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh, dịch vụ trên thị trường chứng khoán có
nhiều loại chủ thể kinh doanh khác nhau như: công ty chứng khoán, công ty quản lý
quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và một số chủ thể khác có cung
cấp các dịch vụ có liên quan.
a. Công ty chứng khoán.
Công ty chứng khoán là một tên gọi chỉ một loại doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực chứng khoán. Đây là loại chủ thể kinh doanh chứng khoán chủ
yếu và quan trọng nhất.
Hiện nay, tại Luật chứng khoán Việt Nam không có định nghĩa về công ty
chứng khoán. Tuy nhiên, qua các quy định cụ thể trong Luật chứng khoán có thể khái
quát định nghĩa về công ty chứng khoán như sau: Công ty chứng khoán là công ty cổ
phần hoặc công ty TNHH được thành lập, hoạt động theo Luật chứng khoán và các
các quy định của pháp luật có liên quan để thực hiện một, một số hoặc toàn bộ
nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán dưới đây theo giấy phép do UBCKNN cấp: Môi
giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn

đầu tư chứng khoán.
* Đặc điểm của công ty chứng khoán:

4


-

Hoạt động kinh doanh chứng khoán là hoạt động thường xuyên, có tính nghề

nghiệp của công ti chứng khoán (cụ thể tại điều 60 Luật chứng khoán Việt Nam).
-

Hình thức tổ chức: công ti cổ phần hoặc công ti TNHH;

-

Phương diện quản lý nhà nước: Công ty chứng khoán chịu sự quản lý, giám sát

trực tiếp của UBCKNN;
-

Pháp luật điều chỉnh: Luật chứng khoán Việt Nam.
Đồng thời Luật chứng khoán Việt Nam có quy định cụ thể các điều kiện cấp

giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty chứng khoán tương tự như pháp luật
các nước khác.
b. Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.
Công ty quản lý quỹ là doanh nghiệp theo mô hình công ty cổ phần hoặc công ty
TNHH được thành lập để hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và một số hoạt

động kinh doanh khác có liên quan.
* Đặc điểm của công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán:
-

Được thành lập và hoạt động theo sự cho phép của UBCKNN

-

Nghiệp vụ kinh doanh của công ty quản lý quỹ bao gồm: quản lý quỹ đầu tư

chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán
(khoản 1 điều 61 LCK). Hoạt động chính của công ty quản lý quỹ là hoạt động quản
lý quỹ đầu tư chứng khoán theo sự ủy thác của các nhà đầu tư vào quỹ hoặc sự ủy
thác của các nhà đầu tư riêng lẻ. Hoạt động quản lý quỹ đầu tư bao gồm việc nắm giữ
tài sản của quỹ, trực tiếp tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán từ nguồn vốn của
quỹ, quản lý danh mục đầu tư của quỹ…
c. Công ty đầu tư chứng khoán.
Công ti đầu tư chứng khoán là công ti được thành lập từ vốn góp của nhà đầu tư
và sử dụng số vốn đó đầu tư chủ yếu vào chứng khoán, nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
* Đặc điểm của công ty đầu tư chứng khoán:
-

Các nhà đầu tư là cổ đông của công ti đầu tư chứng khoán.

5


-

Cổ phiếu có thể được chào bán riêng lẻ hoặc chào bán ra công chúng tuỳ thuộc


hình thức của công ti đầu tư chứng khoán đại chúng hay riêng lẻ.
-

Có tư cách pháp nhân.

-

Có bộ máy hoàn chỉnh; tự quản lý hoạt động đầu tư của mình.

-

Việc huy động vốn thành lập công ti do công ti đảm nhiệm.
Theo Điều 97 Luật chứng khoán đã được sửa đổi bổ sung thì công ty chứng

khoán được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp để đầu
tư chứng khoán và Ủy ban chứng khoán nhà nước sẽ cấp giấy phép hoạt động cho
loại hình công ty này.
Công ty đầu tư chứng khoán được thực hiện các hoạt động cụ thể theo Luật
chứng khoán: tuân thủ các hạn chế về đầu tư theo quy định về hạn chế đầu tư tại Điều
92 cùng Luật; các nội dung liên quan đến định giá tài sản và báo cáo tài sản quy định
tại Điều 88, 89.
d. Các chủ thể khác
Ngoài các chủ thể trên, theo quy định của pháp luật còn một số chủ thể khác
được pháp luật cấp phép hoạt động trong một số nghiệp cụ nhất định của kinh doanh
chứng khoán, chủ yếu là lưu ký chứng khoán. Các chủ thể này có thể là Trung tâm
lưu ký chứng khoán, các ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm,…
Ngoài nghiệp vụ lưu ký chứng khoán, các ngân hàng thương mai hay công ty
bảo hiểm muốn thực hiện các nghiệp vụ khác trong kinh doanh chứng khoán đều phải
thành lập những công ty con là công ty chứng khoán thì mới được UBCKNN cấp

phép để hoạt động.
2. Các cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến mô hình chủ thể kinh
doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Khi gia nhập WTO Việt Nam đã ký kết các cam kết quan trọng, trong đó có cam
kết WTO về Ngân hàng – Chứng khoán, Việt Nam cam kết cho phép nhà đầu tư nước
ngoài tham gia cung cấp các dịch vụ chứng khoán sau tại Việt Nam:

6


1. Giao dịch cho tài khoản của mình hoặc tài khoản của khách hàng tại sở giao
dịch chứng khoán, thị trường giao dịch trực tiếp (OTC) hay các thị trường
khác những sản phẩm sau:
-

Các công cụ phái sinh, bao gồm cả hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền lựa

chọn;
-

Các chứng khoán có thể chuyển nhượng;

-

Các công cụ có thể chuyển nhượng khác và các tài sản tài chính, trừ vàng khối.

(Các dịch vụ này bao gồm cả nghiệp vụ môi giới)
2. Tham gia vào các đợt phát hành mọi loại chứng khoán, bao gồm bảo lãnh
phát hành, và làm đại lý bán (chào bán ra công chúng hoặc chào bán riêng), cung cấp
các dịch vụ liên quan đến các đợt phát hành đó);

3. Quản lý tài sản (bao gồm quản lý danh mục đầu tư, mọi hình thức quản lý
đầu tư tập thể, quản lý quỹ hưu trí, các dịch vụ lưu ký và tín thác);
4. Các dịch vụ thanh toán và thanh toán bù trừ chứng khoán, các công cụ phái
sinh và các sản phẩm liên quan đến chứng khoán khác;
5. Cung cấp và chuyển thông tin tài chính, các phần mềm liên quan của các nhà
cung cấp dịch vụ chứng khoán.
Ngoài ra, Việt Nam cam kết cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài, các
nhà đầu tư nước ngoài hoạt động chứng khoán ở Việt Nam dưới các hình thức và
điều kiện sau đây:
-

Văn phòng đại diện (với điều kiện các văn phòng đại diện không được thực

hiện các hoạt động kinh doanh sinh lời trực tiếp);
-

Liên doanh với đối tác Việt Nam (với điều kiện tỷ lệ vốn góp của phía nước

ngoài không vượt quá 49%);
-

Doanh nghiệp chứng khoán 100% vốn nước ngoài (kể từ 11/1/2012);

-

Chi nhánh của công ty chứng khoán nước ngoài (kể từ 11/1/2012 và kèm theo

điều kiện hoạt động của chi nhánh chỉ giới hạn ở cung cấp các dịch vụ quản lý tài

7



sản, thanh toán và thanh toán bù trừ chứng khoán, cung cấp và chuyển thông tin tài
chính, các phần mềm liên quan.
Như vậy, đối với mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán mặc dù không chỉ
chính xác tên các loại hình nhưng cũng thể hiện thiện chí của Viêt Nam khi tiến hành
ký các cam kết. Theo những cam kết này, Việt Nam gián tiếp thừa nhận các mô hình
chủ thể đặc trưng của hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Tuy nhiên, để đưa ra một cách nhìn toàn diện, chi tiết hơn về mô hình chủ thể
kinh doanh chứng khoán, mức độ phù hợp theo quy định hiện hành của Việt Nam thì
có thể tìm hiểu về mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán chung trên thế giới.
a. Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là tổ chức hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực chứng
khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai mô hình tổ chức của công ty chứng khoán: mô
hình công ty đa năng và mô hình công ty chuyên doanh.
Thứ nhất: Theo mô hình công ty đa năng là loại công ty chứng khoán được
thực hiện nhiều nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán thuộc về nhiều công ty chứng
khoán khác nhau. Mô hình này có ưu điểm là có thể bổ trợ, bổ sung cho nhau giữa
các nghiệp vụ, các lĩnh vực khác nhau nên sức “chống chịu” với những thay đổi cũng
lớn hơn, phù hợp với những thị trường chứng khoán mới hình thành hoặc những thị
trường chứng khoán nhỏ, chưa phát triển. Tuy nhiên, mô hình này có nhược điểm là
kĩ năng nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán không mạnh, dẫn đến xung đột lợi ích
giữa các nghiệp vụ các lĩnh vực, Nhà nước khó khăn trong việc quản lý và giám sát
hoạt động của công ty chứng khoán, dễ dẫn đến rủi ro và tác động dây chuyền cho cả
hệ thống tài chính (bởi mô hình này thường do các ngân hàng, các công ty bảo hiểm
thực hiện, mà các chủ thể này có vai trò và tác động rất lớn đến thị trường tài chính).
Thứ hai: Mô hình công ty chuyên doanh kinh doanh chứng khoán do các công
ty chứng khoán độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận. Mô
hình này có ưu điểm là tạo cho công ty chứng khoán có tính chuyên môn hóa, chuyên

8


nghiệp cao, hạn chế được xung đột lợi ích giữa các nghiệp vụ kinh doanh trong một
công ty chứng khoán. Đồng thời Nhà nước dễ quản lý, giám sát hoạt động của các
công ty chứng khoán, giảm bớt rủi do trong hệ thống tài chính (cụ thể là hệ thống
ngân hàng) chính điểm này đã khắc phục được hạn chế của mô hình đa năng, tạo điều
kiện cho các công ty chứng khoán kinh doanh chuyên môn hoá, thúc đẩy sự phát
triển thị trường chứng khoán. Tuy nhiên mô hình này chỉ phù hợp với nền kinh tế có
thị trường chứng khoán phát triển.
Ngày nay với sự phát triển của thị trương chứng khoán, để tận dụng thế mạnh
của lĩnh vưc tiền tệ và chứng khoán, bằng cách cho phép hình thành mô hình công ty
đa năng một phần – các ngân hàng thương mại thành lập công ty con để chuyên kinh
doanh chứng khoán.
b. Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán
Công ty quản lý quỹ là công ty thực hiện việc điêu hành, quản lý các quỹ đầu tư
phù hợp với điều lệ quỹ và làm tăng giá trị tài sản quỹ.
Khách hàng của công ty quản lý quỹ thường là các nhà đầu tư có tổ chức: các
quỹ đầu tư chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty tài chính…chức năng của công ty
quản lý quỹ là thực hiện việc đầu tư theo sự uỷ thác của khách hàng sao cho phù hợp
với mục tiêu đầu tư của quỹ mà khách hàng đã lựa chọn.
c. Công ty đầu tư chứng khoán.
Công ti đầu tư chứng khoán là công ti được thành lập từ vốn góp của nhà đầu tư
và sử dụng số vốn đó đầu tư chủ yếu vào chứng khoán, nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
* Đặc điểm của công ty đầu tư chứng khoán:
-

Các nhà đầu tư là cổ đông của công ti đầu tư chứng khoán.

-


Cổ phiếu có thể được chào bán riêng lẻ hoặc chào bán ra công chúng tuỳ thuộc

hình thức của công ti đầu tư chứng khoán đại chúng hay riêng lẻ.
-

Có tư cách pháp nhân,

-

Có bộ máy hoàn chỉnh; tự quản lý hoạt động đầu tư của mình.

-

Việc huy động vốn thành lập công ti do công ti đảm nhiệm.
9


d. Các chủ thể khác
Ngoài các chủ thể trên, chủ thể kinh doanh chứng khoán còn có:
- Công ty lưu ký và thanh toán bù trừ: là công ty thực hiện cung cấp dịch vụ lưu ký
và thanh toán bù trừ cho các giao dịch trên thị trường chứng khoán.
- Ngân hàng thương mại: tham gia kinh doanh chứng khoán thông qua thực hiện
các nhiệm vụ: đầu tư chứng khoán, lưu ký, thanh toán trên thị trường chứng khoán.
- Các tổ chức trung gian tài chính khác: công ty bảo hiểm, các quỹ lương hưu…
các công ty này huy động vốn thông qua các nghiệp vụ kinh doanh đặc thù của nó (ví
dụ: công ty bảo hiểm huy động thông qua bán hợp đồng bảo hiểm, các quỹ hưu trí
vốn do các thành viên đóng góp theo định kỳ…) với số vốn huy động được các công
ty này sẽ thực hiện đầu tư vào lĩnh vực tài chính, chủ yếu là vào thị trường chứng
khoán. Vì vậy, trên thị trường chứng khoán các công ty này là các nhà đầu tư có tổ

chức.
II. Mức độ phù hợp của các quy định hiện hành với cam kết quốc tế của Việt
Nam liên quan đến mô hình các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị
trường chứng khoán Việt Nam
1. Về hình thức của các chủ thể đang hoạt động kinh doanh chứng khoán
trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thứ nhất, công ty chứng khoán: Cũng như các nước trên thế giới, đây là chủ
thể chính tham gia kinh doanh chứng khoán.
Đối với hình thức chủ thể này, theo quy định của pháp luật hiện hành thì công ty
chứng khoán ở Việt Nam được tổ chức theo cả hai mô hình chuyên doanh và đa
năng; bởi, theo quy định của pháp luật hiện hành một công ty chứng khoán nếu đủ
điều kiện thì UBCKNN cấp giấy phép kinh doanh cho một hoặc nhiều nghiệp vụ
kinh doanh chứng khoán thuộc về nghiệp vụ của công ty. Quy định như vậy có thể
khiến nguy cơ xảy ra xung đột giữa các nghiệp vụ trong công ty chứng khoán lớn
hơn, nhưng với đặc trưng là một thị trường chứng khoán mới thì quy định của pháp
luật Việt Nam là phù hợp.
10


Thứ hai, Công ty quản lý quỹ đầu tư: Về cơ bản, quy đinh của pháp luật hiện
hành tương đối phù hợp với các cam kết mà Việt Nam là thành viên, không có những
điểm xung đột, nhưng có các điểm khác nhau, các điểm khác nhau là tất yếu do thị
trường chứng khoán Việt Nam có những đặc trưng và khác biệt riêng nên có những
quy định phái bị thay đổi để phù hợp với TTCK Việt Nam.
Thứ ba, Công ty đầu tư: có thể nói đây là một loại chủ thể đặc biệt. Sở dĩ có
điều này là vì, đây là loại hình chủ thể mới có trong quy định của pháp luật, chưa có
trên thực tế (thị trường chứng khoán Việt Nam). Trong khi loại chủ thể này đã xuất
hiện ở các nước trên thế giới, các quy định của pháp luật Việt Nam về chủ thể này
đều dựa trên quy định của pháp luật trên thế giới và quy định trong cam kết quốc tế
mà Việt Nam là thành viên, vậy vấn đè đặt ra không phải quy định cảu pháp luật Việt

Nam có phù hợp với quy định của các cam kết mà Việt Nam là thành viên, mà là liệu
những quy định này có phù hợp với thực tiễn thị trường chứng khoán Việt Nam hay
không?
Thứ tư, Các chủ thể khác: Trên thê giới cũng như trong các cam kết, đây là loại
chủ thể tham gia nhiều vào hoạt động kinh doanh chứng khoán; pháp luật hiện hành
Việt Nam cũng có các quy định để các chủ thể này tham gia vào hoạt động kinh
doanh chứng khoán nhưng các quy định đó, không mang tính khuyến khích các chủ
thể này tham gia mà rất hạn chế, bởi tính chất của các chủ thể này (các ngân hàng
thương mại, công ty bảo hiểm) có vai trò rất lớn đến thị trường tài chính. Và trên thực
tế, qua trình tham gia kinh doanh chứng khoán của các chủ thể này tại TTCK Việt
Nam là rất ít, trong khi trên thế giới thì rất mạnh mẽ.
2. Về thủ tục thành lập, tổ chức và hoạt động của các chủ thể kinh doanh
chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thứ nhất, Luật chứng khoán đã quy định chi tiết các điều kiện cấp giấy phép,
hồ sơ xin cấp giấy phép, trình tự và thời hạn cấp giấy phép, bổ sung giấy phép, thay
đổi trong hoạt động, nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh chứng khoán, các hạn chế đối
với công ty chứng khoán nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt động… Luật chứng
11


khoán được xây dựng trên nguyên tắc chi tiết đến mức tối đa có thể, nhằm bảo đảm
tính thực thi, giảm bớt các văn bản hướng dẫn dưới luật.
Thứ hai, Luật đã quy định theo hướng cải cách thủ tục hành chính nhằm đơn
giản hoá về mặt thủ tục và rút ngắn được thời gian thực hiện các công việc có tính
thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân thực hiện đầy đủ các thủ
tục của mình. Chẳng hạn, trước khi có Luật Chứng khoán việc thành lập và hoạt động
của công ty chứng khoán khá phức tạp phải trải qua rất nhiều bước. Hiện nay, Giấy
phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán đồng thời có giá trị là giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.
Về điều kiện và thủ tục cấp giấy phép, Luật chứng khoán đã quy định đơn giản,

rõ ràng và thực chất hơn. Chẳng hạn về cấp giấy phép thành lập hoạt động cho công
ty chứng khoán trước đây quy định 5 điều kiện, hiện nay Luật chứng khoán chỉ quy
định 3 điều kiện : Một là, có trụ sở chính và trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh
doanh chứng khoán (đối với tổ chức xin phép chỉ thực hiện nghiệp vụ tư vấn đầu tư
chứng khoán thì không phải đáp ứng điều kiện về trang thiết bị); Hai là, có đủ vốn
pháp định theo quy định; Ba là, Giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề chứng khoán. Về hồ sơ xin cấp giấy
phép thành lập hoạt động của công ty chứng khoán, trước đây quy định đến 10 loại
giấy tờ khác nhau thì Luật chứng khoán quy định 8 loại giấy tờ cần thiết. Đặc biệt hồ
sơ xin cấp chứng chỉ hành nghề trước đây quy định trường hợp ít nhất cần đến 6 loại
giấy tờ khác nhau thì nay Luật quy định chỉ có 3 loại giấy tờ cần thiết trong hồ sơ.
Thứ ba, riêng đối với công ty chứng khoán, luật chứng khoán quy định về tổ
chức và hoạt động của công ty chứng khoán trên nguyên tắc không phân biệt giữa
nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài trong kinh doanh chứng khoán, đồng
thời thể hiện rõ quan điểm mở cửa thị trường chứng khoán Việt Nam để thu hút các
nhà đầu tư nước ngoài vào hoạt động kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam. Đây là
một trong những điểm mới có tính đột phá lớn để thị trường chứng khoán Việt Nam

12


hội nhập với khu vực và thế giới, tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam thực hiện đúng
cam kết quốc tế, cam kết với WTO. Cụ thể:
Trước đây nhà đầu tư nước ngoài muốn thực hiện các hoạt động kinh doanh
chứng khoán tại Việt Nam thì chỉ có hình thức duy nhất góp vốn liên doanh với bên
Việt Nam để thành lập công ty chứng khoán liên doanh. Nhà đầu tư nước ngoài chỉ
được sở hữu không quá 30% vốn điều lệ và sau này tỷ lệ sở hữu là không quá 49%
vốn điều lệ. Đồng thời, bên nước ngoài tham gia góp vốn liên doanh trong công ty
chứng khoán phải là tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài đang hoạt động
hợp pháp tại nước mà các tổ chức này đóng trụ sở chính.

Theo Luật chứng khoán hiện nay quy định: công ty chứng khoán có vốn đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam được tổ chức dưới hình thức công ty liên doanh hoặc công
ty TNHH, công ty cổ phần 100% vốn nước ngoài do UBCKNN cấp giấy phép thành
lập và hoạt động. Về điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho
công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài thì ngoài các điều kiện giống với quy
định cho công ty chứng khoán trong nước Luật còn quy định thêm điều kiện: là tổ
chức kinh doanh chứng khoán đang hoạt động hợp pháp ở nước ngoài.
Thứ tư, vấn đề cấp giấy phép hành nghề chứng khoán
Một trong những điều kiện để cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty
chứng khoán là: Giám đốc (Tổng Giám đốc), các nhân viên kinh doanh của công ty
chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán.
Trước đây, pháp luật quy định: Chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán
được cấp cho các cá nhân theo đề nghị của công ty chứng khoán nơi cá nhân đó làm
việc hoặc theo đề nghị của người đại diện thành viên sáng lập, người đại diện cổ
đông sáng lập, chủ sở hữu tổ chức xin phép kinh doanh chứng khoán đối với trường
hợp xin cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán cùng với việc xin cấp
phép kinh doanh chứng khoán, khi đáp ứng đủ các điều kiện. Chứng chỉ hành nghề
kinh doanh chứng khoán có thời hạn là 03 năm kể từ ngày cấp. Chứng chỉ hành nghề
kinh doanh được gia hạn theo đề nghị của công ty chứng khoán nơi người hành nghề
13


làm việc. Mỗi lần gia hạn tối đa không quá ba năm. Chứng chỉ hành nghề được gia
hạn khi nhân viên hành nghề đạt yêu cầu trong kỳ thi sát hạch lại do UBCKNN tổ
chức.
Trường hợp người hành nghề kinh doanh chứng khoán không đạt yêu cầu trong
kỳ thi sát hạch để gia hạn chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán, người hành
nghề kinh doanh chứng khoán tạm thời không được làm việc tại các bộ phận kinh
doanh cho tới khi được gia hạn chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán.
Người hành nghề không còn làm việc cho công ty chứng khoán thì bị thu hồi

chứng chỉ hành nghề; Nếu sau 01 năm kể từ ngày bị thu hồi chứng chỉ hành nghề,
người hành nghề tiếp tục làm việc cho một công ty chứng khoán thì phải làm thủ tục
thi sát hạch trước khi xin cấp chứng chỉ hành nghề. Trong trường hợp này, công ty
chứng khoán nơi người hành nghề làm việc làm hồ sơ xin cấp chứng chỉ hành nghề
kinh doanh theo quy định.
Hiện nay, Luật chứng khoán có quy định mới phù hợp hơn cụ thể: UBCKNN
cấp chứng chỉ hành nghề cho từng cá nhân, còn việc cá nhân có chứng chỉ hành nghề
làm cho công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ nào do công ty đó tuyển dụng.
Tuy nhiên, để đảm bảo sự quản lý, phòng tránh trường hợp các cá nhân cá chứng chỉ
lợi dụng để lừa đảo gây thiệt hại cho nhà đầu tư. Luật quy định rõ: “Chứng chỉ hành
nghề chứng khoán chỉ có giá trị khi người được cấp chứng chỉ hành nghề làm việc
cho một công ty chứng khoán hoặc công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán; Công ty
chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán có trách nhiệm đăng ký người
được cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán làm việc cho công ty của mình và thông
báo với UBCKNN trong vòng 24 giờ trường hợp người được cấp chứng chỉ hành
nghề không còn làm việc cho công ty của mình. Luật còn quy định chứng chỉ hành
nghề bị thu hồi trong trường hợp người được cấp chứng chỉ không hành nghề chứng
khoán trong thời hạn 5 năm kể từ ngày được cấp chứng chỉ hành nghề.”
Thứ năm, về nghĩa vụ của công ty chứng khoán.

14


Luật chứng khoán hiện nay quy định khái quát và khá đầy đủ các nghĩa vụ cơ
bản của công ty chứng khoán trong đó có một số nghĩa vụ mới được bổ sung trước
đây pháp luật không quy định là nghĩa vụ bắt buộc hoặc không cho phép như: “Mua
bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán tại công
ty hoặc trích lập quỹ bảo vệ người đầu tư để bồi thường thiệt hại cho người đầu tư do
sự cố kỹ thuật, sự bất cẩn và sơ suất của nhân viên trong công ty…. Thực hiện việc
bán hoặc cho khách hàng bán chứng khoán khi không sở hữu chứng khoán và cho

khách hàng vay chứng khoán để bán theo quy định của Bộ Tài chính”.
Với quy định trên cho thấy Luật chứng khoán đã quan tâm hơn đến việc bảo vệ
quyền lợi cho nhà đầu tư chứng khoán. Đồng thời, Luật chứng khoán đã dần khắc
phục những hạn chế trong các quy định của pháp luật, bổ sung quy định mới cho phù
hợp sự phát triển của TTCK trong tương lai ở Việt Nam và phù hợp với xu thế chung
của thế giới. Luật Chứng khoán đã thừa nhận hoạt động bán khống, nhưng phải kiểm
soát chặt chẽ nó để ngăn ngừa mặt tiêu cực và phát huy mặt tích cực của bán khống
chứng khoán đối với với thị trường chứng khoán và đối với người đầu tư.
Việc cấm hoàn toàn hành vi bán khống chứng khoán trước đây ở nước ta là quá
thận trọng và nó làm cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài có
cảm giác Luật pháp Việt Nam quá khắt khe trong việc điều chỉnh các giao dịch trên
thị trường chứng khoán. Điều này cũng có thể cho thấy rằng các nhà lập pháp Việt
Nam mới chỉ nhìn thấy mặt tác hại của hành vi bán khống mà chưa thấy hết tác dụng
tích cực của hành vi bán khống chứng khoán. Theo quan điểm của một số nhà nghiên
cứu, bán khống có mặt tích cực của nó cụ thể: bán khống cung cấp tính thanh khoản
cho thị trường; Bán khống tạo ra tính hiệu quả về giá chứng khoán… Đối với hành vi
bán khống chứng khoán ở nhiều nước pháp luật của họ quy định không cấm tuyệt đối
mà họ đặt giao dịch bán khống dưới sự kiểm soát của nhà nước. Trong đó có quy
định rõ đối tượng và những điều kiện được phép thực hiện giao dịch bán khống và
những trường hợp, hoàn cảnh trong đó bán khống bị coi là bất hợp pháp. Điều này

15


chứng tỏ rằng Luật chứng khoán được xây dựng trên cơ sở có tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm của nước ngoài.
Tóm lại, Việt Nam ra nhập WTO là điều kiện thuận lợi để hội nhập quốc tế. Các
mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán của VIệt Nam được quy định trước các
cam kết mà Việt Nam tham gia ký kết với WTO. Các quy định này có mức độ phù
hợp gần như tuyệt đối với cam kết quốc tế. Bởi lẽ, chủ yếu là các mô hình đặc trưng:

công ty chứng khoán (được nhắc tới chủ yếu), công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán… Tuy nhiên, để phù hợp với sự phát triển chung xong vẫn đảm bảo sự khác
biệt của nền kinh tế xã hội nước ta thì mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán được
nhắc tới đầy đủ cụ thể hơn.
III. Phương hướng hoàn thiện
Từ những nhận định trên về mức độ phù hợp của các quy định hiện hành với
cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến mô hình các chủ thể kinh doanh chứng
khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Thứ nhất, xác định rõ nội hàm của khái niệm kinh doanh chứng khoán.
Việc xác định đúng nội hàm của hoạt động kinh doanh chứng khoán có ý nghĩa
quan trọng. Để đảm bảo tính tôn nghiêm của pháp luật, các chủ thể có cùng điều
kiện, môi trường kinh doanh, đối tượng kinh doanh và mục đích kinh doanh, phải có
cùng những quy định pháp luật điều chỉnh. Nói cách khác, các chủ thể cùng tiến hành
kinh doanh chứng khoán phải được đối xử như nhau về quyền và nghĩa vụ, cơ quan
quản lý, thực hiện chế độ tài chính kế toán và báo cáo tài chính kế toán. Chẳng hạn
những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, các quỹ phòng ngừa rủi ro, dự trữ bắt
buộc cần phải được áp dụng thống nhất mà trong thực tế những vấn đề này chưa thực
hiện được.
Thứ hai, xác định cụ thể bản chất pháp lý của công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán, các chủ thể khác tham gia hoạt động chứng khoán cũng như các điều kiện khả
thi để những mô hình này có thể chính thức ra đời.

16


Xuất phát từ những luận giải về khái niệm kinh doanh đã đề cập, chúng tôi cho
rằng, đi đôi với việc xác định lại nội hàm của khái niệm kinh doanh chứng khoán,
cần phải xem xét bản chất pháp lý công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.
Nếu xét nội dung hoạt động đầu tư chứng khoán thông qua chứng chỉ quỹ đầu tư
thì cơ chế hoạt động của công ty quản lý quỹ là cơ chế ba bên: công ty quản lý quỹ

đầu tư chứng khoán; ngân hàng giám sát; nhà đầu tư.
Qua nghiên cứu, nhận thấy các nhà làm luật cũng như các nhà quản lý đều công
nhận đây là một loại công ty chứng khoán. Chẳng hạn quan điểm “Đối với Việt Nam,
công ty chứng khoán được phép thực hiện tất cả các hình thức kinh doanh chứng
khoán. Riêng hình thức quản lý quỹ đầu tư, yêu cầu phải được hoạt động tách rời
dưới hình thức một công ty độc lập” đã được phổ cập đến đông đảo người quan tâm.
Điều này có nghĩa hoạt động quản lý đầu tư chứng khoán là một hoạt động kinh
doanh chứng khoán và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán là một công ty chứng
khoán. Tuy nhiên, đây chỉ là những suy diễn hoặc diễn giải “ngoài hành lang”, mà
không phải là một quy định pháp luật. Điều này thực sự gây khó khăn cho quá trình
áp dụng pháp luật.
Việc đưa ra những đề xuất liên quan đến bản chất của công ty quản lý quỹ đầu
tư chứng khoán không chỉ xuất phát từ yêu cầu áp dụng pháp luật mà còn là một đòi
hỏi khách quan của những người có dự định kinh doanh chứng khoán theo hình thức
này. Nếu như những nội dung liên quan đến công ty chứng khoán có thể coi là khá rõ
ràng thì đối với công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán vẫn còn đang mở. Chẳng
hạn, việc xác định các loại thu nhập của công ty quản lý quỹ, ưu đãi hoặc miễn trừ
nghĩa vụ trong những trường hợp nhất định có được áp dụng tương tự công ty chứng
khoán. Về vấn đề này, Ủy ban chứng khoán Nhà nước thừa nhận “là không thực tế”,
cần phải sớm điều chỉnh lại cho phù hợp.
Nếu hoạt động định mức tín nhiệm là hoạt động phổ biến tại thị trường các quốc
gia thì vấn đề này còn rất mới đối với Việt Nam. Đó là việc “đánh giá đúng về khả
năng của một người phát hành có thể thanh toán đúng nợ gốc và lãi của một chứng
17


khoán trong suốt thời gian tồn tại loại công cụ này”. Việc tồn tại các tổ chức định
mức tín nhiệm sẽ tạo niềm tin cho người đầu tư vào các trái phiếu lưu hành trên thị
trường, cũng tạo ra cơ hội xác định đúng đắn về giá chứng khoán, sự lựa chọn đầu tư
của người đầu tư.

Đối với các ngân hàng lưu ký, thanh toán chứng khoán, thực tiễn đang tiến hành
các hành vi gắn với giao dịch chứng khoán, với mục đích kiếm lời, nhưng đây có
phải là chủ thể kinh doanh chứng khoán hay không? Pháp luật hiện hành vẫn chưa
xét tới vấn đề này. Câu hỏi này liên quan đến chế độ chịu trách nhiệm của ngân hàng
lưu ký với nhà đầu tư chứng khoán. Ngoài ra, hoạt động lưu ký, thanh toán của các
ngân hàng này có tách bạch hoàn toàn với nghiệp vụ ngân hàng hay không?
Thứ ba, xây dựng lại và chuẩn hóa một số điều kiện thành lập hoạt động của
công ty chứng khoán, kể cả điều kiện đối với chủ thể có yếu tố nước ngoài.
Thứ tư, mở rộng phạm vi hoạt động của công ty chứng khoán. Khó có thể nói
rằng công ty chứng khoán của chúng ta hiện nay theo mô hình đa năng hay mô hình
chuyên doanh.
Thứ năm, chuẩn hóa quy định về phá sản các loại chủ thể kinh doanh chứng
khoán.

18


C. KẾT LUẬN
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi vào vận hành nhiều năm. Yếu tố có ảnh
hưởng rất quan trọng tới thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam là hệ thống
các văn bản pháp luật điều chỉnh toàn bộ thị trường chứng khoán, trong đó có pháp
luật điều chỉnh các chủ thể kinh doanh chứng khoán. Giữa nhưng quy định này của
Việt nam đã phù hợp với những cam kết quốc tế mà Việt nam tham gia ở mức độ nhất
định, nhưng bên cạnh đó cũng không thiếu các sai sót và những điểm không hợp lý.
Để đảm bảo cho việc tiến hành các hoạt động kinh doanh chứng khoán được thuận
lợi, hiệu quả hơn, tránh lung túng trong việc xác định các chủ thể. Đồng thời để quá
trình hội nhập ngày càng nhanh chóng thì bản thân các quy định về mô hình chủ thể
kinh doanh chứng khoán Việt Nam cần phải phù hợp nhiều hơn với các cam kết mà
Việt Nam tham gia đảm bảo khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, chúng
ta cần phải hoàn thiện các quy định về các chủ thể kinh doanh chứng khoán sao cho

phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt nam tham gia, nhưng cũng phải phù hợp với
điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật chứng khoán – Trường đại học Luật Hà nội – NXB Công an
nhân dân – Hà nội 2008.
2. Luật chứng khoán năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2010).
3. Nghị định số 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật chứng khoán.
4. Cam kết WTO về Ngân hàng – Chứng khoán.
5. />6. Thị trường chứng khoán Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế – Trần
Quang Phú (chủ biên), Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Đức Dũng – NXB Chính
trị quốc gia – Hà nội 2008.
7. />8. />%91-v%E1%BA%A5n-d%E1%BB%81-phap-ly-v%E1%BB%81-cong-ty-ch
%E1%BB%A9ng-khoan-theo-lu%E1%BA%ADt-ch%E1%BB%A9ng-khoannam-2006/
9.

20



×