Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Những hạn chế cần sửa đổi bổ sung và một số ý kiến hoàn thiện về điều kiện và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.52 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
TRANG
A. LỜI MỞ ĐẦU………..........…………………………………………… .........2
B. NỘI DUNG.........................................................................................................2
I. Lý luận chung về việc nuôi con nuôi.................................................................2
1..Khái niệm nuôi con nuôi...............................................................................2
2.Khái niệm chế định nuôi con nuôi……………………............................….2
II. Sự khác nhau về điều kiện và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi giữa
Luật HN&GĐ năm 2000 và Luật NCN năm 2010..........................................3
1.Việc quy định nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi...............................3
2..Điều kiện của việc nuôi con nuôi.................................................................3
2.1.Điều kiện với người được nhận làm con nuôi..........................................3
2..2.Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi...........................................5
2..3.Điều kiện về ý chí của các chủ thể..........................................................7
3. Hệ quả pháp lí của việc nuôi con....................................................................8
3.1.Về mối quan hệ ba bên giữa cha mẹ nuôi, con nuôi và cha mẹ đẻ............8
3.2.Vấn đề về báo cáo tình hình phát triển của con ........................................9
III. Những hạn chế cần sửa đổi bổ sung và một số ý kiến hoàn thiện về điều
kiện và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi.......................................................9
1. Vấn đề về điều kiện của việc nuôi con nuôi …………………….....…......10
2. Hệ quả pháp lý của nuôi con nuôi………………………........…...............10
C. KẾT BÀI………………………………………………………....……............11

1


A. LỜI MỞ ĐẦU
Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội, một chế định pháp lý đã xuất hiện từ lâu
trong lịch sử pháp luật Việt Nam. Chế định nuôi con nuôi được quy định trong Luật
HN và GĐ của nước ta từ năm 1959 đến nay xuất phát trước tiên vì lợi ích của người
con nuôi đồng thời cũng đảm bảo lợi ích của người nhận nuôi con nuôi. Tuy nhiên,


đến Luật HN&GĐ năm 2000 cũng vẫn còn tồn tại những hạn chế, những thiếu sót và
ngày 17/6/2010 Luật nuôi con nuôi 2010 đã ra đời nhằm khắc phục, hoàn thiện, thống
nhất những hạn chế đó. Do đó em xin chọn đề tài: “Nêu và lý giải những điểm khác
nhau về điều kiện và hậu quả pháp lý của việc nhận nuôi con nuôi trong chương
nuôi con nuôi theo Luật HN&GĐ năm 2000 và Luật nuôi con nuôi năm 2010” để
làm rõ những điểm khác nhau và sự hoàn thiện chế định nuôi con nuôi của Luật NCN
năm 2010.
B. NỘI DUNG
I. Lý luận chung về việc nuôi con nuôi.
1.Khái niệm nuôi con nuôi .
Trong xã hội, việc nuôi con nuôi là một hiện tượng khá phổ biến và thể hiện
tính nhân đạo sâu sắc. Việc nuôi con nuôi có thể được xem xét dưới hai góc độ:
xã hội và pháp lý.
- Dưới góc độ xã hội: Nuôi con nuôi là quan hệ xã hội được thiết lập giữa
người nhận nuôi con nuôi với người được nhận làm con nuôi nhằm hình thành
quan hệ cha mẹ và con trên thực tế với những mối liên hệ gia đình mới, để thỏa
mãn những nhu cầu tình cảm, đạo đức hoặc lợi ích vật chất.
- Dưới góc độ pháp lý:
Thứ nhất, nuôi con nuôi được xem xét dưới góc độ pháp lý trước hết được
coi là một sự kiện pháp lý. Với ý nghĩa là một sự kiện pháp lý, nuôi con nuôi là
việc một người nhận nuôi dưỡng một người khác không do họ sinh ra nhằm xác

2


lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm
con nuôi trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật.
Thứ hai, nuôi con nuôi là một quan hệ pháp luật. Có thể hiểu quan hệ pháp luật
nuôi con nuôi là quan hệ giữa các bên (người nhận con nuôi, người cho con nuôi và
người con nuôi) phát sinh trong quá trình nhận con nuôi và được pháp luật điều

chỉnh, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ tương ứng của các bên
2.Khái niệm chế định nuôi con nuôi.
Chế định nuôi con nuôi là chế định pháp lý bao gồm các quy phạm pháp luật
do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh những vấn đề về
nuôi con nuôi như điều kiện nuôi con nuôi, thực hiện, chấm dứt việc nuôi con nuôi,
quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể có liên quan trong quan hệ nuôi con nuôi, bao
gồm cả các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
II. Sự khác nhau về điều kiện và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi giữa
Luật NCN 2010 và chế định nuôi con nuôi trong luật HN&GĐ năm 2000.
1.Việc quy định nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi.
Luật NCN quy định các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi(Điều 4), đây
là một trong những điểm tiến bộ so với Luật HN&GĐ 2000. Kết hợp với việc quy
định thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay thế (Điều 5) đã đảm bảo được lợi ích cho
trẻ em. Bởi lẽ, gia đình là nơi trẻ em sinh ra được coi là môi trường lý tưởng nhất cho
sự phát triển của trẻ em. Do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, nên trẻ em cần được
bảo vệ và chăm sóc đặc biệt trong bầu không khí yêu thương hạnh phúc của những
thành viên trong gia đình. Giữa những người có quan hệ họ hàng xác lập quan hệ
nuôi con nuôi là một điều kiện thuận lợi cho trẻ em vì nó được tiếp tục sống trong
môi trường ruột thịt của mình. Điều này vừa phù hợp với phong tục tập quán, truyền
thống đạo đức của dân tộc, vừa phù hợp với các văn bản pháp lý quốc tế về nuôi con
nuôi.
2. Điều kiện của việc nuôi con nuôi
2.1. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi.

3


Sự khác nhau cơ bản giữa Luật NCN và Luật HN&GĐ ở một số điểm sau:
 Thứ nhất, theo Khoản 1 Điều 68 Luật HN và GĐ năm 2000 quy định “ người được
nhận làm con nuôi phải là người từ 15 tuổi trở xuống” còn Luật NCN lại quy định

tại Khoản 1 Điều 8 về độ tuổi của ngươì được nhận làm con nuôi là “ trẻ em dưới 16
tuổi”.
So với Luật HN&GĐ năm 2000 thì việc quy định độ tuổi của người được nhận
làm con nuôi trong Luật nuôi con nuôi là phù hợp với Luật BVCS&GDTE . Vì vậy,
Luật NCN tăng độ tuổi của người được làm con nuôi thành “dưới 16 tuổi”( Điều 8
Khoản 1). Như vậy, trừ các trường hợp ngoại lệ được quy định tại khoản 2 điều 8, đối
tượng điều chỉnh chủ yếu của Luật này chính là trẻ em, quy định này phù hợp với
mục đích nuôi con nuôi. Quy định này nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống
pháp luật trong nước đồng thời vẫn đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh cam kết quốc tế
với trường hợp người nước ngoài nhận nuôi.
 Thứ hai, Khoản 2 Điều 8 Luật NCN quy định trường hợp ngoại lệ về độ tuổi người
được nhận làm con nuôi là người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu được cha dượng,
mẹ kế hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
Phần lớn những người ở độ tuổi từ 16 đến 18 chưa thể tự nuôi sống bản thân, tâm
sinh lí cũng chưa phát triển hoàn thiện. Vì vậy pháp luật quy định người ở độ tuổi này
có thể được cha dượng, mẹ kế hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi để
đảm bảo tính nhân đạo của việc nuôi con nuôi. Đây là một trong những điểm mới và
tiến bộ của Luật Nuôi con nuôi 2010.
 Thứ ba, theo khoản 2 điều 68 Luật HN và GĐ năm 2000: “ Một người chỉ có thể làm
con nuôi một người hoặc của cả hai vợ chồng” còn tại khoản 3 Điều 8, Luật NCN
năm 2010 lại quy định: “ một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân
hoặc của cả hai người là vợ chồng”
Quy định của luật HN và GĐ chưa làm rõ vấn đề một người đã có vợ hoặc chồng
có được phép nhận con nuôi riêng hay không. Luật NCN đã có sự thay đổi, hiểu theo
quy định của khoản 3 điều 8, luật chỉ cho phép một người độc thân hoặc cả hai vợ
chồng nhận con nuôi. Như vậy, Luật NCN không cho phép người đã có vợ hoặc
4


chồng nhận con nuôi riêng, việc nhận con nuôi cần có sự thống nhất của cả hai vợ

chồng. Đây cũng là một điều luật nhằm đảm bảo cho trẻ được cho làm con nuôi có
một môi trường gia đình trọn vẹn, có sự yêu thương của tất cả các thành viên trong
gia đình.
2.2. Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi.
a. Trường hợp nuôi con nuôi trong nước:
 Thứ nhất, “ điều kiện thực tế” để nuôi con nuôi
Như vậy, so với Luật HN và GĐ năm 2000 thì Luật NCN năm 2010 đã có quy
định cụ thể rõ ràng hơn về vấn đề này. Tại điểm c khoản 1 điều 14 Luật NCN năm
2010 quy định điều kiện về sức khoẻ, kinh tế, chỗ ở người nhận con nuôi đảm bảo
việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Quy định này tạo sự thuận lợi cho
những người có thẩm quyền trong việc xem xét điều kiện của người nhận nuôi, từ đó
đưa ra các quyết định hợp lí để công nhận hay không công nhận việc xác lập quan hệ
nuôi con nuôi.
 Thứ hai, Luật NCN năm 2010 quy định rõ cấm ông bà nhận cháu làm con nuôi,
hoặc anh chị em nhận nhau làm con nuôi, tránh sự đảo lộn các thứ bậc trong gia
đình (Điều 13).
Ở đây cần phân biệt rõ việc nuôi con nuôi với việc nuôi dưỡng. Việc nuôi con
nuôi phải làm phát sinh mối quan hệ cha mẹ và con; còn việc nuôi dưỡng chỉ là nghĩa
vụ giữa các thành viên trong gia đình. Trường hợp cha mẹ bị chết thì ông bà (nội,
ngoại) có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc cháu hoặc anh chị em có nghĩa vụ, chăm
sóc em, đó là trách nhiệm nuôi dưỡng giữa các thành viên trong gia đình, không cần
phải xác lập quan hệ nuôi con nuôi thì mới ràng buộc được trách nhiệm của các bên.
Mặt khác, Luật NCN có quy định này để ngăn chặn việc thực hiện quan hệ nuôi con
nuôi vì các mục đích khác không dựa trên chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em.
b. Trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:
Trước hết, chế định nuôi con nuôi trong Luật HN và GĐ 2000 đã có sự mâu
thuẫn khi quy định về vấn đề này. Khoản 1 Điều 105 Luật HN và GĐ năm 2000 xác
định điều kiện của người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi dựa trên
5



quy định của pháp luật nơi người đó mang quốc tịch. Tuy nhiên, theo Khoản 1 điều
37 NĐ 68/2002/NĐ-CP thì việc xác định điều kiện của người xin nhận con nuôi lại
dựa trên pháp luật Việt Nam và pháp luật nơi đó thường trú. Sở dĩ lại có quy định như
vậy nhằm bảo đảm sự phù hợp giữa pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế. Theo
Khoản 1 Điều 29 Luật NCN 2010: “ Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người
nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ
điều kiện theo quy định của pháp luật nơi người đó thường trú và quy định tại điều 14
của Luật này”.
Với điều kiện luật nói trên, một mặt luật NCN đã giải quyết tình trạng mẫu thuận
giữa các quy định trước đây, mặt khác Luật NCN đã thể hiện sự kế thừa hợp lí trong
NĐ 68/2002/NĐ- CP và NĐ 69/2006/ NĐ- CP, từ đó tạo ra khuôn khổ pháp lí thống
nhất tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập công ước quốc tế.
Vấn đề điều kiện của người nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài còn được quy
định tại điều 28 Luật NCN 2010. Điều Luật này đưa ra 4 trường hợp nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài. Theo khoản 1 Điều 28: “ Người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
người nước ngoài thường trú ở nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi
con nuôi với Việt Nam làm con nuôi”
Ngoài ra Luật NCN có sự điều chỉnh trong một số trường hợp nuôi con nuôi đích
danh .
+ Điểm d Điều 28 Luật NCN: “ Người nước ngoài đang học tập , làm việc tại
Việt Nam trong thời gian ít nhất là một năm”. So với quy định trước đây thì thời gian
này được tăng thêm , theo mục 8 Nghị định 69/2006/NĐ- CP thì khoảng thời gian
này chỉ là 6 tháng. Sự thay đổi này theo hướng chặt chẽ thêm các điều kiện đối với
người nước ngoài nhận nuôi con nuôi là công dân Việt Nam.
+ Mục 8 Điều 1 Nghị định 69/2006/ NĐ- CP có quy định về người nhận con
nuôi có “ quan hệ họ hàng, thân thích với trẻ em được nhận làm con nuôi”; Luật
NCN quy định rõ ràng hơn về mối quan hệ này trong 2 trường hợp tại điểm a và điểm
b khoản 2 điều 28: người nước ngoài nhận nuôi con nuôi là cha dượng, mẹ kế của


6


người được nhận làm con nuôi; hoặc cô, dì, chú, bác của người được nhận làm con
nuôi. Quy định này nhằm đáp ứng tình hình hực tế, tạo điều kiện cho người con được
sống với cha, mẹ đẻ ở nước ngoài và tạo cơ hội để người đó được hưởng trọn vẹn
quyền lợi của người con trong quan hệ với cha dượng mẹ kế theo pháp luật nước
ngoài. Quy định này cũng phù hợp với nguyên tắc tôn trọng quyền trẻ em được sống
trong môi trường gia đình gốc, được sự chăm sóc, yêu thương của cha mẹ đẻ hoặc
những người thân thích khác. Sự điều chỉng này cũng phù hợp với điều 5 khi lựa
chọn gia đình thay thế cho trẻ thì sẽ có sự ưu tiên đối với người nhận nuôi là cha
dượng, mẹ kế. cô, cậu. chú.dì, bác ruột của người được nhận làm con nuôi.
2.3. Điều kiện về ý chí của các bên chủ thể:
Theo Luật NCN, việc cho trẻ em làm con nuôi vẫn cần phải có dự đồng ý của
cha mẹ đẻ, người giám hộ của trẻ em từ 09 tuổi trở lên. Luật còn quy định rõ sự đồng
ý này là phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực không bị ép buộc, không bị đe doạ hay
mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác
(Điều 21). Luật NCN còn quy định: Cha, mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con
nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày, đây là quy định nhằm tránh các
trường hợp cha mẹ đẻ và các cá nhân tổ chức khác có sự thoả thuận cho trẻ làm con
nuôi trước khi sinh, hoặc cha mẹ đẻ trong hoàn cảnh đặc biệt đã chấp nhận con vừa
sinh ra làm con nuôi mà không có sự suy nghĩ kĩ lưỡng.
Luật NCN đề cập vai trò của UBND trong việc tư vấn đối với cha mẹ đẻ hoặc
người giám hộ của trẻ theo quy định của Khoản 2 Điều 21, nội dung tư vấn về các
vấn đề như mục đích nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ giữa các bên liên quan sau khi
quan hệ nuôi con nuôi được xác lập. Trong Nghị định 19/2011/NĐ- CP hướng dẫn thi
hành Luật NCN, trước hết “ công chức tư pháp- hộ tịch phải tư vấn để trẻ em tiếp tục
được chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế của
gia đình, trường hợp cho trẻ cho trẻ em làm con nuôi là giải pháp cuối cùng vì lợi ích
tốt nhất của trẻ em thì công chức tư pháp – hộ tịch phải tư vấn đầy đủ cho những

người liên quan về mục đích nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ giữa các bên sau khi

7


quan hệ nuôi con nuôi được xác lập. Đây là một quy định mới của Luật NCN 2010 so
với Luật HN&GĐ 2000 đồng thời cũng tương thích với công ước quốc tế về bảo vệ
trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước.
Như vậy về điều kiện nuôi con nuôi, Luật NCN có sự bổ sung trong các khía cạnh
: Điều kiện của người được nhận làm con nuôi, điều kiện của người nhận nuôi con
nuôi và điều kiện về ý chí của các bên chủ thể. Đối với vấn đề này, Luật NCN có sự
kế thừa các quy định hợp lí của Luật HN&GĐ năm 2000, đồng thời có sự sửa đổi, bổ
sung để các quy định cụ thểm rõ ràng hơn.
3. Hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi.
3.1. Về mối quan hệ ba bên giữa cha mẹ nuôi, con nuôi, cha mẹ đẻ.
Luật HN&GĐ năm 2000 khi quy định về hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi
chỉ chú trọng điều chỉnh quan hệ giữa cha nuôi và con nuôi, có rất ít quy định về mối
quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con nuôi, quan hệ giữa cha mẹ nuôi với cha mẹ đẻ. Luật
NCN đã quy định cụ thể hơn về mối quan hệ 3 bên này, từ đó tạo ra cơ sở pháp lí để
đảm bảo quyền và nghĩa vụ của mỗi bên chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi:
- Đối với quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi, bên cạnh việc kế thừa Điều 74 của
Luật HN&GĐ năm 2000,Luật NCN quy định thêm về mối quan hệ pháp lí giữa con
nuôi và các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi. Khi trở thành thành viên
trong gia đình cha mẹ nuôi, con nuôi có quyền và nghĩa vụ với các thành viên khác
trong gia đình như con đẻ. Có như vậy, con nuôi mới có thể hoà nhập một cách tốt
nhất vào gia đình của cha mẹ nuôi, không có sự phân biệt đối xử giữa con nuôii và
con đẻ. Như vậy mối quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi trong Luật NCN đã sửa đổi bổ
sung theo chiều hướng con nuôi có sự gắn bó chặt chẽ hơn về quyền và nghĩa vụ với
cha mẹ nuôi
- Luật NCN đã quy định “ Trừ trường hợp cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thoả

thụân khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không có quyền, nghĩa vụ
chăm sóc, nuôi dữơng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản
lí tài sản riêng đối với con cho làm con nuôi”(Khoản 2 Điều 4). Ta có thể thấy Luật

8


NCN đã có những quy định về mối quan hệ giữa con nuôi và cha mẹ đẻ, cũng như
vấn đề tài sản giải quyết những khó khăn trong việc xác định quyền và nghĩa vụ giữa
cha mẹ đẻ và con nuôi trên thực tế do Luật HN&GĐ không có quy định.
Như vậy, so với Luật HN&GĐ năm 2000 có thể thấy Luật NCN quy định cụ thể
hơn về mối quan hệ pháp lí 3 bên sau khi việc nuôi con nuôi được xác lập. Theo điều
24 Luật NCN mối quan hệ này có chiều hướng mở tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa
cha mẹ đẻ với cha mẹ nuôi . Việc quy định vậy nhằm tạo ra cơ sở pháp lí để bảo vệ
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi.
3.2. Vấn đề về báo cáo tình hình phát triển của con nuôi.
Theo quy định trước đây cha mẹ nuôi phải báo cáo tình hình phát triển của con
nuôi 6 tháng một lần trong 3 năm đầu tiên, sau đó mỗi năm báo cáo một lần cho đến
khi 18 tuổi( Điều 1 khoản 13 Nghị định 69/2006/NĐ- CP) . Theo đánh giá của những
người thực hiện công tác tiếp nhận báo cáo hàng năm, việc báo cáo định kì phải được
thưc hiện đến khi trẻ 18 tuổi là quá dài, điều này dẫn tới sự khó khăn, bất cập khi xử
lí các báo cáo. Để giải quyết tình trạng này Luật NCN quy đinh cha mẹ nuôi phải có
trách nhiệm báo cáo tình hình phát triển của con nuôi trong 3 năm đầu tiên, nôi dung
báo cáo là về tình trạng sức khoẻ, thể chất, tinh thần, sự hoà nhập của con nuôi với
cha mẹ nuôi, gia đình, cộng đồng( Điều 39 Luật NCN). Quy định này vừa mang tính
khả thi, tương đồng với pháp luật các nước láng giềng.
Như vậy, có thể thấy rõ hai điểm tiến bộ về hệ quả pháp lí của Luật NCN:
 Thứ nhất Luật đã quy định rất cụ thể về mối quan hệ 3 bên giưã cha mẹ
nuôi – con nuôi – cha mẹ đẻ để từ đó tạo ra cơ sở pháp lí để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi.

 Luật NCN đã quy định hợp lí hơn về việc báo cáo tình hình phát triển của
con nuôi, làm cho các quy định về vấn đề này trở nên khả thi hơn.
III. Những hạn chế cần sửa đổi bổ sung và một số ý kiến hoàn thiện về điều
kiện và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi.
1. Vấn đề về điều kiện của việc nuôi con nuôi .
9


Điều 4 Luật NCN quy định nguyên tắc: tôn trọng quyền trẻ em được sống
trong môi trường gia đình gốc. Theo nguyên tắc này, chỉ khi cha mẹ đẻ không còn
khả năng nuôi dưỡng giáo dục thì mới có thể cho trẻ làm con nuôi. Tuy nhiên,
nguyên tắc này lại không được cụ thể hoá trong các quy định về điều kiên của người
được nhận nuôi. Sự thiếu sót này có thể tạo ra kẽ hở dẫn đến tình trạng mặc dù cha
mẹ đẻ vẫn có đủ điều kiện nuôi dưõng nhưng vẫn cho trẻ lam con nuôi. Như vậy việc
nuôi con nuôi được tiến hành không vì lợi ích của trẻ em, không đảm bảo cho trẻ em
được chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường gia đình gốc.
Vì vậy, trong điều kiện của người được nhận làm con nuôi cần bổ sung thêm quy
định về khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc của cha mẹ đẻ, cha mẹ đẻ chỉ được cho con
đẻ của mình làm con nuôi người khác trong trường hợp không có khả năng nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. Vấn đề này cũng được quy định trong pháp luật về
nuôi con nuôi của một số nước. Ví dụ, Luật NCN của Trung Quốc quy định điều kiện
của người được nhận làm con nuôi tại Điều 4 “ cha mẹ đẻ của trẻ em đó không có
khả năng nuôi chúng vì những khó khăn đặc biệt”. Luật NCN cần tham khảo và bổ
sung vấn đề này.
2.Hệ quả pháp lý của nuôi con nuôi.
Luật NCN không có quy định nào về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài. Hệ quả pháp lý của nuôi con nuôi chỉ được quy định tại điều 24
thuộc chương 2- Nuôi con nuôi trong nước. Vấn đề đặt ra là điều 24 có thể được áp
dụng cho các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài không?
Một quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài sẽ chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ

thống pháp luật khác nhau, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài những quy
định khác nhau để điều chỉnh về hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi. Ví dụ, khoản
2 Điều 137 Bộ luật gia đình của Liên Bang Nga quy định: “trẻ em được cho làm con
nuôi chấm dứt quyền và nghĩa vụ về nhân thân phi tài sản và tài sản đối với cha mẹ
đẻ”. Trong khi đó, theo khoản 4 điều 24 Luật NCN thì quyền và nghĩa vụ giữa con
nuôi và cha mẹ đẻ sẽ tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi.

1


Như vậy, pháp luật của Nga và của Việt Nam có quy định khác nhau về hệ quả pháp
lí của việc nuôi con nuôi. Nếu người Việt Nam nhận con nuôi là công dân Nga thì
không thể đương nhiên áp dụng quy định tại khoản 4 điều 24.
Vì vậy, cần phải xây dựng và ban hành các quy phạm xung đột trong các văn bản
hướng dẫn luật NCN để điều chỉnh về hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài. Quy phạm xung đột này có thể quy định theo hướng điều 105 Luật
HN&GĐ năm 2000: “...Trong trường hợp việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam
với người nước ngoài được thực hiện tại nước ngoài thì quyền và nghĩa vụ giữa cha
mẹ nuôi và con nuôi, viêc chấm dứt nuôi con nuôi được xác định theo pháp luật nơi
thường trú của con nuôi”. Điều khoản trên là một quy phạm xung đột để xác định hệ
thống pháp luật điều chỉnh hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài.
C. KẾT BÀI.
Bằng việc phân tích một số điểm khác nhau cơ bản giữa Luật HN&GĐ năm 2000
và Luật NCN 2010 mà cụ thể là sự khác nhau giữa điều kiện và hậu quả pháp lý của
việc nuôi con nuôi ta nhận thấy những hạn chế của Luật HN&GĐ năm 2000 về chế
định nuôi con nuôi đồng thời thấy được sự điều chỉnh hợp lí, đúng mục đích và phù
hợp hơn trong thực tiễn việc nuôi con nuôi được sửa đổi, bổ sung trong Luật NCN.
Luật NCN quy định như vậy sẽ tạo ra sự thống nhất thể hiện sự pháp điển hoá đồng
bộ giữa nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, đồng thời

cũng đảm bảo được sự bình đẳng giữa những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. Luật Nuôi con nuôi năm 2010.
3. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
1


4. Một số vấn đề về điều kiện nuôi con nuôi, TS. Nguyễn Phương Lan – Khoa Dân sự,
ĐH Luật Hà nội / Tạp chí Luật học số tháng 3 năm 2009.
5. Trần Đức Nam, Những điểm mới của Luật Nuôi con nuôi so với chế định nuôi con
nuôi trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 : Khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội,
2011
6. Nguyễn Ngoc Điện, Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, tập 1,
Nxb. Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, tp Hồ Chí Minh 2002.
7. Bài viết: “ Những điểm mới cơ bản của Luật Nuôi con nuôi năm 2000” của tác giả
Liễu Lập, Sở Tư pháp Thái Bình.
/>8. />9.
10.
10. />_Detail.aspx?ItemID=426&TabIndex=2&TaiLieuID=478.

1



×