Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.18 KB, 24 trang )

BÀI LÀM:
I.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Khi đời sống vật chất của con người ngày càng cao thì việc định đoạt tài sản

của mình trước khi chết thông qua việc lập di chúc là một nhu cầu tất yếu và phổ
biến. Tuy nhiên, để bản di chúc đó phát sinh có hiệu lực, trong việc phân chia di sản
thừa kế thì cần tuân theo các các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, nội
dung và hình thức của di chúc. Hình thức của di chúc là một trong những yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến hiệu lực của bản di chúc nói riêng và việc phân chia di
sản thừa kế nói chung và cũng là một trong những nguyên nhân phát sinh các tranh
chấp ở các vụ án về thừa kế theo di chúc.

II.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1.LÍ LUẬN CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC VÀ HÌNH
THỨC CỦA DI CHÚC
1.1 THỪA KẾ THEO DI CHÚC

1.1.1 Khái niệm thừa kế theo di chúc
Thừa kế di sản nói chung là quá trình dịch chuyển tài sản và quyền sở hữu tài
sản của người đã chết cho người còn sống. Nếu việc dịch chuyển này được thực hiện
trên ý chí tự nguyện của người đã chết thể hiện trong di chúc mà họ để lại thì việc
chuyển dịch này theo phương thức thừa kế theo di chúc. Mặt khác, nếu việc dịch
chuyển được thực hiện theo hàng thừa kế điều kiện và trình tự thừa kế theo pháp luật
quy định thì đó là phương thức dịch chuyển này là thừa kế theo pháp luật.
Thừa kế theo di chúc là sự quy định của pháp luật để xác định khi nào việc dịch
chuyển di sản của người đã chết cho người còn sống đượ thực hiện theo di chúc và


việc thực hiện theo di chúc phải tuân theo ý chí định đoạt của người để lại di sản khi
mà ý chí đó là phù hợp theo quy định pháp luật.

1.1.2 Các điều kiện chia thừa kế theo di chúc
Để di sản được phân chia theo di chúc thì cần phải đáp ứng được các điều kiện
sau:
1


+ Điều kiện thứ nhất: bản di chúc hợp pháp
Một di chúc được coi là hợp pháp khi nó đáp ứng được các điều kiện sau: người
lập di chúc phải là người có năng lực hành vi dân sự; mục đích, nội dung của di chúc
không trái với pháp luật và đạo đức xã hội; người lập di chúc hoàn toàn tự nguyện
và hình thức của di chúc phù hợp với quy định của pháp luật. Ngoài ra do di chúc là
một giao dịch dân sự đơn phương nên BLDS nước ta còn quy định một số vấn đề
khác trong quá trình lập di chúc mà người lập phải tuân theo nhằm tăng cường tính
xác thực của bản di chúc để qua đó bảo vệ ý nguyện của người để lại di sản. Theo
quy định của khoản 3, 4, 5 Điều 652 BLDS thì đối với di chúc của người bị hạn chế
về thể chất hoặc người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản
và công chứng hoặc chứng thực; với di chúc bằng văn bản không có công chứng
hoặc chứng thực phải do chính người lập di chúc viết tay và kí vào bản di chúc; với
di chúc miệng thì người di chúc miệng phải thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước
mặt ít nhất 2 người làm chứng và sau đó họ cùng kí tên hoặc điểm chỉ, trong thời
hạn 5 ngày kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải
được công chứng, chứng thực.
+ Điều kiện thứ hai: di chúc phải phát sinh hiệu lực pháp luật.
Một di chúc hợp pháp, không bị sửa đổi, thay thế hay hủy bỏ vẫn có thể không
có hiệu lực pháp luật vì những ngyên nhân ngoài ý chí của người lập di chúc làm
cho di chúc không thể thực hiện được. Đó là di chúc rơi vào một trong các trường
hợp sau:

Một là người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập
di chúc.
Hai là người thừa kế khước từ quyền hưởng di sản.
Ba là người thừa kế theo di chúc không được quyền hưởng di sản.
Bốn là di sản được xác định trong di sản không còn vào thời điểm mở thừa kế.

1.2 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, PHÂN LOẠI DI CHÚC
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm di chúc
Điều 646 BLDS năm 2005 quy định: “di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân
nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.
2


Di chúc có các đặc điểm sau:
Một là: di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải là của bất cứ chủ thể
nào khác.
Hai là: mục đích của việc lập di chúc là nhằm dịch chuyển sản của người chết cho
người khác đã được xác định trong di chúc.
Ba là: di chúc là loại giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực pháp luật sau khi người lập di
chúc chết.

1.2.2 Phân loại di chúc
Hình thức của di chúc là sự biểu hiện ý chí của người để lại di sản thừa kế ra
bên ngoài thế giới khách quan là sự chứa đựng nội dung của di chúc theo trình tự kết
cấu nhất định. Có hai loại di chúc sau:
- Di chúc bằng văn bản: là loại di chúc được thể hiện dưới dạng chữ viết có
chứng nhận hoặc không có chứng nhận của các cơ quan có thẩm quyền. Di chúc
bằng văn bản có các loại sau:
+ Di chúc bằng văn bản có người làm chứng
+ Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

+ Di chúc bằng văn bản có chứng thực của ủy ban nhân dân xã ,phường, thị trấn
chứng nhận của công chứng Nhà nước.
+ Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng,chứng thực.
- Di chúc miệng: là sự bày tỏ bằng lời nói ý chí của người để lại di sản thừa kế
lúc còn sống trong việc định đoạt khối di sản của mình cho người khác sau khi mình
chết.

1.3 HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
QUA CÁC THỜI KÌ
1.3.1 Hình thức di chúc trong luật Hồng Đức
Pháp luật thời Lê có thừa nhận hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và
thừa kế theo pháp luật. Theo Điều 390 Quốc triều hình luật thì cha mẹ nhiều tuổi về
già phải có trách nhiệm lo làm chúc thư để lại tài sản cho con cái. Di chúc được viết
dưới dạng văn bản được gọi là chúc thư.

3


1.3.2 Hình thức di chúc trong luật Gia Long
So với thời Lê, thời Nguyễn mà cụ thể là trong bộ Hoàng Việt luật lệ có rất ít
các chế định liên quan đến thừa kế. Đối với hình thức thừa kế theo di chúc thì trong
Hoàng việt luật lệ không quy định mà chỉ quy định về người thừa kế theo di chúc có
quyền hưởng di sản sau khi cha mẹ chết ( Mục 10 quyển 6 Hộ luật)

1.3.3 Hình thức di chúc dưới thời pháp thuộc
Pháp luật thời kì này công nhận hai hình thức chia thừa kế là chia theo di chúc
và chia theo pháp luật.

1.3.4 Giai đoạn từ 1945 đến nay
Vấn đề hình thức của di chúc chưa được đề cập nhiều trong pháp luật giai đoạn

1945 đến thời kì đổi mới. Trong Thông tư số 81 hướng dẫn giải quyết tranh chấp về
thừa kế ban hành ngày 24/ 7/1981; Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990; trong Bộ luật
dân sự năm 1995 và trong cả bộ luật dân sự năm 2005 đều quy định về hình thức di
chúc; có 2 hình thức di chúc đó là di chúc miệng và di chúc bằng văn bản.

2.HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
DÂN SỰ NĂM 2005
2.1 DI CHÚC BẰNG VĂN BẢN( Điều 653)
Để bản di chúc thể hiện dưới thể thức bằng văn bản có hiệu lực pháp lí là cơ sở
pháp lí để bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ thể, người lập di chúc cần phải đáp
ứng các yêu cầu về nội dung đối với mọi di chúc viết như sau:
- Di chúc phải ghi rõ ngày tháng, năm lập di chúc
Đây là nội dung hết sức quan trọng và có ý nghĩa thiết thực trong việc xác định
được tại thời điểm đó người lập di chúc có năng lực hành vi dân sự, có minh mẫn
hay không, đã đủ tuổi lập hay chưa? Mặt khác việc xác định ngày tháng nă lập di
chúc nhằm xác định di chúc nào là biểu hiện ý chí sau cùng của người chết và là di
chúc có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra căn cứ vào ngày tháng năm lập di chúc, có thêt
xác định pháp luật hiện hành để điều chỉnh di chúc đó.
- Di chúc phải ghi rõ họ tên, nơi cư trú của người lập di chúc.
Theo quy định của pháp luật thì địa điểm mở thừa kế, nơi đăng kí từ chối nhận
đi sản thẩm quyền giải quyết của Tòa án khi có tranh chấp đều được xác định thông
4


qua nơi cư trú của người lập di chúc do đó trong di chúc phải xác định rõ nơi cư trú
của người lập là điều càn thiết.
- Di chúc phải ghi rõ họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản.
Những người được hưởng thừa kế theo di chúc có thể là tổ chức, cá nhân bất kì,
bằng ý chí của mình, người lập di chúc có thể định đoạt cho bất kì ai được hưởng di
sản của mình.

-Di chúc phải ghi rõ di sản và nới có di sản
Di chúc có ghi rõ di sản thì giúp xác định được người lập di chúc có tài sản nào
và được phân định ra sao. Nhờ vào địa điểm ghi trong di sản mà những người được
thừa kế dễ dàng xác định đươc địa điểm tồn tại di sản sau khi người lập di chúc chết.
- Di chúc phải ghi rõ việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa
vụ. Theo nguyên tắc, tất cả những người thừa kế đều phải thực hiện nghĩa vụ về tài
sản do người chết để lại trên cơ sở tương ứng với kỉ phần tài sản mà họ được
hưởng.
- Di chúc không được viết tắt hoặc viết kí hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi
trang phải được đánh số thứ tự và có chữ kí hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Do di chúc là sự thể hiện ý chí của người chết nên để di chúc được rõ ràng, cụ
thể, tránh sự tranh cãi giữa những người thưà kế sau này thì người lập di chúc không
được viết tắt hoặc dùng kí hiệu để biểu đạt ý chí của mình. Ngoài ra pháp luật còn
quy định để đảm bảo tính khách quan và chính xác cho bản di chúc và ý chí của
người lập trong trường hợp bản di chúc có nhiều trang thì pháp luật yêu cầu người
lập di chúc đánh số trang theo thứ tự và phải kí hoặc điểm chỉ vào từng trang của di
chúc nhằm tránh tình trạng người khác thêm bớt, giả mạo hay thay thế từng trang
của di chúc làm sai lệch ý chí của người lập di chúc.
2.1.1 Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng ( Điều 655)
Người lập di chúc có thể lựa chọn hình thức của di chú c bằng văn bản mà
không cần có người làm chứng. Tuy nhiên, đối với di chúc bằng văn bản không có
người làm chứng này thì: ‘người lập di chúc phải tự viết tay và kí vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng còn phải tuân theo quy
định tại Điều 653 của Bộ luật này”.
5


Như vậy, di chúc bằng văn bản không có người làm chứng là loại di chúc được
lập theo hình thức văn bản do vậy nó phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu mà pháp luật
quy định chung đối với các loại di chúc bằng văn bản theo Điều 653. Ngoài ra, trong

trường hợp người lập di chúc tự mình viết và kí vào bản di chúc mà không có người
làm chứng, không công chứng hoặc chứng thực vẫn có giá trị pháp lí tuy nhiên khi
phân chia di sản theo di chúc, nếu có người không đồng ý đó là di chúc hợp pháp thì
cũng phải giám định chữ viết và chữ kí của người lập di chúc. Do vậy, để đảm bảo
tính xác thực của loại di chúc bằng văn bản không có người làm chứng thì di chúc
phải do chính tự tay người lập di chúc viết và kí tên nên loại di chúc này cần đáp
ứng đủ hai điều kiện nữa đó là : nó phải do chính tay người lập di chúc viết và kí
tên. Nếu một bản di chúc được đánh máy rồi người lập di chúc kí tên thì bản di chúc
đó cũng không được chấp nhận mặc dù đã có chữ kí của người lập di chúc. Hay mặt
khác, nếu bản di chúc đó do chính người lập di chúc viết nhưng lại không kí tên tùy
từng trường hợp xác định giá trị pháp lí của di chúc. Nếu giám định đúng chữ viết
của người lập di chúc thì phải công nhận bản di chúc đó. Nếu giám định di chúc mà
nó không đúng là chữ viết của người lập di chúc thì không được chấp nhận. Mục
đích của quy định nếu di chúc không có người làm chứng, không công chứng, chứng
thực nếu xác định được đúng ý chí của người lập di chúc thì di chúc có giá trị, vì thế
nếu xác định được chữ viết của người lập di chúc đó chính là ý chí của họ và ý chí
này phải được pháp luật công nhận.
Tuy nhiên, mặc dù pháp luật không quy định nhưng đối với trường hợp người
lập di chúc tự tay viết di chúc, kí tên vào bản di chúc thì họ cũng có thể nhờ người
khác làm chứng cho di chúc mà mình đã lập.
Xuất phát từ thực tế là có rất nhiều trường hợp vì một lí do hay trở ngại nào đó
mà người lập di chúc muốn giữ bí mật về nội dung của bản di chúc hoặc do trình độ
hiểu biết chưa cao nên người lập di chúc không được đi công chứng, chứng nhận tại
cơ quan có thẩm quyền hoặc không nhờ bất kì một ai làm chứng. Do đó để thực hiện
đúng nguyên tắc bảo đảm quyền định đoạt của người lập di chúc thì pháp luật vẫn
thừa nhận giá trị pháp lí của di chúc đó nếu nó đáp ứng được các điều kiện trên.

6



Tuy nhiên cũng từ thực tế một vấn đề được đặt ra là vợ chồng có thể lập di chúc
chung theo hình thức di chúc bằng văn bản không có người làm chứng?
Điều 655 BLDS quy định về lập di chúc viết tay của cá nhân: “người lập di
chúc phải tự tay viết và kí vào bản di chúc”. Như vậy, về mặt logic, hai người không
thể cùng lúc viết cùng một nội dung trên cùng một tờ di chúc được. Vậy, phải từng
người viết xong rồi từng người kí vào bản di chức. Vấn đề đặt ra là di chúc do một
người viết và người kia chỉ kí tên vào di chúc thì có hiệu ực pháp luật không? Nếu
chỉ một người viết di chúc toàn bộ rồi cả 2 kí thì không đảm bảo thủ tục lập di chúc
viết tay, dễ dẫn đến sự ngụy tạo chữ kí mà không có cơ sở giám định bút tích người
lập di chúc. Nhưng cả hai viết thì và thay nhau viết bằng chữ viết của chính mình thì
không thể thực hiện được trên thực tế vì như vậy là hai người phải cùng nhau viết
giống nhau về một nội dung thành hai đoạn khác nhau trên cùng một tờ di chúc, nếu
thế thì giống di chúc cá nhân hơn. Một bên cũng không thể ủy quyền cho người kia
thay mặt viết di chúc vì đã trái với nguyên tắc di chúc viết tay phải tự viết trực tiếp
bằng chữ viết tay. Như vậy, di chúc chung của vợ chồng thể hiện được dưới dạng
hình thức văn bản không có người làm chứng là rất khó có thể thực hiện được.
2.1.2 Di chúc bằng văn bản có người làm chứng ( Điều 656)
Xuất phát từ những điều kiện khách quan nên không phải ai cũng có thể tự
mình xác lập di chúc bằng văn bản để định đoạt tài sản của mình cho người khác sau
khi chết. Ví dụ như người lập di chúc biết chữ nhưng không thể tự mình viết bản di
chúc thì vẫn có thể nhờ người khác viết giúp. Vì vậy, để khắc phục tình trạng trên
pháp luật có quy định loại di chúc bằng văn bản có người làm chứng tại Điều 656
BLDS: “trong trường hợp người lập di chúc khong thể tự mình viết bản di chúc thì
có thể nhờ người khác viết , nhưng ít nhất pảh có ít nhất là hai người làm chứng.
Người lập di chúc phải kí hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người
làm chứng, những người làm chứng xác nhận chữ kí, điểm chỉ của người lập di chúc
và kí vào bản di chúc”. Theo quy định, có thể vì lí do nào đấy như người lập di chúc
bị ốm, không biết chữ.. mà không thể tự mình viết di chúc thì họ có thể nhờ người
khác viết di chúc và bản di chúc này vẫn được chấp nhận và có giá trị pháp lí mặc dù
nó không được người lập di chúc viết ra nếu đáp ứng được yêu cầu ở Điều 653,

7


BLDS và yêu cầu sau: khi lập di chúc phải có ít nhất hai người làm chứng và người
lập di chúc phải kí hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng
và đồng thời bản di chúc này phải có chữ kí và sự xác nhận của những người làm
chứng về chữ kí, điểm chỉ của người lập di chúc. Tuy nhiên không phải ai cũng có
thể làm chứng cho việc lập di chúc nên để đảm bảo tính khách quan những người
làm chứng trong di chúc cũng cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn quy định tại Điều 654
BLDS: “mọi người đều có thể làm nhân chứng cho việc lập di chúc, trừ những
người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan đến nội dung di chúc
3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có đủ năng lực hành vi dân sự”.
Nói tóm lại, nếu thiếu một trong những yếu tố đó thì tư cách của người làm
nhân chứng sẽ không được thừa nhận điều này có nghĩa là loại di chúc bằng văn bản
có người làm chứng sẽ không được thừa nhận và không có hiệu lực pháp luật.
Với quy định về loại di chúc bằng văn bản như trên ta có thể dễ dàng nhận thấy
nó sẽ áp dụng để vợ chồng có thể lập di chúc chung dưới hình thức di chúc bằng văn
bản có người làm chứng. Vì:
Di chúc bằng văn bản có người làm chứng của cá nhân cho phép người lập di
chúc được nhờ người khác viết hộ rồi sau đó người xác lập di chúc sẽ xem xét lại và
và kí tên vào bản di chúc trước mặt người làm chứng. Vì vậy, trong trường hợp vợ
chồng muốn lập di chúc chung theo hìn thức này thì chỉ cần hai vợ chồng thống nhất
ý chí với nhau rồi vợ hoặc chồng sẽ viết nội dung của di chúc và kí tên rồi cđưa cho
người kia kí hoặc điểm chỉ vào di chúc trước mặt người làm chứng, cách làm nhưu
vậy hoàn toàn hợp lí với quy định trên: vợ có thể viết hộ chồng hoặc ngược lại.

2.1.3 Di chúc có công chứng hoặc chứng thực( Điều 657, 658)
Ngoài hình thức bằng văn bản có người làm chứng, không có người làm chứng,

người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực vào bản di chúc.
Công chứng, chứng thực di chúc là việc công chứng viên( đối với công chứng),
người có thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân( đối với chứng thực) chứng nhận tính
chính xác tính xác thực, tính hợp pháp của di chúc bằng văn bản mà theo quy định
8


của pháp luật, di chúc phải được công chứng, chứng thực hoặc người lập di chúc tự
nguyện yêu cầu công chứng, chứng thực.
Theo quy định tại Điều 657, 658, 659 BLDS có quy định về các yêu cầu và
trình tự thủ tục lập loại di chúc có công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn như sau: Mục đích của việc công chứng là nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Theo Điều 48 Luật công chứng quy định rõ: “người lập di chúc phải tự
mình yêu cầu công chứng di chúc, không ủy quyền cho người khác yêu cầu công
chứng di chúc” do vậy, người lập di chúc phải tự mình đến cơ quan yêu cầu công
chứng viên công chứng di chúc mà không thể nhờ người khác công chứng hộ. Tuy
nhiên, Điều 39 Luật công chứng năm 2006 quy định thì trong một số trường hợp đặc
biệt viết di chúc sẽ được tiến hành ở nhà mà không nhất thiết phải đến tận cơ quan
công chứng để chứng thực. Trường hợp tự mình đến cơ quan công chứng thì người
lập di chúc phải tự tay mình viết bản di chúc và có yêu cầu công chứng viên chứng
nhận hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực thì người lập di chúc
phải kí vào bản di chúc trước mặt người có thẩm quyền chứng nhận hoặc chứng
thực.
Nếu người để lại di sản đến lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc di chúc do công chứng viên lập tại chỗ ở của
người để lại di sản thì việc lập di chúc sẽ được thực hiện như sau: người lập di chúc
tuyên bố nội dung của di chúc cho công chứng viên hoặc người có thẩm quyền
chứng thực nghe. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực ghi chép

lại đầy đủ nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố trước đó. Sau khi đã xác nhận
công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực đã ghi chép chính xác và thể
hiện đúng ý chí của mình thì người lập di chúc kí hoặc điểm chỉ vào bản di chúc đó.
Sau cùng công chứng viên hoặc người có thẩm quyền sẽ kí vào đó. Tại khoản 2
Điều 658 BLDS quy định nếu trong trường hợp lập di chúc không đọc được hoặc
không nghe được bản di chúc, không kí hoặc không điểm chỉ được thì phải có người
làm chứng, người làm chứng phải đọc lại bản di chúc và nếu thấy việc ghi chép
9


đúng với ý chí nguyện vọng của người lập di chúc thì kí xác nhận vào bản di chúc
trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền.
Ngoài ra, công chứng viên và người có thẩm quyền chứng thực tại Uỷ ban
nhân dân cũng phải đáp ứng yêu cầu quy định tại Điều 69 BLDS về người không
được công chứng, chứng thực để đảm bảo tính khác quan cho di chúc. “công chứng
viên, người có thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn không được
công chứng, chứng thực đối với di chúc nếu họ là:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc thoe pháp luật của người lập di chúc
2. Người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc của người
lập di chúc.
3. Người có quyền và nghĩa vụ vè tài sản liên quan đến nội dung di chúc”.
2.1.4 Di chúc bằng văn bản có gía trị như di chúc được công chứng, chứng thực
( Điều 660)
Ngoài hình thức bằng văn bản có người làm chứng, không có người làm chứng,
người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực vào bản di chúc.
Công chứng, chứng thực di chúc là việc công chứng viên( đối với công chứng),
người có thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân( đối với chứng thực) chứng nhận tính
chính xác tính xác thực, tính hợp pháp của di chúc bằng văn bản mà theo quy định
của pháp luật, di chúc phải được công chứng, chứng thực hoặc người lập di chúc tự
nguyện yêu cầu công chứng, chứng thực. Ngoài ra để đáp ứng được di chúc có hiệu

lực và đáp ứng được thực tế khách quan trong một số hoàn cảnh đặc biệt đó yêu cầu
của công việc, do tình trạng sức khỏe, do đang phải thực hiện nghĩa vụ mà một số cá
nhân có nhu cầu lập di chúc nhưng không thể lập di chúc có chứng thực được. Vì
vậy, Điều 660, BLDS đã quy định các di chúc nếu có xác nhận của cơ quan có thẩm
quyền cũng có giá trị như di chúc được chứng nhận, chứng thực là những di chúc
sau:
- Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại
đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng chứng thực được.
Xuất phát từ lí do làm cho người lập di chúc không thể yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền chứng nhận hoặc chứng thực di chúc là: do người lập di chúc là quân
10


nhân đang làm nhiệm vụ, đóng quân xa ở nơi công chứng và ủy ban nhân dân cấp
xã, phường, thị trấn hoặc là do nhiệm vụ đặc biệt mà quân nhân đó không thể đi
công chứng, chứng thực được mặc dù nơi công chứng, chứng thực gần nơi đóng
quân. Mặt khác quyền lập di chúc là quyền luôn được pháp luật ưu tiên bảo đảm
thực hiện vì vậy với những lí do đó cá nhân không thể lập di chúc theo thủ tục có
chứng nhận được thì di chúc của họ chỉ cần có xác nhận vẫn có hiệu lực.
- Di chúc của người đang đi trên máy bay, tàu biển có xác nhận của người chỉ
huy phương tiện đó.
Quy định này mang tính chất dự phòng do đặc thù của hai loại phương tiện
không có khả năng tiến hành công chứng và chứng thực tại cơ quan có thẩm quyền
khi mà hai phương tiện này chưa hạ cánh hoặc chưa cập bến.
Do vậy, trong trường hợp cá nhân đang đi lại hoặc làm việc trên hai loại
phương tiện này nếu có nhu cầu làm di chúc thì chỉ cần Cơ trưởng hoặc Thuyền
trưởng có thẩm quyền xác nhận di chúc trong lúc máy bay hoặc tàu biển chưa cập
bến và hạ cánh là bản di chúc đó cũng được thừa nhận.
- Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng
khác khi có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó.

- Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu vùng
rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị.
- Di chúc của cong dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ
quan lãnh sự, đại diện cho ngoại giao ở nước đó
- Di chúc của người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, người đang
chấp hành các biện pháp xử lí hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác
nhận của người phụ trách cơ sở đó.
Từ những phân tích trên, ta thấy, những cá nhân muốn lập di chúc trong các
trường hợp hoàn cảnh nói trên khi họ cho rằng tình trạng, sức khỏe tính mạng của
mình đang bị đe dọa không cho phép họ chờ để lập một bản di chúc theo trình tự thủ
tục khác… Do đó, có một vấn đề được đặt ra cho các di chúc được lập ra trong hoàn
cảnh đó là sau khi di chúc được xác lập và có xác nhận rồi nhưng những hoàn cảnh

11


nói trên đã không còn thì hậu quả pháp lí của di chúc đó như thế nào thì vẫn chưa
được quy định trong pháp luật.

2.2 DI CHÚC MIỆNG( Điều 651, khoản 5 Điều 652)
Di chúc miệng là sự thể hiện ý chí thông qua lòi nói của cá nhân nhằm chuyển
dịch tài sản của mình cho người còn sống khác sau khi họ chết. Không phải bất cứ
cá nhân nào cũng có thể được lập di chúc miệng.
Xuất phát từ thực tế có nhiều trường hợp cá nhân rơi vào tình trạng không thể
lập di chúc viết được khi mà khi muốn dịch chuyển tài sản của họ cho người thừa kế
theo ý chí của họ. Do vậy, để đảm bảo một cách tuyệt đối quyền định đoạt tài sản
của mình cho người khác sau khi chết dù không được thể hiện theo hình thức viết thì
nó vấn được thừa nhận là một di chúc hợp pháp. Tuy nhiên, Di chúc này phải tuân
thủ nghiêm ngặt các yêu cầu mà pháp luật đã quy định như sau:
Theo quy định tại Điều 651 BLDS ; “Trong một số trường hợp tính mạng một

người đã chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà khoogn thể lập di
chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”
Mặt khác, theo quy định tại khoản 5 Điều 652 BLDS : “di chúc miệng được coi
là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít
nhất là hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại,
cùng kí tên hoặc điểm chỉ. Trong thời gian năm ngày, kể từ ngày người di chúc
miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng
thực”.
Với quy định trên ta nhận thấy chỉ khi nào tính mạng của một người lâm vào
tình trạng nguy kịch không lập được di chúc bằng văn bản được vì nếu lập bằng văn
bản thì sẽ không kịp để họ thể hiện ý chí nguyện vọng cuối cùng của họ trong việc
dịch chuyển tài sản của mình sang cho người khác sau khi họ chết nên buộc phải di
chúc miệng và di chúc này sẽ được thừa nhận. Tuy nhiên, do ý chí được thể hiện
thông qua lời nói nên tính xác thực của nó không cao, dễ bị phản bác và xảy ra tranh
chấp vì vậy pháp luật đã quy định sự thể hiện ý chí bằng lời nói của người để lại di
sản phải là sự thể hiện cuối cùng và có sự chứng kiến của ít nhất của hai người làm
chứng và phải chỉ người làm chứng ghi lại thành văn bản lời di chúc đó. Mặt khác,
12


do di chúc đó không có chữ kí hoặc điểm chỉ của người lập di chúc và người lập di
chúc đó cũng không thể kiểm tra việc ghi chép của người làm chứng được nên điều
này ảnh hưởng đến tính xác thực của văn bản ghi chép lại di chúc miệng. Vì vậy, để
đảm bảo tính xác thực của di chúc pháp luật cũng quy định thêm khi những người
làm chứng ghi chép lại và kiểm tra xác nhận trên đúng với sự thể hiện ý chí của
người chết thì họ sẽ cùng kí tên hoặc điểm chỉ vào bản di chúc đó. Đồng thời, cũng
trong thời gian năm ngày, kể từ ngày người lập di chức miệng thể hiện ý chí cuối
cùng thì di chúc phải được công nhận hoặc chứng thực. Chúng ta thấy rõ đây là
điểm mới cuả bộ luật dân sự năm 2005 so với Bộ luật dân sự năm 1995 tuy nhiên
đây lại có một vấn đề đặt ra là khi di chúc miệng đã được lập đúng theo quy định

của BLDS 2005 thì di chúc miệng đó có được coi là di chúc bằng văn bản được
công chứng, chứng thực hay không? Hiện có hai quan điểm giải quyết vấn đề này:
Quan điểm 1: cho rằng mặc dù là di chúc miệng nhưng di chúc miệng này đã
được công chứng, chứng thực nên nó có gía trị như di chúc bằng văn bản được công
chứng, chứng thực. Vì:
Về nội dung: di chúc miệng và di chúc bằng văn bản được công chứng , chứng
thực đều thể hiện quyền định đoạt của chủ sở hữu tài sản nhằm chuyển tài sản cho
người khác sau khi chết nhằm thể hiện ý chí tự nguyện của người có di chúc.
Về hình thức, trong số các loại di chúc bằng văn bản thì chỉ có di chúc bằng
văn bản không có người làm chứng mới yêu cầu người lập di chúc phải tự tay viết di
chúc còn lại các loại văn bản di chúc khác thì pháp luật không bắt buộc phải có điều
này. Di chúc bằng văn bản được công chứng, chứng thực chỉ khác di chúc miệng ở
chỗ di chúc bằng văn bản được công chứng , chứng thực thì người lập di chúc phải
kí tên hoặc điểm chỉ vào di chúc còn di chúc miệng thì người lập di chúc không thể
kí vào hoặc điểm chỉ vào bản di chúc vì có nguyên nhân khách quan. Hơn nữa, di
chúc miệng đã được công chứng, chứng thực nên độ tin cậy của nó tường đương với
di chúc bằng văn bản đã được công chứng, chứng thực.
Quan điểm thứ 2 cho rằng: di chúc miệng là một loại di chúc đặc biệt chỉ được
ra đời trong trường hợp nhất định được pháp luật quy định. Việc pháp luật quy định
di chúc miệng phải được công chứng, chứng thực không có ý nghĩa là di chúc miệng
13


và di chúc bằng văn bản có công chứng, chứng thực là hai hình thức như nhau. Mà
việc pháp luật quy định di chúc miệng phải được công chứng, chứng thực chỉ nhằm
mục đích xác nhận sự kiện pháp lí có di chúc miệng. Đối với di chúc bằng văn bản,
người lập di chúc phải đọc đi đọc lại hoặc nghe lại di chúc và phải kí tên hoặc điểm
chỉ vào di chúc còn đối với di chúc bằng miệng thì pháp luật không bắt buộc người
lập di chúc phải đọc lại hoặc nghe lại di chúc do vậy độ tin cậy về sự thể hiện đúng ý
chí của người lập di chúc của ản di chúc bằng văn bản cao hơn so với di chúc miệng.

Việc nhận thức, hiểu đúng các quy định về di chúc miệng có ý nghĩa quan trọng
trong cả lí luận cũng như thực tiễn vì nó liên quan đến đánh giá hiệu lực của di chúc
để từ đó làm cơ sở cho việc giải quyết phân chia di sản theo thừa kế hoặc theo pháp
luật. Vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng về hai hình thức đó tránh việc đồng nhất
giữa di chúc miệng và di chúc bằng văn bản có công chứng, chứng thực. Trong hai
quan điểm đó thì em đồng ý với quan điểm thứ hai vì nó có căn cứ xác thực về mặt
khoa học pháp lí.
Mặt khác, do di chúc miệng là một hình thức di chúc đặc biệt nên pháp luật quy
định di chúc miệng với thủ tục đặc biệt chặt chẽ. Theo khoản 2 Điều 651 BLDS có
quy định: “ sau ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống,
minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ”. Nếu người di chúc
miệng chỉ sống được dưới ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng thì có gía trị pháp
lí, còn nếu người di chúc miệng sống được trên ba tháng và phải còn minh mẫn,
sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ. Bởi vì khi mà người di chúc miệng
đã thoát khỏi hoàn cảnh đặc biệt, tính mạng của họ không còn bị đe dọa tinh thần
minh mẫn, sáng suốt thì họ sẽ có điều kiện để lập bản di chúc khác có tính xác thực
và tính pháp lí cao hơn. Do vậy, hiểu thế nào là minh mẫn, sáng suốt thì rất quan
trọng, cần thiết. Minh mẫn được hiểu là làm chủ được hành vi của mình, hiểu được
mình muốn gì và cần gì một cách độc lập mà không có sự can thiệp của người khác;
sáng suốt được hiểu là thể hiện trong việc độc lập suy nghĩ, nhận xết các đánh giá sự
việc xung quanh mình và không có sự nhầm lẫn bất thường giữa sự việc này với sự
việc kia, giữa người này với người kia. Như vậy, có thể hiểu người còn minh mẫn,
sáng suốt là người còn nhận biết được rõ ràng các mối quan hệ xã hội và có cảm
14


giác tương tự như người bình thường đối với cùng một sự việc, hiện tượng. Như
vậy, vấn đề thời gian, sự nhận thức của người di chúc miệng sau khi có di chúc là
vấn đề quan trọng quyết định đến hiệu lực của di chúc.
Mặt khác, với quy định về di chúc miệng như trên thì một vấn đề nữa được đặt

ra là vợ chồng có thể cùng nhau lập di chúc chung bằng miệng không.
Theo như quy định tại Điều 651 BLDS thì ta thấy việc lập di chúc miệng chỉ
dành cho cá nhân. Do đó, vợ chồng không thể cùng nhau lập di chúc chung bằng
miệng được bởi cá lí do sau:
Thứ nhất, muốn lập di chúc chung vợ chồng phải có sự bàn bạc và thống nhất ý
chí chung trước khi cùng nhua lập di chúc. Trong tình trạng bị cái chết đe dọa thì
điều này là khó thực hiện trên thực tế. Mà khi không có sự thống nhất quan điểm rõ
ràng khi lập di chúc thì việc lập di chúc chung sẽ không thể phản ánh đầy đủ và
trung thực ý chí cá nhân của mỗi người. Tình trạng này dễ dẫn đến việc một bên
quyết định bội dung di chúc theo ý chí chủ quan của người này mà không có sự
thông nhất ý chí của người kia.
Thứ hai, di chúc miệng quy định thủ tục lập là người lập di chúc sẽ có thể hiện
ý chí trực tiếp của mình trước mặt hai người làm chứng, vì vậy điều này không cho
phép hai người phát biểu ý kiến cùng một lúc trước hai người làm chứng mà phải
từng người phát biểu. Như vậy thì sự bày tỏ ý chí chung sẽ được biểu đạt bằng cách
nào? Nếu từng người bày tỏ riêng về ý nguyện của mình, thì vô hình dung nó lại trở
thành di chúc cá nhân, còn nếu một người đại diện trình bày ý chí chung và người
kia đồng ý toàn bộ thì cũng giống như đã ủy quyền lập di chúc mà như vậy thì lại vi
phạm nguyên tắc lập di chúc trực tiếp. Hơn nữa, trong hoàn cảnh đặc biệt cả hai vợ
chồng đang bị cái chết đe dọa, để một người biểu ý chí chung cho người kia nghe và
hoàn toàn đồng ý, là không thực tế.
Thứ ba, với quy định tại Khoản 2 Điều 651 BLDS thì một vấn đề nữa xảy ra
đối với di chúc chung là 3 tháng kể từ ngày lập di chúc miệng mà một người chết và
một người còn sống, thì toàn bộ di chúc miệng hoặc một phần di chúc miệng liên
quan tới người sống thì có còn giá trị nữa hay không?

15


Trong khi đó, tại Điều 668 BLDS quy định : “di chúc chung của vợ chồng có

hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặ tại thời điểm vợ chồng cùng chết’.
Như vậy, di chúc chung chỉ có hiệu lực khi cả hai người đều đã chết.
Thứ tư, đang trong hoàn cảnh đặc biệt, trước sự sống, cái chết của cả hai người,
việc tiếp nhận và ghi nhó ý nguyện của mỗi người có thể sẽ không đầy đủ, không
chính xác. Bởi ý nguyện của người chết lại không được thể hiện thành một dạng vật
chất định hình rõ ràng và cố định, rất dễ quên và cũng dễ bị sửa đổi mà lại không có
chứng cứ xác đáng thể hiện sự đồng thuận giữa vợ và chồng. Vì vậy, việc chứng
minh sự đòng thuận giữa vợ và chồng trong trường hợp này sẽ không đảm bảo được
tối đa tính trung thực, khách quan.
Chính vì thế, việc cho phép vợ chồng lập di chúc bằng di chúc miệng sẽ trở nên
phức tạp và không đảm bảo sự an toàn pháp lí cho quyền lợi ích chính đáng của
người lập di chúc cũng như người thừa kế của họ.
3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT PHÂN CHIA DI SẢN THEO DI
CHÚC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC
CỦA DI CHÚC

3.1 Thực trạng phân chia di sản theo di chúc
3.1.1. Trong trường hợp di chúc lập do người làm chứng không đủ điều kiện
Ví dụ: bản án số 12/2008/DSST ngày 19/7/2008,của Tòa án nhân dân huyện
Nam Trực đã xử chia thừa kế:
Nguyên đơn là cụ Phạm Thị T( Người được nguyên đơn ủy quyền là Phạm Thị
K), Bị đơn là Phạm Thanh S.
Người có quyền nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn huyện Nam Trực, chi nhánh ngân hàng cấp 3 do Nguyễn Thị Vân đại diện
Nội dung:
Cụ Phạm Thị T và cụ Phạm Văn V có 5 người con là Phạm thị B, Phạm Thị K
và Phạm Thị Y, ông Phạm Thanh S và Phạm Thị L. Năm cụ Phạm Văn V mất
không để lại di chúc. Tất cả anh chị em đều lập gia đình chỉ có bà L và bà B không
xây dựng gia đình và ở với bố mẹ. Khi còn sống, 11/2006 bà B gửi tại ngân hàng 50
triệu đồng. Ngày 28/7/2007, bà B qua đời không để lại di chúc. Hằng ngày bà B nói

16


số tiền trên để lại nuôi mẹ và em út. Tại phiên Tòa, bà K đề nghị xác lập quyền thừa
kế cho cụ Phạm Thị T đối với 50 triệu đồng trên. Ông Phạm Thanh S trình bày,
trước khi mất, bà B nói dành số tiền trên để ông hương khói cho bà B. Bà B đã đọc
nọi dung trên cho ông viết sau đó bà B kí vào văn bản, trong di chúc có chữ kí của
ông S và ông C ( hàng xóm). Vậy ông S đề nghị được quản lí số tiền trên.
Theo đề nghị, Toà án đã trưng cầu giám định số 01/ 2008,QĐGĐ-TA Ngày
1-/6/2008 giám định chữ kí của B tại thẻ lưu số tiết kiệm mã số AA 1683764 ngày
31/6/ 2006 và chữ kí B trong bản di chúc. Qua giám định cho thấy hai chữ kí đó do
hai người khác nhau viết ra. Mặt khác, theo Điều 656 BLDS, trong trừơng hợp
người lập di chúc không thể tự viết bản di chúc thì nhờ người khác viết hộ nhưng
phải có ít nhất 2 người làm chứng và người lập di chúc phải kí hoặc điểm chỉ vào
bản di chúc, sau đó người làm chứng kí xác nhận. Theo quy định tại Điều 654 BLDS
thì ông S không đủ điều kiện người làm chứng vì ông thuộc người có qyền lợi liên
quan đến thừa kế. Do đó, Hội đồng xét xử không thừa nhận bản di chúc trên, di chúc
dó không có hiệu lực pháp luật nên di sản được chia theo pháp luật.
Qua vụ án trên ta thấy, quyết định tòa án tuyên di chúc bà B không có hiệu lực
pháp luật là đúng. Mặc dù di chúc đã được lập đúng về mặt thủ tục theo hình thức di
chúc bằng văn bản có người làm chứng xong nhưng điều quan trọng ở đây là Tòa
xác định tư cách người làm chứng là vi phạm pháp luật nên không được công nhận.
Vậy quyết định trên hoàn toàn đúng.
3.1.2 Di chúc lập không đúng thủ tục, trình tự theo pháp luật
Bản án số 12/2009/DSST ngày 22/9/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Nam
Định đã xử chia thừa kế với:
Nguyên đơn là bà Phan Thị Thịnh, Bị đơn là Nguyễn Quang Thanh, Nguyễn
Quang M, Nguyễn Thị Hồng.
Nội dung vụ án: bà Trần Thị Giang có 4 người con là Nguyễn Quang Thanh,
Nguyễn Quang Mạnh, Nguyễn Thị Hồng và Phan Thị Thịnh do 4 người bố khác

nhau sinh ra, họ đã mất trước bà Giangr. Tháng 1/ 2007, bà Giangr mất để lại di sản
là thửa đất tại số 2 Phạm Hồng Thái, Nam Định, trên đất có nhà 2 tầng. Sau khi bà
Giảng mất, bà Hồng đưa ra bản di chúc đánh máy lập ngày 3/10/ 2006, nói là bà
17


Giangr để lại. Theo di chúc, bà Giang chia toàn bộ nhà đất làm 3 phần cho Nguyễn
Quang Mạnh, Nguyễn Quang Thanh và Nguyễn Thị Hồng. Cuối bản di chúc có chữ
kí , điểm chỉ và tên bà Giang, ngoài ra có chữ kí của bà Hồng, ông Thanh và chữ kí
cán bộ phường Bà Triệu. Bà Thịnh đề nghị Tòa hủy bản di chúc.
Theo đương sự, bà Giang lập bản di chúc “giấy di chúc ủy quyền” ngày
3/10/2006 được đánh máy và có chữ kí, dấu vân tay điểm chỉ người lập, ngoài ra có
chữ kí người làm chứng là 3 con bà và cán bộ địa chính. Nhưng theo lời khai cán bộ
thì bà Giang cùng bà Hồng, ông Thanh mạng di chúc đánh máy sẵn đến phường xin
xác nhận và ông Thanh, bà Hồng đã kí vào.
Sau khi xem xét, Tòa án tuyên hủy bản di chúc này và chia di sản theo pháp
luật. Ta thấy, quyết định trên của Tòa án là phù hợp.
3.1.3 Di chúc miệng không đúng thủ tục
Nội dung vụ án: vợ chồng ông Trần Văn T và bà Phạm Thị X có 5 người là
Trần Văn , Trần Văn N, Trần Thị M, Trần Văn D và Trần Thị V. Năm 2005, ông T
chết và năm 2007, bà X chết, 2 ông bà không để lại di chúc bằng văn bản. Khi bà X
ốm nặng, bà gọi các con lại để phân chia di sản. Sau khi bà X chết, ông Trần Văn N
yêu cầu chia thừa kế theo di chúc miệng của bà X khi còn sống.
Vụ tranh chấp được Tòa án huyện Tân Kì thụ lí số 05/2009/TL DSST ngày
28/4/2009 và ra bản án số 09/2009/DSST ngày 30/7/2009 trong đó tào quyết định
không chấp nhận di chúc miệng của bà X và quyết định chia thừa kế theo pháp luật
vì di chúc miệng của bà X không được những người làm chứng viết lại bằng văn bản
và đi công chứng, chứng thực, mặt khác bà X cũng sống thêm được trên 3 tháng kể
từ thời điểm di chúc miệng được lập. Ta thấy quyết định đó của Tòa án là hoàn toàn
đúng và phù hợp với quy định của pháp luật.

3.1.4 Thừa kế có các ý kiến khác nhau về di chúc
Ông Hoàng Văn T và bà Nguyễn Thị H có 3 người con là Hòang Văn D, Hoàng
Mạnh K và Hoàng Thị L. Năm 200, bà H mất không để lại di chúc, năm 2007, ông T
mất có để lại di chúc bang văn bản do ông tự viết và kí tên vào ngày 3/11/2006. Khi
viết, tình trạng ông còn minh mẫn, cuối di chúc có chữ kí của ông. Bà H cho rằng di

18


chúc có kí hiệu mà người thừa kế có các cách hiểu khác nhau nên yêu cầu tòa án
không thừa nhận di chúc và chia thừa kế theo pháp luật.
Tại bản án số 02/2008/ DSST ngày 2/1/2008 của Tòa án nhân dân huyện Tiền
Hải, Nghệ An quyết định, phần di chúc có chữ kí viết bằng kí hiệu do không ảnh
hưởng đến toàn bộ nội dung bản di chúc nên chỉ có một phần bản di chúc có kí hiệu
không có hiệu lực pháp luật và phần di sản đó chia theo pháp luật. Những phần khác
không bị ảnh hưởng hưởng nên vẫn chia thừa kế theo di chúc.
Qua bản quyết định đó ta thấy quyết định của Tòa án nhân dân huyện là hoàn
toàn chính xác và đã đảm bảo được quyền lợi của những người thừa kế và ý chí
nguyện vọng của người để lại di chúc đã được thực hiện.

3.2.Phương hướng hoàn thiện quy định pháp luật về hình thức di
chúc
3.2.1 Đối với di chúc có chữ viết tắt hoặc viết bằng kí hiệu
Theo khoản 2 Điều 635 BLDS thì đây là quy định mang tính chất định hướng
với mục đích hướng dẫn người dân lập di chúc không nên viết tắt hoặc viết bằng kí
hiệu để tránh sự hiểu nhầm hiểu sai ý chí của người lập di chúc dẫn đến tranh chấp
không đáng có giữa những người thừa kế. Có tình trạng trên là do quy định chưa
chặt chẽ vẫn có thể hiểu theo nghĩa khác là: nếu di chúc có viết tắt hoặc có kí hiệu
thì di chúc đó không có hiệu lực pháp luật. Theo em cần khắc phục tình trạng trên
thì cơ quan cần ban hành hướng dẫn theo hướng:

Nếu di chúc có chữ viết tắt hoặc kí hiệu mà toàn bộ những người thừa kế đều
hiểu theo cùng 1 ý nghĩa thì di chúc vẫn sẽ phát sinh hiệu lực.
Nếu trong di chúc có chữ viết tắ hoặc có kí hiệu mà người thừa kế khác nhau
không có sự thống nhất thì có 2 hướng: di chúc có nhiều phần chữ viết tắt, kí hiệu
chỉ ảnh hưởng đến phần đó thì chỉ có phần đó không có hiệu lực còn những phần
còn lại vẫn có hiệu lực. Nếu phần viết tắt, kí hiệu đó ảnh hưởng đến toàn bộ di chúc
thì di chúc đó sẽ không có hiệu lực.
3.2.2 Di chúc miệng
Để đảm bảo tính khách quan khi di chúc miệng được mang đi công chứng,
chứng thực thì cần hoàn thiện theo hướng:
19


Nếu người di chúc miệng sau khi di chúc miệng còn sống mà họ không muốn
lập di chúc mới và họ có khả năng mang di chúc miệng đi công chứng và chứng
thực thì người di chúc miệng phải tự mình mang di chúc miệng đi công chứng hoặc
chứng thực.
Nếu người di chúc miệng không còn sống hoặc còn sống nhưng không có khả
năng mang đi công chứng, chứng thực thì người có nghĩa vụ mang đi công chứng
chứng thực sẽ phải là một trong những người làm chứng trong di chúc miệng.
3.2.3. Quy định chất liệu thể hiện hình thức di chúc
Vấn đề quan trọng đặt ra là những di chúc được thể hiện trên những chất liệu
khác nhau, phương tiện khác nhau thì có được thừa nhận hay không? Điều này đang
bị bỏ ngỏ, pháp luật chưa có một quy định nào điều chỉnh. Theo em để giải quyết
vấn đề này cần bám sát tiêu chí là tính khách quan và tính xác thực của bản di chúc.
3.2.3 Hình thức di chúc chung của vợ chồng
Theo em chúng ta cần tách di chúc chung của vợ chồng ra khỏi di chúc của cá
nhân và xây dựng thành một mục riêng trong chương thừa kế theo di chúc.
Vì vậy, thiết nghĩ nên quy định về hình thức bắt buộc mà di chúc chung cần
tuân thủ. Chỉ nên lập di chúc chung bằng thể thức văn bản có người làm chứng hoặc

văn bản có công chứng, chứng thực.

III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Ý chí tự nguyện của người lập di chúc phải được thể hiện ra bên ngoài dưới
một hình thức nhất định. Hình thức của di chúc là nguồn của chứng cứ được sử dụng
để chứng minh ý chí đích thực của người lập di chúc về việc định đoạt tài sản. Qua
những phân tích trên về các hình thức di chúc , ta có thể thấy rằng, để quyền và lợi
ích của những người được hưởng thừa kế được bảo đảm và nhằm tuân thủ, thực
hiện đúng ý chí, nguyện vọng của người đã chết về cách định đoạt tài sản thì di chúc
đó để lại phải có hiệu lực pháp luật trên thực tế. Để có được điều đó, trước tiên, các
chủ thể có liên quan cần phải biết rõ các quy định pháp luật về vấn đề di chúc, đồng
thời, các cơ quan có thẩm quyền cũng cần nhìn nhận và hiểu biết rõ về pháp luật để
giải quyết các tranh chấp về chia thừa kế theo di chúc được đúng đắn và hợp lí hơn.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1, TS Nguyễn Minh Tuấn, pháp luật thừa kế của Việt Nam, những vấn đề
lí luận và thực tiễn, Nxb. Lao Động, 2009.
2, Hình thức di chúc, một số vấn đề lí luận và thực tiễn, luận văn tốt
nghiệp, Nguyễn Thị Lí, 2010.
3, TS. Phùng Trung Tập, luật thừa kế Việt Nam, Nxb. Hà Nội, 2008.
4, Bộ quốc triều hình luật.
5, TS Phùng Trung Tập, thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam
từ năm 1945 đến nay, Nxb Tư pháp, Năm 2004.

21



MỤC LỤC:
I.

ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………..

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ……………………………..
1. LÍ LUẬN VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC, HÌNH THỨC DI CHÚC

1.1Thừa kế theo di chúc…………………………………………..
1.1.1 Khái niệm thừa kế theo di chúc…………………………………………….
1.1.2 Các điều kiện chia thừa kế theo di chúc…………………………………..

1.2Khái niệm, đặc điểm, phân loại di chúc……………………...
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm di chúc……………………………………………….
1.2.2 Phân loại di chúc…………………………………………………………….

1.3Hình thức di chúc của pháp luật Việt Nam qua các thời kì...
1.3.1 Hình thức di chúc trong Luật Hồng Đức………………………………...
1.3.2 Hình thức di chúc trong Luật Gia Long…………………………………..
1.3.3 Hình thức di chúc dưới thời pháp thuộc…………………………………..
1.3.4 Hình thức di chúc trong giai đoạn từ năm 1945 đến nay ………………
2. HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
DÂN SỰ NĂM 2005……………………………………………………..

2.1 Di chúc bằng văn bản…………………………………………
2.1.1 Di

chúc

bằng


văn

bản

không



người

làm

chứng

………………………
2.1.2 Di chúc bằng văn bản có người làm chứng………………………………
2.1.3 Di chúc có công chứng hoặc chứng thực………………………………….
2.1.4

Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc công chứng, chứng thực.

2.2 Di chúc miệng ………………………………………………..
3. THỰC TRẠNG PHÂN CHIA DI SẢN THEO DI CHÚC VÀ HOÀN
THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC DI CHÚC………...

3.1 Thực trạng phân chia di sản theo di chúc ………………….
3.2 Hoàn thiện quy định pháp luật về hình thức di chúc …........
22



III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ………………………………..

23


24



×